TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Ai Về Sông Tương
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Ai Về Sông Tương

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Sat Jun 12, 2010 6:52 pm    Tiêu đề: Ai Về Sông Tương

Bài viết do bạn bè gửi đến, thấy hay nên Loan mạn phép xin tác giả cho Loan được đăng lên diễn đàn để mọi người cùng thưởng thức.


Xứ chuột túi 25/5/10

Kính Thân Hữu Quí mến,

Chúc Thân Hữu Vui vẻ & Bình Yên.

Sáng nay, lại chia sẻ cùng Thân Hữu Nhạc của Thông Đạt:

Bài: Ai Về Sông Tương.

Bài ca này được Tác giả viết vào năm 1949 với cung La trưởng, uyển chuyển tha thướt trong phần lời lãng mạn, trữ tình, là một bản nhạc gối đầu giường, nằm lòng của thanh thiếu niên trong những thập niên 50 và  60's.

Về ca khúc này, có một câu chuyện khá thú vị như sau, theo Lê Dinh:
"...Trong những thập niên 1940, 1950, ở Huế ai ai cũng biết ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà Xuất bản Tinh Hoa Huế (xin đừng lẫn lộn với nhà xuất bản Tinh Hoa miền Nam ở Saigon do nhạc sĩ Lê Mộng Bảo làm giám đốc) in ấn và phát hành một số nhạc phẩm ít oi của thời đó.

Là nhạc sĩ, đương nhiên Văn Giảng chơi thân với ông Tăng Duyệt vì một số hành khúc của ông đều do nhà xuất bản Tinh Hoa Huế của ông Tăng Duyệt ấn hành. Một hôm trong lúc vui miệng, ông Tăng Duyệt có ngụ ý bảo rằng nhạc sĩ Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca thôi còn về những bài tình ca không phải sở trường của Văn Giảng.

Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài "Ai Về Sông Tương", không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó. Bản "Ai Về Sông Tương" được tác giả Thông Đạt gửi đến các đài phát thanh ở Hà Nội, Huế và Saigon và cả nước đều nghe "Ai Về Sông Tương" của Thông Đạt.
Sau nhiều lần được nghe bài "Ai Về Sông Tương" quá hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài "Ai Về Sông Tương" là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai!

Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng, tác giả bài "Mùa Thi" (Thi ơi là thi, sinh mi làm chi, "bay" nghẹn ngào, "bám", ồn áo, buồn vui vì mi) và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài "Ai Về Sông Tương" với tuồng chữ và lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu "Blues" tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó.
Nhạc phẩm "Ai Về Sông Tương" đã chiếm kỷ lục tái bản thời đó với 6 lần in thêm trong tháng đầu tiên và được thính giả Đài Phát thanh Pháp Á chọn là bài nhạc hay nhất trong năm 1949...".

Về sông Tương:

Tương Giang hay Tương Thuỷ hay sông Tương ( 湘江 hay "湘水) là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang (vạn dặm), chảy qua tỉnh Hồ Nam,Trung Hoa, có tổng chiều dài 856 km. Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc và chảy vào Hồ Nam.
Từ huyện Đông An thuộc thành phố Vĩnh Châu thì chảy theo hướng bắc, sau đó nhận thêm nước từ nhiều các sông như : Tử Thủy, Lưu Dương Hà, Vi Thủy... Cuối cùng đến Hào Giang Khẩu ở huyện Tương Âm thì Tương Giang phân thành hai dòng và cùng đổ vào hồ Động Đình.

Ở nước ta, có Bến Gót bên dòng sông Lô, cầu Việt Trì, Phú Thọ, thành phố ngã ba sông sông Hồng, sông Lô và sông Thao..cũng gây nhiều cảm hứng cho Văn học & Lịch sử không kém sông Tương là mấy.
Tại Ngã Ba Hạc là chỗ hợp bởi sông Thao (nước đỏ vì nhiều phù sa) và sông Lô (nước rất trong nhất là vào mùa nước cạn), khi hai sông hợp nhau ở bến Gót thì thành dòng lớn hơn là sông Hồng nhưng vẫn còn chảy một đoạn dài bên trong bên đục..( còn sông Đà thì hợp với sông Thao ở mãi tận Trung Hà, bên trên Phú Thọ). Nhưng trong Nhạc của Đặng Thế Phong, thì viết: "...Trên con sông Thương, nước chảy đôi giòng.." thì NNS không biết.

Ngã ba Hạc hợp lưu bởi sông Thao, sông Đà, sông Lô, tạo nên dòng trong, dòng đục, sông rộng mênh mông như biển cả, xa xa tả có Tam Đảo, hữu có Ba Vì, hai bên bờ là các làng mạc, ruộng vườn tươi tốt, bến sông thuyền bè tấp nập, hữu tình. Bạch Hạc - Bến Gót ngày nay thuộc phủ Tam Đới xưa, còn tồn tại rất nhiều di tích lịch sử văn hoá, các truyền thuyết, chuyện kể về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta như: “Hoa Long Thiền Tự” xưa ở bến sông Thông, cạnh chùa có một tảng đá ven sông, trên mặt còn hằn vết gót chân. Tương truyền, đây là nơi Lạc Long Quân lập đàn tế trời và đã được tiên ông từ trên trời xuống, ngồi trên tảng đá này, đặt tên, phân định anh em cho một trăm người con do Âu Cơ sinh ra, sau nơi đây buôn bán kinh doanh sầm uất, trên bến dưới thuyền mới có tên là Bến Gót. Đình Bạch Hạc còn có tên là đình thôn Việt Trì là nơi thờ các vua Hùng; Đền Lang Đài là nơi hai chàng Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đấu võ; Miếu Hà Thần là nơi thờ thần Sông đã có công giúp vua Trần Minh Tông đánh Man Đà Giang dẹp yên bờ cõi. Đền Bạch Hạc là nơi thờ thổ lệnh có tên huý là Trần Lan và em là Thạch Khanh tên huý là Trần Bảo có phép thuật thần y, chữa được bách bệnh cho nhân dân, sau hoá thần ở Tam Thanh Quán bên bờ sông Bạch Hạc, được phong làm thần thiêng ở ngã ba sông Hạc....
Ngoài ra trên mảnh đất này còn tồn tại rất nhiều sự tích ly kỳ, nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như: Hội bơi chải, Hội giã bánh dầy,... nói lên sự hình thành tên làng, tên xóm, tên sông, những nét sinh hoạt văn hoá truyền thống của của nhân dân ta gắn liền với nền văn minh sông Hồng và nền văn minh lúa nước....

Nói đến Tương giang, thì ai cũng biết Khúc Trường Tương Tư. Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quí (905-955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có nàng Ý Nương, con gái của Lương công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ. Ở trọ nhà có chàng (hàn sĩ) Lý Sinh...Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưởng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai phải lòng nhau. Lương công biết được, tức giận đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau đớn, từ đó sinh ra bệnh tương tư triền miên, mới làm bài khúc "Trường tương tư" mong gởi nguồn tâm sự cho người yêu biết.

Trong bài có những câu rất ai oán:

Người ta bảo sông Tương rất sâu,
sao bằng lòng thương nhớ
Sông Tương còn có đáy
lòng nhớ lại vô bờ.
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Tương tư không gặp mặt,
Cùng uống nước sông Tương.
Hồn mơ bay chẳng tới
Chỉ thiếu một điều chết.
Ta vào cửa tương tư,
Mới biết tương tư đau khổ!

Nguyên văn:

Nhân đạo Tương Giang thâm,
Vị để tương tư bạn.
Giang thâm chung hữu để;
Tương tư vô biên ngạn.
Quân tại Tương Giang đầu,
Thiếp tại Tương Giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương Giang thủỵ
Mộng hồn phi bất đáo,
Sở khiếm duy nhất tử.
Nhập ngã tương tư môn,
Tri ngã tương tư khổ!

Lý Sinh tiếp được, đọc xong, cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ với Lương ông, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Ông trước còn dùng dằng, sau đọc được khúc "Trường tương tư" của con, lấy làm cảm động nên cho Sinh thành mối lương duyên.

Trong "Đoạn trường tân thanh" có câu:
Sông Tương một giải nông sờ,
Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
Và trong "Chinh phụ ngâm", bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm cũng có câu:
Chốn Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương, thiếp hãy trông sang...

Thân Hữu đọc bài viết hay:

Người suốt đời đi tìm sông Tương

Đỗ Chu

Suốt một đời tôi đi tìm sông Tương mà vẫn chưa gặp nó. Ở vùng chúng tôi có tổng Tiêu Giang, lại có xã Tương Giang. Ngờ rằng sông Tiêu Tương nằm quanh chỗ ấy. Sen súng um tùm ven bờ tre, trong ruộng lúa, ao chuôm, đầm lầy.

Có thể đấy là dấu vết của dòng sông cổ tích chăng. Đám trẻ thì bảo chẳng có sông Tương, nó ở bên Tàu, người già thì kể có sông Tương nhưng nó chỉ là một con ngòi nhỏ, hát mãi, kể mãi mà thành.
Nhiều năm tôi đi xa, nhưng đi xa mấy rồi có lúc cũng phải quay về, mỗi lần trở về là lại một lần qua nơi ấy, là lại phải bận tâm nghĩ tới một dòng sông nay đã biến mất ngay trước mắt mọi người, từ lúc nào không hay.
Hiện ở đó có làng Thiều Hoa, quê mẹ của cụ Nguyễn Du. Bà là con gái yêu của một viên quan nhỏ, một viên thơ lại tầm thường, làm việc lâu năm trong phủ tể tướng Nguyễn Nghiễm. Năm bà về làm vợ bé của quan tể tướng là chưa đến hai mươi, ngày sinh Nguyễn Du cũng chưa qua tuổi ấy. Khi chồng mất đi bà dắt đứa con trai còn đang ở tuổi lên năm lên bảy tới gặp người anh cả của nó là tân tể tướng Nguyễn Khản mà nói, tôi đàn bà nông nổi, nay gặp cảnh góa bụa, em nó còn quá trẻ dại, xin nhờ cậy anh cả thay cha dạy dỗ em. Nguyễn Khản cười vang, dì yên lòng, trong nhà ta rồi ra chỉ có nó thôi đấy, tôi xem chỉ có chú ấy mới là người biết làm rạng danh cho dòng họ nhà mình. Nguyễn sống trong phủ tể tướng, ở phường Bích Câu, trông sang bên kia hồ Văn là cổng lớn Văn Miếu. Ông sớm được gửi vào học hành trong Quốc Tử Giám, tuổi thơ ông là những ngày tháng nhung lụa nhã nhạc tưng bừng.

Nhưng những dòng chữ đầu tiên ông ngồi mài mực để tập tô đã là một câu có mang hàm ý nhắc nhở nghiêm khắc: Trình môn tuyết lập đắc văn giáo đa thuật hĩ, Huyên thật đường cao thượng tại vinh cập kiến chi. Có thằng bé đứng ngoài tuyết trước cửa Trình nghe dạy bảo học thuật, lại có người mẹ ngồi ở nhà mòn mỏi ngóng trông con mình sớm nên người.

Lớn thêm vài tuổi nữa, Nguyễn đã phải khoanh tay đứng tựa cột mà đọc thuộc lòng sách Mạnh Tử: Khi ông trời muốn trao trọng trách cho một ai thì trước hết sẽ làm cho khổ cái tâm, mệt cái chí, cùng túng cái thân người ấy, hễ làm gì cũng nghịch với ý muốn, như vậy là cốt để kích động cái tâm, kiên nhẫn cái tính, thêm ích cho những điều chưa hay làm được.

Nguyễn vừa kịp trưởng thành thì dở dang sự học, gia cảnh tan nát, loạn kiêu binh rồi khởi nghĩa Tây Sơn, đến triều chính ba trăm năm còn sụp đổ huống hồ là mấy nhà quan. Ông bỗng hóa ra một anh chàng thất thểu, sau một đêm thành kẻ cầu bơ cầu bất, nghèo túng và trốn lủi liên miên. Rồi lại sau một đêm đầu ông bạc trắng. Về sau, khi nhà Nguyễn đã bình được thiên hạ, ông có được vời ra làm cai bạ Quảng Bình rồi làm tả thị lang Bộ Lễ, mấy lần đi sứ Trung Quốc, nhưng tính nết vẫn thế, vẫn ậm ừ cả nghĩ, đầu óc đăm đắm những chuyện đâu đâu, làm quan mà không năng nổ chuyên tâm thì đói rách là cái chắc.
Đã có lúc ông phải bồng bế sáu bảy mặt con về tìm quê nội ở vùng Nghi Xuân, ngày ngày bám theo đám thợ săn vào núi kiếm ăn. Và ông đã ngẩng mặt lên trời mà than: Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên. Là miếng ăn không biết đùa với kẻ sĩ, nó là chuyện hiển nhiên. Từ bấy đến nay đã có trên hai thế kỷ cũng chưa xa xôi gì cho lắm, vậy mà đám con cháu của Nguyễn giờ không làm sao tìm được lấy một người, không ai biết ai lưu lạc nơi đâu, vẫn còn cả đấy nhưng đã lẫn lộn vào cỏ, vào đất, đã thành chúng sinh, thành thảo dân rồi.
Gần đây tôi đã tìm về thắp hương cụ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục. Bước qua cổng nhà cụ là lúc trời sắp tối, hàng xóm nhiều nhà đã lên đèn, bên một trụ cổng vẫn còn lưu giữ một câu ông cụ để lại, chữ nghĩa bị con cháu tô vẽ lệch lạc mất cả nhưng vẫn có thể hiểu được ý tứ: Nơi này rồi Đạo sẽ qua đi, còn lại chỉ là những bụi gai mọc lòa xòa trên bậu tường đất. Một dự cảm chính xác, một lo âu của người sắp đi xa và cũng có thể xem là một nỗi thất vọng.

Cũng vào thời ấy ở Hà Nam có một ông công sứ Pháp tuổi còn trẻ mà đã giỏi tiếng Việt, không chỉ giỏi tiếng Việt, ông ta còn đọc được cả văn bia chữ Hán, thơ văn chữ Hán. Vài năm một lần các quan chức Pháp sang cai trị ở ta đều phải dự một lần khảo hạch tiếng Việt, ai qua được thì đặc cách lên lương sớm. Cái mẹo này khuyến khích người ta chịu khó học, nhiều ông đâm thua thiệt nhưng lắm ông mừng vì lương có cơ lên vùn vụt. Như viên công sứ Hà Nam chẳng hạn. Nhưng giỏi quá dễ kiêu.

Một hôm ông ta thở dài bảo, không biết năm nay tìm ai để khảo giám tôi đây. Vừa hay đúng dịp có cụ Vũ Phạm Hàm từ bên Hải Dương thuyên chuyển về đất Hà Nam làm đốc học. Chuyện ấy đến tai ông cụ. Cuối năm ông cụ được mới đứng ra làm người hỏi thi tiếng Việt cho quan công sứ. Gặp nhau ông cụ chỉ nói, quan lớn là người nổi tiếng, khắp Bắc kỳ này ai chả biết học lực tiếng Việt của quan lớn, bây giờ tôi không đòi quan lớn phải dùng đến bút mực làm gì, chúng ta chỉ cần nói chuyện. Tôi sẽ hỏi quan lớn một câu ngắn, quan lớn cũng trả lời bằng một câu ngắn thế là đủ, mà tôi cấm quan lớn không được hỏi lại, hỏi lại là quan lớn trượt, quan lớn có bằng lòng không? Quan lớn nghe thế thì bằng lòng quá, ông già này xem ra rất biết điều. Ông già dõng dạc hỏi, xin quan lớn cho biết trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là gì?

Thì trong tiếng Việt em gái mẹ gọi là dì. Ông công sứ trả lời tắp lự. Nhưng cũng vì là người giỏi tiếng Việt cho nên chỉ vừa thoáng thấy cụ Hàm cười là ông ta chợt vỡ lẽ, mình trượt mất rồi, ông già này bẫy mình mất rồi. Câu trả lời cũng có thể xem là một câu hỏi lạ. Về tới dinh, nhìn thấy bà đầm thì ông hoảng thật sự, với ông miếng đòn này đâu có sá gì, nhưng với bà ấy thì lại là chuyện trời sắp sập, còn ghê gớm hơn cả một cuộc chiến tranh.
Bà công sứ vội vã tìm đến nhà riêng cụ đốc học. Đợi bà lau nước mắt kể lể xong ông cụ mới chậm rãi bảo, phải để ông nhà hỏng thi tôi cũng lấy làm tiếc như bà, có một người Pháp yêu tiếng Việt như ông nhà sao tôi lại không quý. Bây giờ tôi ra cho bà một điều kiện nho nhỏ, bà làm được thì xem như ông nhà đỗ. Tôi về đây nghe dân tình xì xào là mỗi lần ra chợ, qua dãy hàng bún mắm tôm bà đều bịt mũi nhăn mặt tỏ vẻ khó chịu, có phải vậy không? Vậy bà làm sao thì làm. Bà công sứ vui vẻ ra ngay chợ, vui vẻ sà vào hàng bún mắm tôm, chuyện trò rôm rả thân tình. Rồi bà yêu cầu ông chồng phải đến mời bằng được cụ đốc học tới thăm nhà mình một buổi. Ông cụ nhận lời.

Vợ chồng công sứ hôm ấy mời ông cụ ở lại cùng họ dùng bữa trưa, chỉ có bún lá và mắm tôm. Suốt bữa bà đầm lấy làm sung sướng với món đặc sản đó. Năm ấy tai qua nạn khỏi, quan công sứ vẫn đỗ, vẫn lên lương như thường. Chẳng qua cũng chỉ là sự nhắc nhở nhẹ nhau vậy thôi. Xem thế đủ biết gặp những hoàn cảnh éo le nhất, cha ông ta vẫn tìm được những cách khu xử và giải quyết từng trải lịch lãm và rất nhiều lúc còn có thể pha đôi chút hóm hỉnh đùa dai. Đó cũng là một bản lĩnh.

Cụ Vũ Phạm Hàm là bạn đồng khoa với cụ Nguyễn Thượng Hiền, một cụ là Thám hoa, một cụ là Bảng nhãn. Dạo còn ở bên Hải Dương cụ thám hoa đã cho hai câu đối để trước đền Kiếp Bạc thờ Đức Thánh Trần.

“Kiếp Bạc mỗi sơn giai kiếm khí,
Lục Đầu vô thủy bất thung thanh”
Mỗi ngọn núi Kiếp Bạc vẫn như đang tỏa khí thiêng của kiếm quý, ngoài cửa Lục Đầu không ngọn sóng nào là không vang lên tiếng cọc đóng. Đấy là những cây cọc gỗ Bạch Đằng lịch sử.

Cụ Nguyễn Văn Siêu là một người Hà Nội. Cụ chỉ đỗ Phó bảng thời Minh Mệnh, là trên cử nhân dưới tiến sĩ, nhưng tài học thì ít ai bằng, thiên hạ xem cụ là thần, thần Siêu thánh Quát. Nhà cụ ở một phố cổ mang tên cụ, phố Nguyễn Siêu. Ngày trước gọi là phố Quan án sát Nguyễn Siêu. Cụ được vời vào cung giữ chức Thái bảo, làm thày dạy của vua Thiệu Trị, về sau chuyển về làm Án sát Hưng Yên. Trước khi làm Án sát Hưng Yên cụ còn có mấy năm dừng chân làm Án sát Hà Tĩnh. Là nhà nho làm quan lớn, nhưng cũng còn là một nhà văn hóa lớn, sách để lại cho hậu sinh đầy ngập một kệ. Thơ văn của cụ thật giản dị cốt cách, vừa sâu sắc lại vừa phóng túng, hiện đại: Già về xóm cỏ làm dân, về thì mong giữ tấm thân được nhàn. Việc đời nát ruột bầm gan, chỉ chưa nỡ bỏ mấy gian sách nhàu. Trời xanh đội đến bạc đầu, chân lùa gió bụi chẳng màu bùn nhơ. Gọi quan gọi lão cũng ờ, đường xa một tấm thân giờ ta đi.

Tôi thường hay tìm về nhà tổ của cụ ở làng Lủ ngoại thành, chuyện trò cả buổi với anh Tự Huy là cháu đích tôn của cụ. Vườn tược quanh nhà con cháu bán bòn hết, phần mộ cụ ở mé ngoài làng vẫn còn nhưng nay đã nằm gọn trong địa phận một nhà máy, ngày giỗ tết con cháu phải xin phép mới được vào thắp hương. Thế nhưng trong ngôi nhà gỗ to đùng do vua Thiệu Trị ban tặng, bức tranh vẽ cụ vẫn đó, cụ ngồi tay cầm cuốn sách đọc dở dang, có chú hỷ đồng cầm quạt đứng ở mé sau. Trên cao là một bức đại tự với bốn chữ thếp vàng: Giang Hán bỉnh linh. Kệ sách cổ thời gian đã làm cho nhàu nát bụi bặm ở sau hàng cột lim.
Một lần tình cờ giở ra tôi đã tìm được bài thơ tuyệt vời của cụ, cứ theo lối nói của bây giờ thì đó chính là một áng văn đậm đà bản sắc dân tộc, tôi cũng xin chép nó ra đây: Hà sự đồng ca hồ hải khoan, hồ hải sinh nhân hồ hải hoan... Sao cứ cùng nhau hát hồ hải khoan, từ sóng biển sinh ra nên vui cùng sóng biển chăng? Chuyến trước vừa thấy ra khơi nay lại vào ghềnh thác, tưởng kết hậu rồi chợt lại cất lên. Chị trẻ bến Đông, rồi bà lão bến Tây, giọng nam trầm hùng, giọng nữ lảnh lót, những khúc ca nước Ngô nước Tần làm sao sánh kịp, những giai điệu phương Nam nhịp phách phương Nam, khiến ta nghe lòng vui cùng năm tháng, bạn hãy cùng ta cao hứng lên, sóng gió biển Đông không khi nào ngửng, lau sậy ven bờ vẫn ngoi tràn mặt nước, thì đừng lảm nhảm mãi những khúc hề trừ ly tán. Này, tai ta giờ chỉ còn nghe thấy hò hụi khoan, mắt ta giờ chỉ đăm đắm hướng thuyền.
Chắc hẳn cụ Siêu đã viết bài này vào những năm làm quan trong Hà Tĩnh. Tôi tưởng chả nên bàn gì thêm nữa. Ông cụ đã nói cả rồi, mà nói hay lắm rồi.

Đêm đêm trước đèn mình thức với mình, tôi vẫn mông lung đi tìm cái dòng Tương muôn thuở ấy. Tôi vẫn tin là đang có nó, nó vẫn đang chảy trong lòng đời sống dân tộc. Nó là dòng sông của thi ca, là tình yêu, là nguồn cảm hứng vô tận để chúng ta sống và sáng tạo, là nguồn sáng trí tuệ đáng tin cậy nhất trong sứ mệnh dẫn đường.
PPS Nhạc Ai Về Sông Tương có 2 bản:
(i) một do Ánh Tuyết hát, và (ii) một do Tuấn Ngọc hát.

NNS làm pps cả 2.

Kèm theo đây là: 136-NNS-Ai Ve Song Tuong-Ánh Tuyết.pps

Nếu Thân Hữu thích giọng hát Tuấn Ngọc, thì NNS gởi cho.

Kính,

NNS


Về Đầu Trang
ledinhduc
Niên Khóa 1968-1975


Ngày tham gia: 12 Jan 2008
Số bài: 801
Đến từ: PR/SG/California/Arizona

Bài gửiGửi: Sun Jun 13, 2010 10:03 am    Tiêu đề:

Hồng Loan ơi,

Chuyện về sông Tương buồn, thiết tha mà hay quá!
Con sông nào cũng đẹp và thơ mộng. Ngày còn ở Duy Tân anh có đọc cuốn  Dòng Sông Định Mệnh của Nhất Tuấn, kể về câu chuyện tình của một đôi trai gái trẻ ở một vùng quê phương Bắc. Có đoạn kể về lúc hai người tâm tình với nhau trên bờ đê của con sông. Hôm ấy trăng rằm, và chàng trai đã ví von là đời người như chu kỳ của trăng tròn rồi khuyết ---và chàng buồn bã nói là khi quá ba mươi thì không còn trăng đi với tuổi của mình nữa...

---
Sông Tương còn có đáy
lòng nhớ lại vô bờ.
---
Biết gửi về ai nỗi Nhớ năm xưa....

Thân mến.
_________________
Thời gian trôi qua, tình quê không phôi pha.....
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Sun Jun 13, 2010 10:54 am    Tiêu đề:

Vâng, con sông nào cũng đẹp cũng thơ mộng cả anh Đức nhỉ, con sông Dinh chảy qua ngôi trường mình cũng đẹp, cũng thơ mộng và cũng là nhân chứng cho biết bao nhiêu cuộc tình...

Mỗi lần đi đâu, bắt gặp một con sông nào Loan cũng nhớ đến dòng sông tuổi thơ của mình. Con sông Thames mạnh mẽ đầy quyền lực, con sông Sein lãng mạn gọi mời, lại cảm thấy nhớ tha thiết những khúc quanh của con sông Dinh giữa hai mùa mưa nắng.

Rất mong gặp lại anh Đức và Đạo cũng như các chị vào tháng 7 này, chắc sẽ có nhiều điều để nói với nhau.

Kính quý
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Sun Jun 13, 2010 11:13 am    Tiêu đề:

Đọc trong bài này, anh Nam Sơn có nhắc đến "thần Siêu, thánh Quát" làm Loan nhớ đến những bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú học với cô Nguyễn thị Quỳnh Uyển năm lớp sáu:

"Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường"

Kính  
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân