Một bài kinh ngắn nhưng lại là...
Phải, đó là Kinh GÁNH NẶNG, nơi xuất phát từ-ngữ PUDGALA
(Tàu: Bổ-đặc-già-la; Việt của Thầy Thiện Châu: Nhân-thể) đã gây các ý kiến khác nhau trong nhiều học phái Phật giáo cổ thời – Phật giáo Nguyên thủy, mà chúng tôi đã viết trong 10 bài tán thán Cố HT Thích Thiện Châu (1931-1998) đã bỏ hết công sức, trí tuệ và tài năng trong tác phẩm để đời viết bằng tiếng Pháp LES SECTES PERSONNALISTES (Pugalavàdin) DU BUDDHISME ANCIENCE ; mà thế giới chỉ biết tiếng qua bản dịch Anh ngữ THE LITERATURE OF THE PERSONALISTS OF ERALY BUDDHISM do nxb danh tiếng của Ấn Độ phát hành từ năm 1999. Chúng tôi sẽ còn trở lại công trình này, nhưng bây giờ chúng ta hãy đọc bài kinh nói trên, vì đó là cứ liệu cho các nhà chủ trương Nhân-thể-luận (Pudgalavādins) gây ra tranh cãi trong các bộ phái từ khi Đức Phật nhập diệt.
Xin chép nguyên văn:
Here is a significant excerpt from Bhārahārasutta:
SN III, 25:
Bhāram ca vo bhikkave dessāmi, bhārahāraṃ ca bhārādānaṃ ca bhāranikkhepanan̄ca, tvam sunāthā. - katamo bhīhave bhāro. - pañcūpādānaskandhā tissā vacanāyaṃ, katame pañca. seyyathidam rūpūpādānakkandho saññupādanakkhando saṅkhārayapādānakkhandho viññāṇupādānakkhando: ayaṃ vuccati bhikkhave bhāro. - katamo ca bhikkhave bhārahāro. puggalo tissa vaccanīyam, yoyaṃ āyasmā evaṃnāmo evamgotta; ayaṃ vuccati bjikkave bhārohāro. - katanam ca bhikkāve bhārādānaṃ. yàyam taṇhā panobhavikā nandirāgasahagatā tatrā tatrābhinandini, 'seyyathīdam kāmataṇhā vibhavataṇhā ; idaṃ̣ vuccati bhikkhave bhārādānaṃ - katanañca bhikkhave bhāranikkhe panaṃ, yo tassāyeva taṇhāyā asesavirāganirrodho cāgo paṭinissaggo muti anālayo; idam vuccati bhikkave bhāranikkhep̣aṇan ti.
Sau đây là bản dịch Anh ngữ:
‘I teach, monks, the burden, the bearer of the burden, the taking up and laying down of the burden. Listen attentively.
- What is, monks, the burden?
- It is the five aggregates of grasping (upādānaskandhā), is the reply.
- What are they?
- They are the five aggregates of grasping form, feeling, perception, mental factors, consciousness. This, monks is what is called the burden.
- What, monks, is the bearer of the burden?
- It is the person (pudgala), is the reply. For example, such-and-such a venerable one with such-and-such a name, such-and-such a clan. This, monks, is what is called the bearer of the burden.
- And what, monks, is the taking up of the burden?
- It is craving that leads to rebirth, accompanied by delight in attachment which seeks pleasure sometimes here, sometimes there, namely: craving for sensuality (kāmataṇhā), craving for existence (bhavataṇhā) and craving for annihilation (vibhavataṇhā), That, monks, is what is called taking up the burden.
- And what, monks, is the laying down of the burden?
- It is the destruction of craving, the total cessation of attachment, abandoning, relinquishment, liberation, repugnance. That, monks, is what is called the laying down of the burden.’
Tất cả hai bản trên đều lấy ra từ tác phẩm nói trên (cũng là luận án Tiến-sĩ Quốc-gia của Ngài Thiện Châu, như đã biết).
Và sau đây là nguyên văn bản Việt dịch của cố HT Minh Châu (1920-2012) dịch từ Tương Ưng Bộ Kinh bản chữ Pàli, để quí bạn và các em đối chiếu:
III. Phẩm Gánh Nặng
I. Gánh Nặng (S.iii,25)
1-2) Ở Sàvatthi...
3) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông về gánh nặng, mang gánh nặng lên, đặt gánh nặng xuống. Hãy nghe và khéo suy nghiệm, Ta sẽ giảng.
4) Này các Tỷ-kheo, thế nào là gánh nặng? Năm thủ uẩn là câu trả lời. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là gánh nặng.
5) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là kẻ mang gánh nặng? Người là câu trả lời. Vị Tôn giả này có tên như thế này, dòng họ như thế này. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là kẻ mang gánh nặng!
6) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là mang gánh nặng lên? Chính là tham ái này đưa đến tái sanh, câu hữu với hỷ và tham, đi tìm hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái. Này các Tỷ kheo, đây gọi là mang gánh nặng lên.
7) Này các Tỷ-kheo, thế nào là đặt gánh nặng xuống? Ðây là sự ly tham, đoạn diệt ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là đặt gánh nặng xuống.
-------------------------------------------------------------------------------
Đoạn dưới đây của Ngài Minh Châu dịch thẳng từ Tương Ưng bộ kinh bản Pàli nên không có trong bản dịch Anh ngữ:
8) Thế Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Ðạo Sư lại nói thêm:
Năm uẩn là gánh nặng,
Kẻ gánh nặng là người;
Mang lấy gánh nặng lên,
Chính là khổ ở đời.
Còn đặt gánh nặng xuống,
Tức là lạc (không khổ),
Ðặt gánh nặng xuống xong,
Không mang thêm gánh khác.
Nếu nhổ khát ái lên,
Tận cùng đến gốc rễ,
Không còn đói và khát,
Ðược giải thoát tịnh lạc!
-------------------------------------------------------------------------
Xin lưu ý: (S.iii,25) tức là:
S = Samyuttanikàya (Tương Ưng bộ kinh Nikàya) ;
Iii = Tập 3; 25 = Chương 25 (hoặc Phẩm 25).
-------------------------------------------------------
Để quí bạn & các em lưu ý từ-ngữ PUDGALA, chúng tôi cho in đậm: puggalo (bản chữ Pàli), pudgala (trong bản dịch chữ Anh) và chữ người (trong bản của HT Minh Châu). GÁNH NẶNG (tiếng Anh là Burden) và Bhārahā là chữ Pàli.
----------------------------------------------------------
Bây giờ chúng ta thử mở từ điển để biết nghĩa của từ-ngữ danh từ này nhé. Chúng tôi lấy hai từ điển sau đây, là những từ điển uy tín duy nhất thế giới về chữ Sanskrit và chữ Phạn lai (Hybrid Sanskrit):
1- A SANSKRIT - ENGLISH DICTIONARY của M. Monier-Williams; nxb Motilal Banarsidass, reprinted 2005 (corrected 2002; First edition published by Oxford University Press, 1899) ; tr. 633, cột giữa. Cuốn này dày 1333 trang, không kể 40 trang đầu sách, khổ lớn nhất (28 cm x 21cm) ; gồm ba cột với cỡ chữ nhỏ nhất.
PUDGALA पुदल (mnf): beautiful, lovely, handsome; the body; the soul; personal entity; the ego or individual. (Tạm dịch: đẹp, đáng yêu, đẹp trai, thân thể, linh hồn; nhân thể, cái ngã).
2- BUDDHIST HYBRID SANSKRIT GRAMMAR AND DICTIONARY (Volume II Dictionary) (Tự-Điểnvà Ngữ pháp chữ Phạn-lai Phật giáo) của Franklin Edgerton; nxb Motilal Banarsidass, reprinted 2004 ; First edition New Haven, 1953. By arrangement with Yale University Press, New Haven ; tr. 347, cột bên trái. Cuốn này là cuốn thứ hai dày 627 trang, khổ lớn nhất (28cm x 21cm) trong một bộ, cuốn thứ nhất là Grammar dày 239 trang.
PUDGALA [i] (often written PUṂGALA): A Sanskrit word may have influenced the form with nasal puṃgala = Pali puggala = Sanskrit purusa (person, man, creature, soul (often in the latter sense = ĀTMAN).
(Tạm dịch: PUDGALA thường được viết là PUṂGALA: Một từ Phạn ngữ có lẽ ảnh hưởng đến hình thái với từ puṃgala phát âm mũi = puggala (Pàli) = purusa (từ Sanskrit): con người, người, tạo vật, linh hồn (thường là mang ý nghĩa chữ sau: ÀTMAN, cái Ngã).
Nếu quí bạn và các em có bản Anh ngữ thì nên đọc thêm để dễ dàng theo dõi các tiến trình từ lúc manh nha cho đến khi chính thức – kéo dài hơn mười thế kỷ - PUDGALA mới được các học-giả, thạc-học, các giáo sư danh tiếng thế giới chuyên về Phật giáo Ấn Độ - dẫu chưa lên tiếng – nhưng phải hiểu rằng được chấp nhận; nhất là từ khi công trình của Ngài Thiện Châu được phổ biến từ năm 1996 khi Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam chính thức xuất bản đầu tiên ở quê nhà, và - như quí bạn & các em đã biết – được MOLITAL BANARSIDASS, nxb danh tiếng chuyên về Cổ học Ấn Độ & Phật giáo, đưa vào danh mục các tác phẩm để đời từ năm 1999. Đó là một vinh dự vẻ vang không riêng gì cho cố HT Thiện Châu mà cũng của Việt Nam chúng ta: đã đóng góp một công trình vào kho tàng Phật học thế giới.
Để tạm kết thúc loạt bài tán thán công đức của cố HT Thiện Châu về BỔ-ĐẶC-GIÀ-LA, chúng tôi xin quí bạn đọc bài dưới đây nhé:
Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học - Pháp Thí Hội
● 補特伽羅, (Pudgala). Cựu dịch là “nhân” hay “chúng sinh”, tân dịch là “sát thủ thú”, nghĩa là thường tới lui qua lại nơi các nẻo luân hồi. Thắng nghĩa bổ-đặc-già-la nghĩa là trong chúng sinh có đầy đủ thắng nghĩa đế.
Thắng nghĩa bổ-đặc-già-la: “Bổ-đặc-già-la” (pudgala) được dịch là nhân (người), chúng sinh, hay sác thủ thú; tức chỉ cho cái chủ thể chuyển sinh trong luân hồi. – Từ “sác thủ thú” có nghĩa là nhiều lần qua lại trong các nẻo luân hồi. Nói rõ hơn, bổ-đặc-già-la là một tên gọi khác của NGÃ, vốn là một trong những kiến chấp trọng yếu của ngoại đạo. Pháp sư Khuy Cơ có liệt kê 16 “tông” (tức hệ phái) ngoại đạo ở Ấn-độ thời cổ đại, trong đó có Kế Ngã Thật Hữu tông, vọng chấp có một cái NGÃ chân thật, thường nhất; và giải thích rằng, cái ngã đó vừa là năm uẩn, vừa ở ngoài năm uẩn (tức li uẩn ngã), vừa không phải năm uẩn vừa không ở ngoài năm uẩn (phi tức phi li uẩn ngã). Luận Thành Duy Thức phân loại có ba thứ ngã:
1) Ngã chính là cái thân ngũ uẩn này (tức uẩn ngã) ; đó là kiến chấp thông thường của mọi người thế gian.
2) Ngã ở ngoài cái thân năm uẩn (li uẩn ngã) ; đó là quan điểm của các phái ngoại đạo như Số Luận, Thắng Luận, v.v...
3) Ngã không phải là thân ngũ uẩn này, mà cũng không ở ngoài thân ngũ uẩn này (phi tức phi li uẩn ngã) ; đó là chủ trương của các bộ phái Độc Tử và Chánh Lượng.
Độc Tử bộ đã có một lập luận rõ ràng về bổ-đặc-già-la: Khi người ta tạo nghiệp lành dữ, tất phải có một năng lực liên hệ giữa nghiệp nhân và nghiệp quả, mới dẫn đến sự hiện hữu trong tương lai. Cái năng lực đó chính là bổ-đặc-già-la. Nếu không có bổ-đặc-già-la, khi người ta chết rồi, năm uẩn tan rã, thì cái gì dẫn đến sự hiện hữu trong tương lai? Phải có bổ-đặc-già-la duy trì nghiệp, thì mới có luân hồi hay giải thoát. Nhưng, bổ-đặc-già-la không hẳn là năm uẩn, cũng không nằm ngoài năm uẩn. Bổ-đặc-già-la cũng không phải tâm và tâm sở. Tâm và tâm sở biến diệt vô thường, không thể biết hết mọi pháp, hoặc hễ biết pháp này thì không thể cùng lúc biết pháp khác, cho nên không làm cho phàm phu thành bậc Nhất Thiết Trí; còn bổ-đặc-già-la thì trái lại, đó là thực thể thường trú bất biến, quán thông cả ba đời, biết tất cả mọi pháp, vì vậy mà chúng sinh từ địa vị phàm phu mới có thể tiến lên thành bậc Nhất Thiết Trí. Bởi vậy, không thể nói bổ-đặc-già-la thuộc năm uẩn hữu vi, cũng không thể nói nó thuộc niết bàn vô vi; nó là “bất khả thuyết”. Chánh Lượng bộ và Kinh Lượng bộ cũng đồng quan điểm này của Độc Tử Bộ. Các bộ phái Phật giáo này cùng với ngoại đạo đều công nhận thật có cái NGÃ, gọi là “bổ-đặc-già-la”, vì vậy, để phân biệt chánh tà, các bộ phái Phật giáo trên lại gọi cái bổ-đặc-già-la do mình chủ trương là “thắng nghĩa bổ-đặc-già-la”, tức là chân ngã, cũng tức là thánh pháp ở trong chúng sinh; nhờ đó mà chúng sinh có thể thành Phật.
**************************
NAM-MÔ BỔN SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
NAM-MÔ HƯƠNG VÂN CÁI BỒ-TÁT MA-HA TÁT
Cần Thơ, thành phố miền sông nước,
May 24th 2021 (03:05 PM)
ĐỖ KIM PHỤNG
विद्यारत्न