LƯU ĐỒN, LƯU ĐẦY, BIỆT XỨ và VIỄN XỨ
1- Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh gác, tối dồn việc quan.
(thi ca cổ điển Việt Nam, không nhớ tác giả)
Khỏi cần giải thích, đọc qua là biết được hoàn cảnh của người lính thú xa nhà thời xưa rồi.
2- Còn nhớ khoảng đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, một vị tu sĩ Phật giáo, thủ lãnh một dòng Thiền ở Pháp, viết trên sách báo rằng “thân phận lưu đầy”. Nhưng đến năm 2007 ông ta dẫn về một đám đệ tử mặc đồ nâu với nón lá, diễn hành qua các phố phường ở Bảo Lộc (dĩ nhiên là phải có sự chấp thuận của chánh quyền) và đến năm 2008 về dự Vesak ở Hà Nội cũng dẫn theo đám “lâu la” mặc đồ nâu nón lá lên biểu diễn trên sân khấu ngày hội.
Đấy, lưu đầy của ông ta là như thế đó; đi ngược lại quan điểm thông thường.
3- Hình luật thời đệ nhất VNCH (lúc này chưa có bộ Hình luật 1972 của đệ nhị VNCH) phân biệt tội hình: tiểu hình và đại hình. Tiểu hình thì dưới 5 năm, đại hình thì 5 năm trở lên. Nhưng tù đại hình được chia thành ba loại: tù cấm cố, tù khổ sai và tù biệt xứ.
Tựu trung, lưu đồn, lưu đầy và biệt xứ là những từ ngữ gợi cho ta sự đau buồn, chia ly và thống khổ. Nhưng còn VIỄN XỨ thì sao đây?
4- Hai mươi lăm năm viễn xứ, ba mươi năm viễn xứ rồi... bốn mươi năm viễn xứ. Từ ngữ viễn xứ nghe thật lãng mạn. Nó mang âm hưởng của một người phải rời bỏ quê hương vì một lý do nào đó (như: theo chồng, du học rồi ở luôn xứ người v. v..).
Nhưng, nói chung VIỄN XỨ là tốt đẹp hơn ba từ ngữ kia, vì nếu không tốt đẹp thì phải trở lại quê nhà, quê hương ở luôn rồi, phải không?. Ấy vậy mà, tuy không về hẳn nhưng lâu lâu lại “hiện về” như bóng ma, rồi ca hát trước đám đông cho thấy rằng “chị đây nè, mấy em ơi!” để được đám trẻ (gọi là NHÓC) khen “ôi, chị 70 tuổi rồi mà sao mà còn trẻ và xinh quá! ước gì em được như chị.”. Rồi có anh chàng ca sĩ nổi danh trước 1975 cũng “hiện về” dẫn theo vợ, lên sân khấu hát cho đám nhóc nghe và “thuyết” “những người đàn ba đi qua đời tôi “ rất tình tứ đầy thơ mộng.
Ôi, đời là thế đấy! |