PHẠM CÔNG THIỆN
và NGÀY SANH CỦA RẮN
Tặng CỎ LAU,
Người em gái vùng biển xanh nơi quê hương gió cát mịt mù.
ĐKP
Phạm Công Thiện (1941-2011) đã đến và đã đi.
Cuộc đời và sự nghiệp văn nghệ của ông đã có nhiều người viết, đa số những bài đó được viết ra sau khi ông đã nằm xuống! Ông có một thời – trước 1975 – là thần tượng của lớp trẻ; điều đó có lẽ đúng – ít nhất là trước khi ông bỏ ra nước ngoài, khoảng năm 1970. Và hình như ông cũng cảm nhận được điều này: ”Còn hạng thanh niên choai choai từ 16 tuổi cho đến 25 tuổi thì đều tưởng là “thiên tài độc nhất của nhân loại”. Họ sung sướng tự nhận là “đồ đệ của Phạm Công Thiện”! (Phần Phụ lục trong cuốn TÔI LÀ AI, bản Việt dịch của Phạm Công Thiện từ tác phẩm tiếng Đức ECCE HOMO của Nietzsche, trang 160, nxb Phạm Hoàng, Saigon, 1970)
Nhưng riêng đối với tôi, tôi rất ngưỡng mộ và yêu thơ của ông – từ khi còn là sinh viên văn khoa. Tôi yêu mến thơ ông - những bài thơ chất chứa nỗi u hoài cô quạnh (Xin được mở dấu ngoặc: ở đây tôi chỉ nói những bài thơ trong thi phẩm NGÀY SANH CỦA RẮN, nxb An Tiêm, Saigon, 1967; không kể đến tập thơ sau này khi ông đã ở nước ngoài, TRÊN TẤT CẢ ĐỈNH CAO LÀ IM LẶNG, nxb Văn Hóa Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh, 2009).
Tập NGÀY SANH CỦA RẮN chỉ có vỏn vẹn 12 bài, mỗi bài đều không có tựa đề, trong đó có một bài chỉ có hai câu ; đó là bài thơ thứ III như sau:
mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông.
Và một bài bốn câu, bài thơ thứ II:
tôi nằm cho rả chiếu cạp điều
nước chảy lên vùng phố tịch liêu
tôi nhớ một lần cây quế mọc
tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều.
Trong bài trên, ta để ý có chữ QUẾ và chữ HƯƠNG. Đó là tên của người con gái mà ông rất yêu thương. Nghe các bạn của tôi học ở đại học Vạn Hạnh thời cuối những năm 60 và đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, thì người ông yêu là Cao Thị Quế Hương, một nữ giáo sư trung học ở Cần Thơ. Và có lẽ ông yêu thương Quế Hương rất nhiều nên trong thơ của ông, ngoài bài trên đây, ông còn một bài nữa nhắc đến tên người con gái yêu dấu này rất nhiều lần. Đó là bài thơ thứ IV, tôi xin trích một đoạn dài:
trời mưa nữu ước cây mọc
nhớ hương trời mưa ngày tháng
nhớ hương đường hoang mái vắng
nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ...
... anh không còn làm tu sĩ (*)
anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương...
bây giờ anh xa hương đến
mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời hương khóc
hương còn ca hát
hương còn phơi áo giữa phố buồn
hương còn cười
mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ quế hương
tóc anh mọc dài
che chở hương
lúc mưa rơi
lúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê ý đại lợi
trên chiến tranh
của quê hương
của quế hương...
(bài thơ IV)
(*) Ông có thời mặc áo cà-sa với pháp danh Thích Nguyên Tánh, lúc đó ông đang là giáo sư kiêm khoa trưởng đại học văn khoa & khoa học nhân văn viện đại học Phật giáo Vạn Hạnh, Saigon khoảng những năm 1966 đến đầu năm 1970. Và cũng năm 1970 này khi ông ở Paris ông cởi áo cà sa và lấy vợ, một người đạo Thiên chúa.
Người ông yêu có lẽ không bao giờ đến với ông và ông cũng không bao giờ nói với họ mặc dù tình yêu của ông dành cho họ vô bờ:
nửa đêm khói đốt đời anh
yêu em câm lặng khô cành thu đông
(bài thơ IX)
mùa xuân bay thành khói
tôi ca hát một mình
suốt đời không biết nói
nước chảy tràn con kinh...
(bài thơ X)
Ông yêu người yêu của mình nên nhớ cả nốt ruồi mà ông ví như một điểm linh thiêng của Kinh Ấn giáo Rig Veda:
tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
(bài thơ VI)
Ông yêu người ấy từ thủa nào? Hãy nghe ông tâm sự:
mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong như cánh chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây...
Rồi bao nhiêu năm qua, còn lại những gì: chỉ là căn gác trọ và ngọn đồi lộng gió. Ông chỉ thấy được người mình yêu trong giấc mơ thôi, đau buồn quá..!:
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng mở cửa đông.
Và ta thấy ông buồn rồi... lại buồn:
bãi chiều chưa người tới
tình nhỏ quên từ lâu ...
suốt đời không biết nói
tôi ngồi thức một mình
đốt thuốc lên nhìn khói
đêm rạng điềm hư linh.
Rồi ông lại tưởng tượng người yêu của mình là con chim nhỏ đến với ông đêm giao thừa trong căn gác trọ cô đơn:
trời cuối năm gác trọ
đèn tắt suốt đêm dài
con chim mười năm nhỏ
bay về đậu nơi đây.
(bài thơ X)
Đó là tình yêu thời trai trẻ của ông – cũng như tình yêu của chúng mình vậy – lúc nào cũng mãnh liệt, bao la vô bờ bến. Tôi yêu thơ ông là vì như thế.
Nhưng tôi lại còn mến thơ ông đến nỗi thuộc lòng nhiều câu, nhiều đoạn, vì thời gian và không gian trong thơ của ông thường là những buổi chiều, những giòng sông và những ngọn đồi, đôi khi là vùng biển xanh ; thật là thơ mộng.
tay còn ôm giữ tình yêu
tôi về phố động những chiều hư vô...
phố chiều tôi bước lang thang
nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh...
bãi chiều chưa người tới
tình nhỏ quên từ lâu...
về đâu thương những con đường
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa...
bỏ mình nước chảy đồi tiên
theo con chim dại lạc miền thiên hương...
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay...
trên mái ô tô buýt chiều thu...
Còn điều này nữa. Ông hay nói đến đồi và cây thông, nên làm ta nghĩ đến Đà-Lạt, vì Đà-Lạt có những ngọn đồi rất nên thơ ; và đúng như vậy:
xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm...
Ông sinh năm 1941, tuổi Tỵ (con rắn) nên thơ ông hay có loài bò sát này:
rắn trườn vỡ trứng chim rừng
tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm...
(bài thơ IX)
tôi gọi hương và tôi chết giấc
tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
máu đổ mưa đen...
tôi gọi thầm
rắn cuộn tròn
tương lai..
tôi trốn giặc đời
tắm trong hồn hương
trái đu đủ
trong khu vườn xưa
con rắn nhỏ...
Để thay lời kết, tôi xin chép lại bài thơ mở đầu cho thi phẩm, bài thơ mang vẻ huyền bí của Mật Tông:
tôi đi đông chìm
trời âm u thung lũng khô
nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi
dưới kia sụp đổ
núi cấm nổ tôi ra
cửu long ca từ tây tạng
tôi về
tôi hiện
đèn tắt trời gió tắt trăng
chim lạ
kêu tiếng người
hố thẳm ra đời
tôi bay trên biển.
(bài thơ I)
Thật ra Phạm Công Thiện đã biết đến Mật tông Tây Tạng từ lúc ông 17, 18 tuổi khi ông đọc tác phẩm BARDO THODOL (Thân Trung Ấm, chữ Tây Tạng là: Bar-do thos-grol) và xem như sách gối đầu giường của ông thời trai trẻ.
Nếu có dịp tôi sẽ viết một bài về PHẠM CÔNG THIỆN và TÂY TẠNG HUYỀN BÍ.
ĐỖ KIM PHỤNG |