Tôn giáo và Triết lý
Đoạn sau đây được trích từ cuốn SELF-KNOWLEDGE (Àtmabodha) của đại sư Swami Nikhilananda (1895-1973) ; nxb Ramakrishna-Vivekanada Center, New York, bản in lần thứ 5 năm 2005:
“In Sankrit, philosophy is called darśana, derived from the root driś, meaning to see. The purpose of philosophy is to enable its students to see Truth directly. Therefore, with the Hindus, philosophy is not a mere intellectual pursuit of an abstract ideal, the actual perception or realization of Truth. In the West, especially since the beginning of the modern era, philosophy has been divorced from religion.
(...) Religion insists on faith; philosophy emphasizes reason. Religion without philosophy tends to become dogmatic, superstitious, and jejune. Philosophy without religion degenerates into inane and dry intellectualism. These are two functions of our thinking mind and, if followed sincerely, often cross each other’s path.
(...) Therefore, the Hindu seers harmonized, in Vedānta, both religion and philosophy, faith and reason; and this fact account for its adequacy and universality. ”
(sđd. trang 14-15-16)
Tạm dịch:
" Trong Phạn ngữ, triết học được gọi là [b]darśana, từ ngữ-căn driś, nghĩa là THẤY. Mục đích của triết lý là làm cho các đệ tử thấy được CHÂN LÝ một cách trực tiếp. Do đó, triết lý đối với người Ấn giáo không chỉ là sự theo đuổi một lý tưởng trừu tượng bằng sự vận dụng trí não mà còn là sự chứng thực được CHÂN LÝ. Tây phương, đặc biệt kể từ đầu kỷ nguyên hiện đại, triết lý đã ly khai với tôn giáo.
(...) Tôn giáo khẳng định đức tin; triết lý thì nhấn mạnh lý lẽ. Tôn giáo không có triết lý trở nên giáo điều, mê tín và tẻ nhạt; còn triết lý không có tôn giáo sẽ biến thành khô cằn và thiên về lý trí khô khan.
(...) Do đó các vị thấu thị Ấn giáo, theo Vedānta, đã hòa hợp được cả hai tôn giáo và triêt lý, đức tin và lý lẽ; điều này giải thích được tính thỏa đáng và phổ quát của nó. "
[/b]
*********************************************
Xin mở ngoặc:
Đại sư Nikhilananda (1895-1973) chào đời nơi một một làng nhỏ ở Ấn Độ và trở thành tu sĩ thuộc Dòng tu Ramakrishna năm 1924. Sau nhiều năm tu học Ấn giáo và nghiên cứu các hệ thống triết lý và các tôn giáo ở tu viện thuộc Dòng tu này trong rặng Hi-mã-lạp-sơn (Himalaya), ngài được gửi sang Hoa Kỳ năm 1931. Nơi đây ngài thành lập Trung tâm Ramakrishna-Vivekananda New York năm 1933 và cũng là vị lãnh đạo tinh thần cho đến khi qua đời.
Ngài là tác giả của rất nhiều tác phẩm và cũng đã được dịch sang nhiếu thứ tiếng như: Anh, Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Hòa Lan, Nhật. Trong đó đáng chú ý nhất là The Gospel of Sri Ramakrishna [/i](Phúc Âm của Đức Ramakrishna) dịch từ nguyên bản chữ Bengali, năm 1942, dày ngót 1100 trang khổ lớn, được in đến lần thứ 10 năm 2007 tại Hoa Kỳ; một tác phẩm mà tạp chí TIME gọi là [i]“Một trong những văn bản tôn giáo phi thường nhất của thế giới” (One of the world’s most extraordinary religious documents), chưa kể bộ Bí Truyền Kinh hay Áo Nghĩa Thư (UPANIṢAD) của ngài dịch từ chữ Sanskrit sang Anh ngữ & chú giải, trong 4 tập dày khoảng 1500 trang. Riêng cuốn SELF-KNOWLEDGE (Àtmabodha) đã được văn hào W. Somerset Maugham khen là “a wonderful piece of exposition” (Tuyệt phẩm diễn giảng một học thuyết).
Tây đô, May 20th 2018, chiều nhạt nắng
ĐKP
CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
भक्तिवेदन्तविद्यारत्न |