KINH DI-LẶC (2)
If man doesn’t radically change, fundamentally bring about a mutation in himself, we will destroy ourselves. A psychological revolution is possible now, not a thousand years later. We’ve already had thousands of years andwe’re still barbarians. So if we don’t change now we’ll still be barbarians tomorrow or thousand tomorrows.
(Krishnamurti: His Life and Death, nxb St. Martin’s Press,
New York, 1990; tr. 212)
(Nếu con người không thay đổi tận căn đễ, không tạo ra một sự thay đổi toàn triệt nào trong chính mình, thì chúng ta sẽ tự hủy diệt chúng ta. Một cuộc cách mạng tâm thức có thể ngay bây giờ được rồi đấy, không phải [đợi đến] một ngàn năm sau. Vì thế, ngay bây giờ nếu chúng ta không thay đổi, chúng ta vẫn sẽ là những kẻ man rợ cho ngày mai hoặc một ngàn cái ngày mai nữa mà thôi.) ĐKP dịch.
Nói thêm tí nhé. Từ ngữ “man rợ” làm tôi nhớ đến “Bài Ca Man Rợ” sau đây của thi sĩ Đinh Hùng (1920-1967) mở đầu cho tập thơ MÊ HồN CA, (nxb Tiếng Phương Đông, Saigon, 1954) ; xin trích vài đoạn:
Lòng đã khác ta trở về Đô Thị,
Bỏ thiên nhiên huyền bí của ta xưa.
Bóng ta đi trùm khắp lối hoang sơ,
Và chân bước nghe chuyển rung đồi suối.
Lá cỏ sắc vương đầy trên tóc rối,
Ta khoác vai manh áo đẫm hương rừng.
Rồi ta đi, khí núi bốc trên lưng,
Mắt hung ác và hình dung cổ quái.
Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi,
Dòng sông con nép cạnh núi biên thùy...
Người và vật nhìn ta không dám nói,
Chân lãng xa từng cặp mắt e dè.
Ta ngẩn ngơ nhìn theo bóng ngựa xe,
Nhìn theo mãi đến khi đời lánh cả.
Và ta thấy hiện nguyên long sơn dã:
Cảnh sắc này bỗng nhuộm máu tà dương.
Ta xót thương, ta căm giận, hung cuồng,
Ta gầm thét rung mấy trời thế sự.
Rồi dữ tợn, ta vùng đi khắp xứ,
Nắm hai vai người tục khách qua đường...
Ta về đây lạ hết các ngươi rồi,
Lạ tình cảm, lạ đời chung, cách sống...
Bên thành quách ta ra tay tàn phá.
Giữa hoang loạn của lâu đài, đình tạ,
Ta thản nhiên, đi trở lại núi rừng.
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.
Quí bạn nào đã đọc Kinh Di-Lặc (1) và bây giờ Kinh Di-Lặc (2) chắc hiểu được lý do nào khiến tôi góp nhặt những lời này; và vì sao không riêng gì tôi mà hằng triệu người Đông cũng như Tây đều tôn xưng ngài là The Lord Maitreya (Phật Di-Lặc hay Bồ-tát Di-Lặc) |