– Ái chà! Kể cũng gớm đấy chứ nhỉ. Đúng là chuyện lạ thật chứ chả đùa tí tẹo nào. Ừ thì cứ cho là thật đi, nhưng nó liên quan gì tới cái chuyện phong thuỷ của cậu?
– Đất này toàn núi đá với dê đấy thầy ạ. Đất này có thể nói là cố đô cổ nhất và đẹp nhất Việt Nam. Thầy có tin là nhờ có núi đá và thịt dê mà vùng này có những toà lâu đài đẹp nhường ấy không.
– Tôi tưởng ở đâu, cái gì cũng vậy, do con người chứ.
– Thầy muốn hiểu sao cũng được. Em thấy người ta đào đá đem bán, đem thịt dê bán... Vậy em nghĩ thế đấy. Hai phần ba số lâu đài kia là do em xem hướng, định ngày, xem giờ, thượng điền, hạ thuỷ, khai môn, trấn trạch cho đấy thầy ạ. Nói thật, em không định kể những chuyện này đâu, làm nghề này, những người non tay thì hay bốc phét, khoe khoang, để tiếp thị bản thân. Riêng như em, trình độ khắp cả nước này, xem ra chỉ có vài người, Em phải giấu nghề thầy ạ. Ít người được em cho biết và giúp phong thuỷ cho họ lắm. Do có nghề cao tay, được họ nhờ vả, em biết nhiều chuyện thâm cung bí sử ở đằng sau những toà lâu đài nguy nga tráng lệ kia lắm thầy ạ...
Kinh nhỉ! Tôi nghĩ thầm. Mình cứ tưởng ông tướng này chỉ biết mỗi một môn bốc mả; giờ này nó lại còn biết cả “bách ban võ nghệ” thế này thì kinh thật. Tôi chen ngang:
– Thôi mấy cái lâu đài của cậu để lúc khác đi. Cậu có biết xem long mạch, xem huyệt đất để đặt mộ cho người ta khi chết không?
– Trời! Đúng ngành dọc luôn thầy ơi. Nghề tay phải của em đấy thầy à. Khu sinh phần của mấy ông có máu mặt vùng này toàn một tay em chỉ cho đấy. Nhưng với thầy em chẳng dám giấu, em nói thật, nghề xem phong thuỷ là nghề giúp người, giúp đúng người, hợp lẽ đạo trời đất thì còn có phúc có phần, giúp không đúng người, nhằm phải những loại chả ra gì, nó làm rối loạn đạo trời đất là mình bị tội oan đấy thầy ạ.
– Ý cậu là gì?
– Thầy hỏi em xin khai thật. Đa số những huyệt đất em được thuê tìm, đều của bọn làm giầu bất lương. Chỉ có chúng nó mới có tiền. Người dân bình thường, chỉ mong có mảnh đất chôn sạch sẽ là được. Ai đâu có điều kiện mà xem phong thuỷ với phong thiếc... Khi đi cắm đất cho bọn giàu có bất lương ấy, em cứ lựa theo lẽ trời, em chỉ cho bọn nó chôn vào những thế đất, kiểu gì thì kiểu, cuối cùng cũng rơi vào cái thế “Bật ván thiên, chìm ván địa” nghĩa là, sớm muộn gì chúng nó cũng bị người đời đào cây đánh rễ nhà chúng nó lên thầy ạ.
– Thế cái đám hôm nọ cậu có đặt mộ huyệt cho nhà người ta không?
– Chả em thì còn ai vào đấy nữa thầy ơi. Em xem cho nhà nó từ hơn năm nay rồi. Mới hôm qua cũng có người gọi nhờ em ra Hà Nội làm một đám. Nghe đâu cũng một người làm to lắm đấy thầy ạ. Bấm độn xem, thấy người này chết phạm vào giờ xấu, chắc kiếp trước ăn ở cũng chẳng ra gì. Em chả thèm đi trực tiếp, chỉ gọi điện thoại chỉ đạo thôi...
... Tôi nhìn sang chỗ giường nằm của thằng bốc mả ở góc phòng... Tối om và lặng lẽ im lìm...
Nó nằm im lặng. Nó nằm và thở đều đều trên cái giường của nó, ở cái góc phòng tối đen của ngôi nhà giành cho người quản trang, ở giữa cái nghĩa trang rộng và nhiều gió... Một lúc sau tiếng thở của nó chuyển thành tiếng ngáy khàn khan. Sau mỗi âm phát ra có tiếng rung rung nhẹ nhẹ, như một thứ âm thanh rên rỉ, mệt nhọc, buồn bã, như tiếng vọng về từ đâu đó rất xa. Tự nhiên tôi thấy thương sự đa đoan vất vả của nó, tôi thương cả cái thân tôi, tôi thương cả cái cuộc đời láo nháo và hỗn độn này... Buồn.
***
Mấy hôm rồi trời chuyển gió mùa đông bắc, tôi và gã học trò quý của mình chẳng hẹn mà cùng nhau lăn ra ốm. Người trẻ với người già ốm cũng chẳng giống nhau, tôi thì ho sù sụ, người ngợm đau mỏi khật khừ, ăn chẳng thiết ăn, ngủ không ra ngủ. Ông tướng bốc mả thì mặt đỏ phừng phừng vì sốt, mũi dãi chảy lòng thòng như trẻ con. Lạ là hắn vẫn làm việc và ăn uống như bình thường, thậm chí còn khoẻ hơn trước. May quá, sang nay hắn bảo với tôi là hắn khỏi ốm rồi.
Gió mùa đông bắc vẫn thổi vi vu ở trên những ngọn cây trong nghĩa trang. Ở trong nghĩa trang hình như gió lạnh và khô hơn ở ngoài phố đằng xa kia.
Chiều nay gã học trò bốc mả của tôi về sớm hơn mọi ngày. Y xách về một đùm to thịt dê và can rượu thơm phức. Vừa sắp xếp đồ ăn ra một mâm đầy ụ, hắn vừa giải thích:
– Trời lạnh thầy ạ. Chẳng đi ra quán làm gì... Từ nay thầy trò mình ăn ở nhà cho tiện. Cái món thịt dê này tốt cho sức khoẻ lắm thầy ạ... Hi hi.
– Nhà anh làm cái việc liên quan đến thế giới tâm linh mà ăn phàm uống tục như bọn Tây đen ấy. Kinh bỏ mẹ. Có lúc tôi thấy anh còn mặc áo nhà chùa, vậy mà anh ăn uống phàm tục như thế không sợ phải tội à?
– Úi trời ơi! Em tưởng thầy cấp tiến lắm cơ chứ... Mà thầy mắng em cũng phải, thầy già rồi... Thầy ơi, thời buổi bây giờ... Mà thôi, em mời thầy ra ăn đi thôi... Hi hi.
Hắn bỏ lửng câu “thời buổi bây giờ...” đầy ẩn ý.
Tôi miễn cưỡng tham gia bữa ăn tối cùng với thằng học trò trời đánh. Lạ là nó ăn uống kinh người thật: dê nướng tảng, dê tái chanh, dê quấn sả bọc mỡ chài, chân dê hầm thuốc bắc, nầm dê hấp lá tía tô, cơm cháy sốt dê... Trời ạ! Cả mâm thức ăn đầy, cả can rượu to vật, vậy mà không hiểu sao lại hết được. Tôi có ăn cùng hắn thật, nhưng tôi cam đoan là không ăn nhiều lắm...
– Thầy ngủ chưa ạ?
– Chưa.
– Thưa thầy. Theo ý thầy... Ở thời buổi bây giờ... Phúc hoạ người ta từ đâu mà đến ạ?
– À, ờ... Theo tôi nghĩ... là do tài năng, do học vấn, có khi cũng còn do may mắn, do cả sự ưu ái của ông trời...
– Đấy...! Hắn vỗ đùi đánh đét một cái (Thằng này lại chuẩn bị láo đây...!) Em biết ngay mà... không phải thế đâu thầy ơi. (Láo thật rồi! nó lại chuẩn bị coi thường ông thầy già của nó đây... Tôi tức lắm nhưng cố nằm im để hóng chuyện).
... Và thế là bằng một cái kiểu diễn đạt như rao giảng, chẳng giống ai,. Hắn vào chuyện:
Khoảng những năm thịnh trị nhất của thời nhà Lê, ở vùng Thanh Nghệ có một nho sinh tên là Lê Học Sĩ. Sĩ là người thông minh sáng láng, tinh thông kinh sách, trí tuệ hơn người... Ông nội của Sĩ là Lê Thiện, một người giàu có, hay giúp đỡ những người nghèo khổ. Lê Thiện được dân quanh vùng gọi một cách kính trọng là “Thiện lão lão.” Từ thuở còn hàn vi cha con Thiện lão lão thường cày ruộng trồng lúa. Ở ruộng nhà họ có một ngôi mộ vô chủ, mỗi lần cày tới đó, Thiện lão đều bảo con chừa ra một khoảng, tránh làm tổn hại tới ngôi mộ. Một ngày kia có người khách phương xa tới xin được mang phần mộ ấy về quê, hỏi ra mới biết đấy là phần mộ của một nho sinh, trên đường đi vào kinh thành dự thi, bị ốm mà chết. Từ ấy nhà Thiện lão lão làm ăn phát đạt lắm, chỉ mấy năm sau trở thành gia đình khá giả trong vùng.
Năm Lê Học Sĩ mười chín tuổi kinh thành mở khoa thi. Sĩ dắt theo thư đồng vào kinh dự thi. Ngày lên kinh, cả họ, cả làng tiễn chàng đi, họ đều cầu mong cho chàng sẽ công thành danh toại, vinh quy bái tổ.
Trên đường vào kinh, Sĩ cùng thư đồng tá túc trong một ngôi chùa có tên Pháp Vân Tự. Buổi tối hôm ấy, Sĩ trằn trọc không sao ngủ được, bỗng nghe tiếng đàn vẳng lại từ ngoài cửa sổ. Khoác áo bước ra ngoài, dưới ánh trăng, Sĩ thấy một thư sinh, tay ôm đàn ngọc, thần thái phiêu diêu tựa như tiên nhân. Vốn tinh thông âm luật, nghe tiếng đàn lúc khoan lúc nhặt réo rắt thật là tuyệt diệu, Sĩ bước tới gần lễ phép chào hỏi:
“Thật hay quá, giống như âm nhạc nơi cõi trời vậy. Dám xin hỏi danh tính huynh đài là gì?”
Chàng trai trẻ ngưng đàn, ngẩng đầu nhìn Sĩ rồi đáp:
“Tại hạ là Điền nhất Sinh, quê ở Thành Nam, nay trên đường tới kinh thành dự khoa thi, đêm nay nghỉ lại nơi này, chợt lòng hứng khởi, gảy khúc tiêu dao, huynh đài nếu không cười chê xin mời qua đây cùng đàm luận.”
Sĩ bước tới ngồi xuống cùng Điền Sinh trò chuyện như thân thiết tự bao giờ. Hai người cùng trao đổi về sở học văn tài. Sĩ vô cùng thán phục tài học của Điền Sinh, chàng cảm thấy so với Điền Sinh chàng còn thua xa một trời một vực. Vốn lần này đi thi chàng ôm mộng trạng nguyên, nay không thể không giật mình ta thán “Núi cao còn có núi cao hơn... Người tài còn có người tài hơn ta... ”
Suốt chặng đường còn lại vào kinh thành, Sĩ ra sức trau dồi những kiến thức mà Điền Sinh trao đổi, học vấn của chàng tiến bộ không ngừng. Đến ngày khai hội, Điền Sinh đột ngột chia tay Lê Học Sĩ để về quê chịu tang mẹ. Ngày chia tay ngậm ngùi nuối tiếc, dặm hồng bụi cuốn, người về kẻ ở như hư như thực... Buồn ơi là buồn.
Hội thi năm ấy, đề bài vừa phát tới tay, Lê Học Sĩ đọc sơ một lượt, cảm thấy vô cùng phấn chấn vì đề bài vừa hợp vói khả năng, chàng hạ bút thành chương, lời văn bay bổng như gấm như hoa thật là đắc ý. Câu cuối cùng của đề bài là một câu đối, Vế trước của câu đối là:
“Than đen, lửa hồng, tro như tuyết.”
Lê học Sĩ đọc xong không khỏi giật mình. Đây là vế đối khó, bảy chữ này chỉ một sự vật, sự vật ở đây có ba màu sắc, thật là câu đối hiểm hóc. Sĩ vắt óc nghĩ mãi chẳng ra, mướt cả mồ hôi. Sĩ bỗng cảm thấy rùng mình như bị trúng gió, chàng ta gục xuống bàn ngủ thiếp đi, Trong mơ, Sĩ thấy có người đến vỗ vai chàng, một giọng nói, nghe quen quen, nhỏ nhẹ nhưng rất rõ bên tai, “chàng trai trẻ, bài văn của cậu còn mấy chỗ chưa ổn lắm... ” Rồi giọng nói ấy lại chỉ... thế ấy, thế ấy, thế ấy...
Sĩ thấy những chỉ bảo của người vô hình kia thật là uyên bác, chàng vội thưa luôn:
“Thưa tiên sinh vế đối năm nay khó quá, tiểu sinh nghĩ mãi chưa ra...”
Giọng nói vô hình hỏi lại:
“Nhà ông cha ngươi có cày ruộng bao giờ không?”
“Có ạ.”
“Cày ruộng làm gì?”
“Trồng lúa ạ.”
Giọng nói như cười khe khẽ và bảo:
“Như vậy ngươi chưa hiểu được sao? Lúa màu gì, còn trấu, cám, gạo xay ra thì sao?”
Sĩ từ trong mộng như choàng tỉnh chỉ thấy mình vẫn đang ngồi làm bài thi. Những tình tiết trong mơ như vẫn còn trước mắt. Chàng chợt hiểu, liền cầm bút viết ngay câu đối:
“Lúa vàng cám đỏ gạo tựa sương.“
Kế đó chàng nhanh chóng sửa bài cho hoàn hảo như gợi ý của người vô hình trong giấc mộng.
Khoa thi năm ấy Lê Học sĩ đỗ trạng nguyên, áo gấm vinh quy về quê. Sau đó Sĩ được bổ làm quan to trong triều, ông quan này để lại một sự nghiệp sáng chói trong thời đại của ông và cả nhiều thời sau. Ông ta chết đã lâu nhưng cho tới nay và còn sau nữa, người đời vẫn ca ngợi, khâm phục và biết ơn những gì ông để lại. Thế đấy...! Hừm hừm...
– Thầy ngủ chưa? Thầy có hiểu ý nghĩa câu chuyện em vừa kể không?
Tôi vẫn thức, tôi hiểu câu chuyện nói gì, tôi thích cái cách thằng bốc mả này quan niệm và nghĩ về cuộc đời. Nhưng thật khó chịu về cái kiểu đắc chí của nó, nhất là cái cách nó hỏi tôi. Mẹ kiếp, tiên sư cái thằng này láo quá cơ. Tôi giả vờ đã ngủ rồi, giả vờ không nghe nó hỏi.
Im lặng...
Nó tưởng tôi ngủ thật, tức quá thở phì phì rồi một lát sau nó ngáy đều đều.
Nó đã ngủ rồi. Còn các bạn, các bạn có hiểu ý nghĩa của câu chuyện nó vừa kể không?
Ai mà nói được đúng ý nghĩa câu chuyện này, tôi hứa sẽ nói với thằng học trò của tôi khuyến mại cho bạn dịch vụ của nó... He he... Đùa thôi. Tôi sẽ mời bạn cà phê và sẽ cúi đầu khâm phục đấy.
***
Tôi thức giấc sớm hơn mọi khi. Câu chuyện tối hôm qua của cậu học trò mang đến cho tuổi già của tôi một cảm giác như là thiếu tự tin. Tôi thấy cái cách tôi hiểu biết về cuộc sống, cái cách tôi nhìn nhận mọi chuyện, cả ở những chuyện đơn giản, tôi cứ nghĩ là đã thấu đáo đầy đủ... Hoá ra cũng chưa hẳn thế.
Trong ánh sáng lờ mờ của một ngày mới, nhìn vào cái góc phòng tối om, cậu học trò của tôi vẫn nằm im, tiếng thở vẫn đều đều, chắc vẫn ngủ... Hệ luỵ của can rượu và đống thịt dê hôm qua đây. Tôi cười thầm và nghĩ xa xôi đến cái chuyện nó nói với tôi về việc người dân ở đây đào đá núi và xẻ thịt dê bán để xây lâu đài...
... Buổi sớm cuối thu, đầu đông trời lạnh lạnh, sau mấy ngày ốm, cảm giác khoẻ khoắn đã trở lại, đi dạo trên những con đường nhỏ quanh co bên những hàng bia mộ, tự nhiên tôi thấy giữa hai thế giới, thế giới của những người đang tồn tại và thế giới của những người đã chết nằm dưới kia thật hoà hợp, gần gũi và bình yên.
Hôm nay là chủ nhật, tôi chợt nhớ là mình còn có ý định, nhân tiện lần xuống chơi ở đây, tôi sẽ đi thăm người một người bạn già, ông là một linh mục ở bên Kim Sơn, nơi có nhà thờ đá nổi tiếng của xứ Bùi Chu Phát Diệm ngày xưa. Là bạn bè từ thuở còn trai trẻ, vậy mà chỉ thi thoảng, những khi buồn vui bất chợt, chúng tôi viết thư, gọi điện thoại cho nhau. Thời còn trẻ khi ông linh mục mới về giáo phận này, chúng tôi thường hay gặp gỡ. Vậy mà thấm thoắt cũng nhiều chục năm rồi chưa gặp lại...
... Đi dạo về, thằng học trò quý của tôi đã ngủ dậy từ lâu. không biết có việc gì mà hôm nay nó lại mặc áo của nhà chùa. Anh ta lại đường bệ uy nghi như một vị hoà thượng chân tu. Nhìn ông sư trước mặt tôi, đố ai dám tưởng tượng, vừa mới tối qua ông sư này đã xơi hết vài cân thịt dê cùng cả can rượu gần ba lít... A Di Đà Phật!... Biết tôi đi chơi với ông bạn linh mục, nó gọi xe “taxi,” chuẩn bị chu đáo cho tôi lên đường, tiễn ra tận xe nó còn ân cần nói:
– Thầy đi chơi vui vẻ ạ...
... Đón tôi tận ngoài đường cái, ông bạn dẫn tôi thẳng về nhà thờ, đường làng quanh co, hàng quán phục vụ cho đám khách du lịch nhà thờ đá san sát như phố thị. Sau cái bắt tay và gật đầu cười lúc đón khách xuống xe, bạn tôi thong thả đi trước, trên suốt quãng đường dài từ đường cái về đến nhà thờ, chỉ thi thoảng ông linh mục gật đầu đáp lễ khi có người chào ông. Tôi thấy thật thú vị khi phát hiện ra cái phong thái nghiêm trang cao quý như đang làm lễ trong nhà thờ của người bạn Công giáo. Bước rảo lên ngang với ông, tôi như muốn bắt chuyện, như để tỏ sự vui mừng khi lâu ngày bè bạn gặp nhau, ông bạn già chỉ như hơi nhoẻn miệng cười, ông khẽ nắm tay tôi và vẫn thư thả đi về trước... Đi ngang qua cái sân thật rộng của nhà thờ, tôi cảm giác lạ lạ như đang đi từ thế giới này sang một thế giới khác. Chỉ khi đẩy cánh cửa to và nặng nề của nhà thờ, bước vào bên trong giáo đường rộng ngợp, người bạn già của tôi mới như trở lại con người tôi biết từ trước. Vui vẻ, khẽ ôm vai tôi, đẩy nhẹ tôi ngồi vào cái ghế ở hàng trên cùng của giáo đường. Nơi ông và tôi thường thích ngồi với nhau trò chuyện mỗi khi có dịp...
– Uống chút nhé... Bạn uống gì nhỉ? Hì hì... Sao hôm nay chúa lại mở cửa thiên đàng cho bạn về thăm tôi vậy... Vui quá đi hì hì...
Phì cười và cảm động trước sự vui vẻ, vồ vập của người bạn, tôi cũng vui vẻ gật đầu và hứng thú chỉ tay về góc giáo đường trên tầng hai, nơi có cây đàn Piano mấy trăm tuổi...
– Ha ha vẫn còn nhớ hả, rồi, OK...
... Với tay lấy cái gậy nhỏ như cái dùi trống của trẻ con, gõ khẽ vào cái chuông ở góc bàn. Cánh cửa nhỏ nơi góc lễ đường mở ra. Một người nữ tu trẻ và đẹp như các “Ma sơ” trong phim ảnh phương tây xuất hiện, nàng mang theo một cái xô nhỏ có chai rượu vang đã mở nút, ngâm trong đá, hai cái ly pha lê viền vàng lấp lánh... Người nữ tu khẽ cúi chào và khéo léo rót rượu mời khách... Tôi và ông bạn cụng ly, tiếng ly kêu lanh canh trong trẻo, ngân nga trong vòm nhà nguyện như lời tụng ca tình bạn hữu của chúng tôi... Tôi thấy vui, lòng nhẹ nhõm như quên đi những ưu phiền của cuộc sống.
Sau ly rượu, người bạn già thư thả đi lên tầng hai của lễ đường, Và rồi âm thanh của tiếng đàn piano tràn ngập giáo đường... Ave Maria...
Tôi rất thích nghe tiếng đàn Piano trong nhà thờ. Tôi không phải là người công giáo. Nhà thờ công giáo thờ chúa và những ngôi chùa thờ phật, với tôi chỉ đơn giản là nơi thiêng liêng, nơi để người ta tôn thờ, xưng tụng và ngợi ca những giá trị tốt đẹp của Đạo đức Con người... Tôi chỉ thích nghe nhạc, nghe tiếng đàn Piano trong nhà thờ, thế thôi.
... Rượu vang và âm nhạc trong giáo đường nhà thờ làm tâm hồn tôi như ngất ngây. Tôi đi dạo quanh nhà thờ đá. Tôi chợt phát hiện ra một điều kỳ thú, những viên đá xếp bên nhau từ đã rất lâu, cùng với thăng trầm thời gian, đá ở đây như có linh hồn. Những viên đá như đang lặng lẽ kể chuyện. Như những số phận con người ở quanh đâu đây. Đá mang gương mặt người, thấp thoáng ẩn hiện... Tôi ngồi xuống tựa vào đá và ngủ thiếp đi, tôi mơ... Trong giấc mơ tôi, đá kể cho tôi nghe những câu chuyện của đá, có chuyện vui, có cả chuyện buồn. Tôi như nghe ai đang hát “... Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau...”
Tỉnh giấc, tôi thấy người bạn già ngồi bên từ bao giờ... Ánh mắt hướng xa xăm về nóc tháp chuông nhà thờ, không biết bạn tôi nhìn thấy gì ở đó. Tôi biết ở tháp chuông đó có một quả chuông rất to, tiếng của nó vang xa khắp cả xứ đạo này...
Chúng tôi cứ ngồi yên lặng bên nhau như thế, lâu lắm... Người bạn già phá vỡ sự im lặng làm tôi giật mình:
– Có chuyện gì hả ông?
– Không... Có gì đâu, mà sao ông lại hỏi tôi vậy?
Lại im lặng.
– Ông có nhớ thằng bé hồi trước tôi định gửi ông trông nom hộ không?
– Nhớ chứ, nhưng mà sao? Có chuyện gì về nó à?
– À... ờ... không... À mà cũng có chuyện muốn kể với ông về nó, chuyện vui vui thôi nhưng...
Thế là tôi và người bạn già ngồi bên nhau ôn lại câu chuyện về Nó.
... Ngày xưa, lâu lắm rồi, hồi tôi mới học xong trường sư phạm, tôi đi dạy học trên miền núi. Cái thời ấy cả cái đất nước này đều khó khăn, thiếu đói. Trên những chuyến xe khách tôi đi mỗi ngày cuối tháng, khi được nghỉ về thăm nhà, tôi thường nghe người ta nói về nghề dạy học của chúng tôi bằng giọng thương hại lẫn cả coi thường. Lần ấy, về nghỉ tết cuối năm, tôi gặp một thằng bé, cậu bé người miền núi, nói tiếng kinh chưa sõi. Bị gã phụ xe trợn mắt ra sức quát đuổi xuống xe không cho về xuôi, không hiểu sao thằng bé cứ bám vào tay tôi như cầu cứu, và chả hiểu trời xui đất khiến thế nào, tôi nhận mua vé cho nó đi cùng... Tết, nó ăn tết ở nhà tôi. Hết tết, nó theo tôi trở lại ngôi trường mà tôi dạy học. Nó không có nhà cửa, cũng chẳng có ai thân thích. Nghe mấy người trong cái bản gần nơi tôi bắt xe về tết hôm ấy nói, nó là con của một cô giáo dưới xuôi lên đây dạy học, nghe đâu nhà cô dưới ấy cũng chẳng còn ai, cô có con với một anh lái xe đường dài. Sợ tai tiếng, sợ nhà trường phạt kỷ luật... cô đẻ giấu đẻ diếm rồi gửi vào bản nhờ người nuôi.
Lúc đầu, mỗi tháng cô đều gửi gạo gửi tiền vào nuôi con. Được hơn một năm sau, cô giáo kia bị lũ cuốn, mất xác... Người nuôi thằng bé nghèo quá, nay nhờ người này, mai nhờ người khác cho nó ăn, bữa đói bữa no... Thằng bé trở thành con chung của cả cái bản nghèo cho đến ngày tôi gặp nó. Nghiễm nhiên thằng bé ở với tôi ở trường, tôi làm giấy khai sinh cho nó, tên bố là tên tôi, tên mẹ là tên bà vợ anh hiệu trưởng cho nó hợp pháp thôi; và ai cũng nghĩ như vậy là phải. Tôi dạy nó nói tiếng kinh, dạy nó học, tôi chia sẻ cuộc sống khó khăn của tôi với nó. Lạ là nó không bao giờ coi tôi là bố nuôi, nó chỉ gọi tôi là thầy xưng em. Tôi cũng chưa muốn làm bố nên chẳng ý kiến gì.
Hai năm sau tôi chuyển công tác về xuôi, thằng bé theo tôi về. Nó ở với tôi tới năm nó học lớp mười một. Tôi muốn lấy vợ nhưng người ta cứ dị nghị nó là con tôi. Mấy lần đi hỏi vợ toàn bị từ chối khéo, đau thật. Tôi nói chuyện ấy với nó, nó cười cười. Tôi bảo, thầy gửi mày vào trung tâm giáo dục thường xuyên của bạn thầy nhé, ở đó cũng được học chữ và còn học cả nghề nữa. “Không. ” Nó trả lời lạnh tanh, nó không cười nữa. tôi không hiểu lúc ấy nó nghĩ gì...
–... A, chính hồi ấy vì thế ông mang nó xuống gửi tôi ở đây phải không? Thì tôi đã tìm được gia đình cho nó rồi đấy thôi. mà tôi nghĩ nó cũng ổn đấy chứ... Sao lại?...
– Ừ, hồi ấy cuộc sống khó khăn quá. Tôi nghĩ mãi mới dám nhờ ông. Cũng mừng là sau này ông lại dò hỏi, tìm được tung tích người lái xe năm nào mà trả cháu nó về với gia đình.
– Cũng may cho nó, nếu không tìm được gia đình nó, bây giờ nó đi học làm linh mục, theo đạo công giáo như tôi thì... hà hà... cũng hay đấy nhỉ.
– Nó không làm linh mục ông ơi... Nó làm thầy chùa. Giờ nó lại đi trông coi nghĩa trang trong thành phố kia kìa ông ơi...
– Giê su ma! Lạy chúa tôi... Ông vừa nói gì vậy?
Tôi kể cho ông bạn già nghe phần tiếp theo cuộc đời của nó.
– Tìm được gia đình nó cũng vui. Như ông biết rồi đấy, quê nội nó hoá ra là ở Ninh Bình, nhà cũng tương đối, gã lái xe ngày xưa khi biết nó là con, xin với bà vợ cả cho nhận mang về nhà đoàn tụ ngay. Chuyện coi như xong xuôi. Chia tay nó, tôi cũng hơi bùi ngùi, nó thì chỉ im lặng. Tôi cũng không hiểu nó nghĩ gì. Thời gian trôi nhanh quá. Bẵng đi một thoáng mà đã mấy chục năm... Nó bảo với tôi khi gặp lại, học xong lớp mười hai, nó đi tu, rồi bị đuổi khỏi chùa, nó bây giờ làm đủ nghề, trông nghĩa trang, xem phong thuỷ đất cát, bốc mả, cúng bái... Tóm lại là nó bây giờ lạ lắm, tôi đang ở chơi với nó đây ông ạ.
– Vậy thì cũng tốt chứ sao ông lại...?
– Thì tôi có bảo không tốt đâu. Tôi kể chuyện là một phần cũng để ông mừng cho nó. Mà này, ông ơi, ông có tin vào số phận không? Ông có tin vào chuyện con người ta, ngay từ khi mới sinh ra đã phải gánh vác một thiên chức gì đó mà chúa hay ông trời giao phó cho không?