TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - KIÊN GIANG: NHÀ THƠ CHÂN QUÊ VÀ HOA TRẮNG TÌNH-YÊU
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

KIÊN GIANG: NHÀ THƠ CHÂN QUÊ VÀ HOA TRẮNG TÌNH-YÊU

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Thơ Tiền Chiến
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Mon Jan 11, 2010 7:13 pm    Tiêu đề: KIÊN GIANG: NHÀ THƠ CHÂN QUÊ VÀ HOA TRẮNG TÌNH-YÊU

Úc châu, 11 tháng Chạp Tây,

Friday.

Cùng Quí Vi THân Hữu  Kính mến...

Kính Chúc   QuíVi Cuối Tuần Vui vẻ.

Tặng   Thân Hữu  Quí của NNS một bài hát hay, phổ thơ:

Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím.

Và đọc bài về: Thi sĩ/Soạn giảKiên Giang Hà Huy Hà.

Nay kính,

NNS

KIÊN GIANG:
NHÀ THƠ CHÂN QUÊ VÀ HOA TRẮNG TÌNH-YÊU
Nguyễn Vy Khanh



Nhà thơ Kiên Giang đã đến và ở lại văn-học sử Việt Nam với tình-yêu chân quê và mối tình màu hoa trắng. Ông tên thật là Trương Khương Trinh, sinh ngày 17 tháng 2 năm 1929 tại làng Đông Thái, tỉnh Kiên Giang (cùng quê với nhà văn Sơn Nam, vùng rừng U Minh cũng là thế giới tiểu thuyết của Sơn Nam). Ngoài thơ-ca được ký dưới bút hiệu Kiên Giang khi đăng báo và Kiên Giang Hà Huy Hà khi xuất bản, ông còn là soạn giả cải lương Hà Huy Hà và ký giả kịch trường Kiên Giang Hà Huy Hà. Các bút hiệu ‘nghi-trang’ ông đã dùng trên báo chí miền Nam cộng-hòa: Ngân Hà, Nam Bình, Tám H., Trinh Ngọc, Bút Trời, Bút Sài-Gòn, Cửu Long Giang.

Năm 1946, ông tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm, trưởng Đoàn văn nghệ thiếu nhi cứu quốc tỉnh Rạch Giá, làm biên tập và phóng viên báo Tiếng Súng Kháng Địch ở chiến khu 9 với bút hiệu Huy Hà và ký Kiên Giang khi làm thơ. Ông đã gặp và sống gần gũi nhà thơ Nguyễn Bính trong cùng chiến khu và hai người đã kết nghĩa anh em. Kiên Giang đã kể rằng ông "có nhiều ràng buộc với thi sĩ Nguyễn Bính lúc Nguyễn Bính đến tá túc tại xóm biển Kiên Giang (Rạch Giá). Nguyễn Bính đã khích lệ tôi làm thơ" (1). Sau năm 1955, Kiên Giang trở về Sài Gòn viết báo và làm ký giả kịch trường cho các nhật báo Lẽ Sống, Dân Chủ Mới, Tiếng Chuông, Tiếng Dội, Thời Sự Miền Nam, Dân Ta, Dân Tiến, Lập Trường, Điện Tín, Tia Sáng ở Sài-Gòn và Miền Tây ở Cần Thơ; cộng tác với một số tạp chí văn-nghệ như Đời Mới, Bông Lúa, Vui Sống, Nhân Loại (2),Thế Giới, Phổ Thông, v.v., soạn các tuồng kịch cải lương và bài ca vọng cổ. Ông còn là trưởng Ban thơ văn Mây Tần của đài phát thanh Sài-Gòn.

Về tác phẩm, ông đã xuất bản các tập thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím (1962, nhà xuất bản Phù Sa của nhà văn Ngọc Linh, nhà văn Thanh Nam đề tựa, 62 trang), Lúa Sạ Miền Nam (NXB Lá Bối, 1970. 80 trang), Quê Hương Thơ Ấu (NXB Phù Sa, 1967, 63 trang). Sau 1975, ông có Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím (NXB Văn-học, 1995) được tái bản và có tuyển tập Thơ Kiên Giang (Hà-nội: NXB Văn-hóa thông-tin, 1996. 107 trang). Ông cũng đã soạn nhiều vở cải-lương như Người vợ không bao giờ cưới (1958 với Phúc Nguyên), Ngưu Lang Chức Nữ, Áo cưới trước cổng chùa, v.v. và một số bài tân cổ giao duyên.



Nhà thơ của Hoa trắng Tình-yêu
Chính thức gia nhập làng thơ Việt-Nam năm 1952 nhưng thi tập Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím là tác-phẩm đầu tay của ông, được xuất bản và tái bản cùng năm 1962. Những bài thơ, trường thiên có, ngắn có, gợi nếp sống thanh bình hay cảnh chiến tranh, nhưng cả tập đều đầy hương vị của miền Nam thôn dã, ruộng đồng. Kỷ niệm thời hoa niên, những tình yêu ngang trái hay nhẹ nhàng, những cảnh quê của một miền Nam chưa đô thị hoá, ở khung cảnh và tâm tình con người. Giòng sông uốn khúc chảy ra biển "vẫn nhớ rễ bần, đất Hậu giang", cây đa xiêu vẹo đầu làng, tiếng nhạc xe bò qua cầu Hàng Sanh, màu mực tím từ trái mồng tơi, người mẹ cả đời hy sinh cho chồng con, một cô gái nhỏ ngây thơ, một tà áo tím kỷ niệm,...

Nổi tiếng nhất là bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím được dùng làm tựa tác phẩm, bài thơ mà vào đầu thập niên 1960 những tiếng ngâm Hoàng Oanh, Hồ Điệp, v.v. trên làn sóng điện trong chương trình Tiếng Thơ Mây Tần do Kiên Giang phụ trách trên đài phát thanh Sài Gòn, đã từng làm say mê thính giả một thời và được nhạc sĩ Huỳnh Anh phổ nhạc. Bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím là một trong số những truyện kể của tập: Hai người học trò quen nhau, nàng hay mặc áo tím và cài hoa trắng. Thời gian qua nàng lấy chồng còn chàng đi theo tiếng gọi chống giặc xâm lăng cũng là để bảo vệ những kỷ niệm trân quý thời hoa niên. Một tình-sử đẹp thời chiến tranh chống ngoại xâm. Bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím đã đưa nhà thơ Kiên Giang vào văn-học sử. Một chuyện tình đẹp với những nét thuần-khiết và chân chất. Rất lâu sau này nhà thơ mới tiết lộ cho biết người con gái đối tượng tình-yêu và các chi tiết chung quanh bài thơ. Một chuyện tình thật của nhà thơ với cô Nguyễn Thúy Nhiều, một cô bạn học cùng lớp đệ nhị tại trường tư thục Nam Hưng, Cần Thơ. Tình trong như đã với cả hai nhưng thật câm nín, chàng trai chỉ biết theo bước chân nàng những hôm nàng đi lễ nhà thờ, nàng thường mặc áo tím và cài hoa trắng. Cho đến ngày kháng chiến tháng 8-1945. Ông về quê tham gia kháng Pháp rồi gia đình ép lấy vợ. Mười năm sau gặp lại, người nữ áo tím ngày nào vẫn chờ. "Hai tháng sau, ông nhận được thư bà Nhiều báo sẽ lấy chồng vì Kiên Giang đã có vợ. Người chồng của bà Nhiều cũng tên Trinh và khi sinh đứa con đầu lòng bà đặt tên tên Triều (gồm một nửa Nhiều và Trinh cộng lại)" (3).

Bài Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tímcó hai văn-bản: bản đầu ghi sáng tác tại Bến Tre ngày 14-11-1957, gồm 15 đoạn (60 câu), bản thứ hai ghi ‘Gia-Định 28-5-1958’ lược bỏ mất 8 câu và thay đổi một số câu và chữ dùng. Đặc biệt diễn tiến câu chuyện tình và ý tưởng ở cuối hai bản khác nhau nhưng người đọc và thính giả đài phát thanh và ca nhạc đa số chỉ giữ lại đoạn cuối của bài thứ nhất sáng tác vào tháng 11-1957: người nữ áo tím cài hoa trắng sẽ trở lại giáo đường, nhưng trong chiếc áo quan và mối tình sẽ bất diệt.

Trước hết, xin ghi lại văn bản đầu trích từ tuyển tập Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím do nhà Phù Sa xuất bản năm 1962, chúng tôi in nghiêng những câu và chữ sẽ thay đổi ở bản sau. Đầu bài thơ ghi “Tâm-tình người trai ngoại đạo đối với cô gái có đạo":

"Lâu quá không về thăm xóm đạo

Từ ngày binh lửa xóa không gian

Khói bom che lấp chân trời cũ

Che cả người thương, nóc giáo đường

Mười năm trước em còn đi học

Áo tím điểm tô đời nữ sinh

Hoa trắng cài duyên trên áo tím

Em là cô gái tuổi băng trinh

*

Trường anh ngó mặt giáo đường

Gác chuông thương nhớ lầu chuông

U buồn thay! chuông nhạc đạo

Rộn rã thay! chuông nhà trường

Lần lữa anh ghiền nghe tiếng chuông

Làm thơ sầu mộng dệt tình thương

Để nghe khe khẽ lời em nguyện

Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ chuông ngừng đổ

Hai bóng cùng đi một lối về

E lệ, em cầu kinh nho nhỏ

Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

*

Sau mười năm lẻ, anh thôi học

Nức nở chuông trường buổi biệt ly

Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo

Tiễn nàng áo tím bước vu quy

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ

Chiếc áo tang liệm khối tuyệt tình

- Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Thôi còn đâu nữa tuổi băng trinh

Em lên xe cưới về quê chồng

Dù cách đò ngang cách mấy sông

Anh vẫn yêu người em áo tím

Nên tình thơ ủ kín trong lòng

*

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo

Anh làm chiến sĩ giữ quê hương

Giữ màu áo tím, người yêu cũ

Giữ cả lầu chuông, nóc giáo đường

Mặc dù em chẳng còn xem lễ

Ở giáo đường u-tịch chốn xưa

Anh vẫn giữ lầu chuông gác thánh

Nghe chuông truy niệm mối tình thơ

Màu gạch nhà thờ còn đỏ thắm

Như tình nồng thắm thuở ban đầu

Nhưng rồi sau chuyến vu-qui ấy

Áo tím nàng thơ đã nhạt màu

*

Ba năm sau chiếc xe hoa cũ

Chở áo tím về trong áo quan

Chuông đạo ngân vang hồi vĩnh biệt

Khi anh ngồi kết vòng hoa tang

Anh kết vòng hoa màu trắng lạnh

Từng cài trên áo tím ngây thơ

Hôm nay vẫn đoá hoa màu trắng

Anh kết tình tang gởi xuống mồ

Lâu quá không về thăm xóm đạo

Không còn đứng nép ở lầu chuông

Những khi chuông đổ anh liên tưởng

Người cũ cầu kinh giữa giáo đường

"Lạy Chúa! con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trên trời"

Trong lòng con, giữa màu hoa trắng

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !!"

(Bến Tre 14-11-57) (Tr. 25-27)

Trong bài này, mối tình đam mê của ‘người trai ngoại đạo’ rất nồng nàn và kết thúc lãng mạn. Ngược lại, ở bài sửa lại sau, ghi ngày 28-5-1958, thay vì nhân vật nữ chết và tình tác-giả vẫn nồng cháy, thì ông để người trai "đã chết hiên ngang dưới bóng cờ" khi bảo vệ ngôi thánh đường và như tác giả sau này cho biết vì muốn người yêu sống hạnh phúc bên chồng con, ông đã đổi một số câu trong bài cho hợp tình ý câu chuyện và đoạn kết bài thơ như muốn tống tiễn mối tình học trò trong trắng ấy (3). Xin ghi lại nguyên bài thứ hai (trong cùng tập do nhà Phù Sa xuất bản, tác-giả để bài năm 1958 lên đầu tập, trang 9-11 và phụ ghi là bài 1, bài năm 1957 thành bài 2, trang 25-27).

"Lâu quá không về thăm xóm đạo

Từ ngày binh lửa cháy quê hương

Khói bom che lấp chân trời cũ

Che cả người thương nóc giáo đường

Mười năm trước, em còn đi học

Áo tím điểm tô đời nữ sinh

Hoa trắng cài duyên trên áo tím

Em là cô gái tuổi băng trinh

*

Quen biết nhau qua tình lối xớm

Cổng trường đối diện ngó lầu chuông

Mỗi lần chúa nhựt em xem lễ

Anh học bài ôn trước cổng trường

Thuở ấy anh hiền và nhát quá

Nép mình bên gác thánh lầu chuông

Để nghe khe khẽ lời em nguyện

Thơ thẩn chờ em trước thánh đường

Mỗi lần tan lễ, chuông ngừng đổ

Hai bóng cùng đi một lối về

E lệ, em cầu kinh nho nhỏ

Thẹn thuồng, anh đứng lại không đi

*

Sau mười năm lẻ, anh thôi học

Nức nở chuông trường, buổi biệt ly

Rộn rã từng hồi chuông xóm đạo

Tiễn nàng áo tím bước vu quy

*

Anh nhìn áo cưới mà anh ngỡ

Chiếc áo tang liệm một khối sầu

Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Giữ làm chi kỷ-vật ban đầu

Em lên xe cưới về quê chồng

Dù cách đò ngang cách mấy sông

Vẫn nhớ bóng vang thời áo tím

Nên tình thơ ủ kín trong lòng

Từ lúc giặc ruồng vô xóm đạo

Anh làm chiến sĩ giữ quê hương

Giữ tà áo tím màu hoa trắng

Giữ cả trường xưa nóc giáo đường

Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng

Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ

Anh gom gạch đổ xây tường lũy

Chiếm lại lầu chuông giết kẻ thù

Nhưng rồi người bạn đồng trang lứa

Đã chết hiên ngang dưới bóng cờ

Chuông đổ ban chiều, em nức nở

Tiễn anh ra khỏi cổng nhà thờ

Hoa trắng thôi cài trên áo tím

Mà cài trên nắp cỗ quan tài

Điểm tô công trận bằng hoa trắng

Hoa tuổi học trò mãi thắm tươi

*

Xe tang đã khuất nẻo đời

Chuông nhà thờ khóc ...tiễn người ngàn thu

Từ đây, tóc rũ khăn sô

Em cài hoa trắng trên mồ người xưa"

(Gia-Định 28-5-58) (Tr. 9-11)

Bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím cốt kể một chuyện tình riêng tư đã trở thành một bản tình ca đẹp.

.................................................

Nhà thơchân quê

Quê hương, dân tộc, tình cảm yêu nước rõ nét hoặc bàng bạc trong nhiều bài thơ của ông. Lời lẽ nói chung chân thành và giản dị, không làm dáng, không phức tạp và đẽo gọt tiếng nói, lời văn. Lời và ý một nhịp, chân chất như con người vùng đất Hậu-giang. Thơ Kiên Giang mang tính truyện kể hơn là văn chương điêu luyện. Hãy nghe lời của một chàng trai ghé xin nước ở nhà một cô gái giữa trưa nắng gắt:

"Trời đang đứng bóng trưa gay gắt

Anh ghé nhà em xin nước mưa

Ngỡ lạc Đào Nguyên hay Thượng Uyển

Khi bông sứ nở hội đương mùa

Uống nước trời mưa anh như tưởng

Uống mùi hương tóc gái ngây thơ

Nước trong veo quá, không men rượu

Mới uống lòng đà ngây ngất say

Gió thổi tóc bay hương phảng phất

Giả vờ anh gợi "Nước mưa thơm"

Hương xông từ tóc lên da thịt

Vì má hồng chưa có dấu hôn

Vuốt tóc liếc nhìn như bẽn lẽn

Môi cười nửa nụ trách người quen

"Cái anh thi sĩ đa tình quá

Cho uống no rồi... chọc ghẹo em"

Cổng đã khép rồi bông sứ rụng

Anh lên đường giữa nắng ban trưa

Lòng còn say ngất dư hương cũ

Hương tóc hay là hương nước mưa". (Hương Nước Mưa)

Thề giới thơ của Kiên Giang có một phần thuộc về một thời học trò 'Mực tím phai rồi anh vẫn nhớ / Mùa hoa điệp nở, mộng ngày xanh":

"Tôi đã tương tư màu mực tím

Từng ngày mới viết chữ A, B

Cong queo dòng bút tình thơ dại

Chữ nghĩa đẹp trong nét vụn về

Mỗi lần trái mồng tơi chín

Anh hái làm mực tím

Tặng cô bạn nữa ve bầu

Cô đem mực tím nhuộm màu áo thơ

Từ ngày nhuộm áo màu tim tím

Bè bạn gặp em ở cổng trường

Thường gọi: Này cô em áo tím

Cho anh nhểu mực viết văn chương

Mỗi lần tan học tung tăng bước

Em đụt mưa chiều trú nắng trưa

Dưới lá mồng tơi râm bóng mát

Ngồi nghe mẹ kể chuyện đời xưa

Mẹ nghèo chăm bón vồng khoai tím

Hái lá mồng tơi bán chợ làng

Đổi gạo mua đèn cùng giấy mực

Nuôi con ăn học, mấy năm trường...

(Màu Mực Tím)

"Từ khi cô giáo tập em đồ

Không kê giấy chặm em vô ý

Để dấu tay lem vở học trò"

(Đồng Xu Giấy Chặm)

Bài thơ lục bát Tiền Và Lá được viết năm 1956, về sau được nhạc sĩ Bắc Sơn phổ nhạc, theo giai thoại đã được nhà thơ đề tặng: "Tặng thi sĩ Nguyễn Bính để nhớ ngày tá túc ở xóm biển Kiên Giang". Nhà văn Xuân Vũ trong cuốn Những Bậc Thầy Của Tôi có kể giai-thoại về Kiên Giang: "Người thứ hai tôi gần gũi là Huy Hà. Anh học ở trường Bassac và sớm mê thơ Nguyễn Bính. Con gái của anh hiện nay ở Hoa Kỳ, đã cho tôi biết là thuở còn đi học, anh đã từng lén nhà xúc gạo đem cho nhà thơ giang hồ nghèo Nguyễn Bính, khi thi sĩ lưu lạc về bờ biển Rạch Giá khoảng năm 1942" (5). Tiền Và Lá là chuyện thời thơ ấu chơi trò trẻ con nhưng đã ẩn ý và ám ảnh về giàu-nghèo khơi nguồn cho ý thức xã hội sau này. Trên tạp chí Thời Tập, Kiên Giang cho biết ông không ưng ý nhưng thích bài thơ này vì bài đã gói ghém một chút tình thơ dại (6). Lời đề tặng khác mở đầu bài thơ: “Riêng tặng các bạn đã dang dở với mối tình đầu ...”.

"Ngày thơ, hớt tóc "miểng rùa"

Ngày thơ, mẹ bắt đeo bùa "cầu ông".

Đôi ta cùng học vỡ lòng,

Dắt tay qua những cánh đồng lúa xanh.

Đôi nhà cũng một sắc tranh,

Chia nhau từ một trái chanh, trái đào .

Đêm vàng so bóng trăng cao,

Ngồi bên bờ giếng đếm sao trên trời .

Anh moi đất nắn "tượng người",

Em thơ thẩn nhặt lá rơi… làm tiền.

Mỗi ngày chợ họp mười phiên,

Anh đem "người đất" đổi "tiền lá rơi".

  Nào ngờ mai mỉa cho tôi,

Lớn lên em đã bị người ta mua .

Kiếp tôi là kiếp làm thơ,

Vốn riêng chỉ có muôn mùa lá rơi .

Tiền không là lá em ơi

Tiền là giấy bạc của đời in ra .

Người ta giấy bạc đầy nhà,

Cho nên mới được gọi là chồng em.

Bây giờ những buổi chiều êm,

Tôi gom lá đốt, khói lên tận trời!

  Người mua đã bị mua rồi,

Chợ đời họp một mình tôi… vui gì!"

(Bến Kiên Giang 1956)

Kiên Giang đã chịu phần nào ảnh hưởng thơ Nguyễn Bính khi viết về tình yêu và đồng quê - hay đúng hơn nên nói cả hai ông đều chịu ảnh hưởng thơ ca đại chúng. Dù sao, 'lục-tỉnh tính' ở ông vẫn rõ nét và đánh dấu riêng của thổ ngơi, cảnh sắc và ngôn ngữ vùng Hậu-giang. Bài Lúa Sạ Miền Nam trong tập thơ cùng tựa, vẽ lại bức tranh miền Nam ruộng đồng thẳng cánh cò bay:

"Mời bạn về thăm quê hương lúa sạ

Ngắm biển trời Đồng Tháp, đất An Giang.

Gò Óc Eo còn dấu vết một kho tàng

Nhớ thuở bòn vàng những năm đồ khổ

Lặn dưới bùn sâu mở đường hơi thở

Đưng Ba Thê nhớ cỏ lúa Láng Linh

Bảy Núi gọi mây dựng bức tường thành

Ngăn gió độc cho xanh màu lá mạ

Mời bạn về ôm chân cây lúa sạ

Để reo mừng đau xót với Hậu Giang

Mẩy trăm năm từ thuở mới khai hoang

Nhạc rừng trâu vượt trời nghe đồng vọng

Gọi nhau về Miền Tây chân trời mộng

Chào tay chai rạch đất thế lưỡi cày

Thủy triều lên xuống vơi đầy

Mồ hôi đổ xuống, đất lầy trổ bông

Mời bạn về thăm vùng trời đất đứng

Để lắng nghe mạch sống chảy âm thầm

Dưới mặt nước, nhạc ngầm gợn dư âm

Chuyển thành sóng dập vờn theo tóc lúa

Lúa yêu đồng nên dịu dàng ca múa

Trên địa đàng thơm ngát hương phù sa

Cá tôm kéo về đại hội hải hà

Ca mừng lúa với "Trường ca sung túc"

Mặt đất rộng phơi da đầu dưới nước

Cho rễ dày đan tóc lúa rối đoanh

Gió gợn mặt biển xanh

Sóng xao tóc lúa vây quanh xóm làng

(...) Lúa sạ vượt trời cao đất đứng

Bừng bừng hào khí ngút trăng sao

Trái tim bằng thép, chân bằng đá

Nước xoáy lòng sông cuộn máu đào

Màu Sóc nâu Nàng Tây gạo Điểm

Ngàn năm bốc khói bếp phù sa

Hãy về sông Hậu sông Tiền cũ

Dựng lại quê hương dưới mái nhà

Dầu ăn gạo Mỹ chở tàu binh

Đừng phụ gạo quê đất nước mình

Lúa sạ vẫn còn nguyên rễ mẹ

Địa đàng còn rộng chân trời xanh".

(Miền Tây mùa nước lụt 1964).

Bài Đẹp Hậu-Giang như một thiên anh hùng ca (viết “để tặng người Việt yêu Hậu-Giang”) đề cao con người của vùng đất đã hy sinh và tranh đấu với người và nghịch cảnh để có được như hôm nay.

"(...) Nước chảy một dòng ra biển cả,

Vẫn mang tình nước Cửu-Long giang.

Sông ơi ! dù nước ra khơi biển,

Vẫn nhớ rễ bần đất Hậu-Giang ...".

Bài thơ Bánh Ống Trà Vinh cho biết món ăn quê nhà lúc nào cũng ngon hơn nếu phải so với những đặc sản của những vùng đất khác, vì liên hệ đến con người, cảnh vật thân quen :

"Tôi yêu kiểu áo "tầm vong" nhỏ

Đôi mắt đen huyền cô gái lai

Đôi mái chùa cong như cánh phượng

Gió bay cờ phướng đẹp mây trời.

Tôi yêu hơi nước trong nồi đất

Nấu chín mùi thơm bánh Phú Vinh

Lá dứa tiên thanh màu lá mạ

- Cô em mặc áo cũng thiên thanh.

(...) Hơi nước còn thơm mùi bánh ống

Còn thơm tà áo sắc thiên thanh

Cô em bán bánh sao hiền quá

Lóng lánh mắt huyền in bóng anh.

Vườn bưởi Biên Hòa tuy ngọt lịm

Cũng không bằng nửa múi Thanh Trà

Vì hương tóc rối thơm bông bưởi

- Cô gái Trà Vinh đẹp mặn mà.

Về xứ Trà Vinh ăn bánh ống

Thương màu lá dứa, áo thiên thanh

Gió đưa hương bưởi vào hơi thở

Thương xứ thương luôn gái Vĩnh Bình" (Lúa Sạ Miền Nam)

Thơ Kiên Giang mang đặc tính giản dị, mộc mạc, bút pháp đặc-thù của miền Nam lục-tỉnh:

"Hương cau thơm phức ngôi sao mẹ

Thơm ngát mái nhà, thơm áo cơm

Con thở trong mùi thơm bát ngát

Thịt da mái tóc quyện mùi thơm

(…) Nhớ mùa cau trổ trong vườn cũ

Mẹ quét lá vàng ủ lấy phân

Khói trắng lên trời như tóc bạc

Con ngờ khói tóc quyện mây Tần …"

Vũng Tàu một giờ đêm 13-10-61 (Khói Trắng)

Dưới Giàn Mồng Tơi, với đề tặng "Kính tặng Mẹ". Nơi người mẹ sinh sống 'hai vai gánh nợ con chồng / Tay nhen bếp lửa, tay bồng con thơ":

"Mẹ già nấu rượu nếp than

Kiếm tiền trả bớt nợ nần thâm niên

Trán nhăn cày nếp ưu phiền

Bàn tay nào sạch ? Đồng tiền nào dơ ?

(...) Hai vai gánh nợ con chồng

Tay nhen bếp lửa, tay bồng con thơ

Thở dài theo điệu ầu ơ

"Lấy chồng xa xứ, bơ vơ một mình

Bên ven rừng xứ U Minh

Trọn niềm dâu thảo, trọn tình mẫu thân

Bây giờ héo hắt tuổi xuân

Sáu mươi năm, sáu mươi năm mỏi mòn

Vầng trăng Xẻo Đước thôi tròn

Đường câu đă cuốn, lối mòn đã qua

(...) Ới sông Cái Lớn

Ới ngọn bần gie

Lửa đom đóm chẳng lập loè

Bao giờ mới thấy lối về quê xưa" (Lúa Sạ Miền Nam)

Hình ảnh người mẹ Việt Nam được vinh danh trong bài Tiếng Ru Ba Miền:

"Tiếng mẹ ngân nga triều nước lớn

Điệu vành khuyên, âm hưởng tiếng chim oanh

Mây không đuổi cánh cò bay mỏi gió

Đất miệt vườn mở rộng chân trời xanh

Tiếng mẹ ra mở đường bay cánh gió

Kết tụ mùa xuân trải bốn ngàn năm

Chìm xuống đất ngấm vào đáy thâm tâm

Sức mạnh chìm ngụy trang trong tiếng nấc

Mắt chìm xuống mà tâm hồn bất khuất

Tóc ngả màu vì bạc trắng niềm tang

Vạt áo tứ thân, manh áo vá quàng

Đều in ngầm bản đồ cong chữ S

Tiếng mẹ ru sình non thành đất thép

Trường Sơn gầy giương đòn gánh dẻo dai

Mốc trắng mồ hôi lưng áo vá vai,

Lóng lánh kim cương trái tim mẹ Việt

Tiếng ru vượt trời cao ôi diễm tuyệt

Cuộn sông Hồng uốn khúc Cửu Long Giang.

Gõ xương khô gọi hồn phách mồ hoang.

(...) Tiếng mẹ ru kéo lơi vòng kẽm sét

Phá vòng đai thế kỷ chiến tranh đen

Không xưng danh mà đời vẫn gọi tên

Mẹ Việt Nam: Mẹ oai hùng vạn kỷ

Đàn con mẹ mang tâm hồn thi sĩ

Tay làm thơ tay mở cánh thiên thần

Múa bút so gươm diệt lũ hung tàn

Dựng bao gấm mùa xuân trong huyết sử

Thế nước lòng dân ào ào thác lũ

Tổ Quốc mình bất tử vượt thời gian

Miền Trung sỏi đá

Lên nhịp hò khoan

Bánh xe gió vẫn chuyển luân khí hùng

Điệu ru cay đắng vị gừng

Mưa trong nắng đục, nhạc lừng sông Hương

Tiếng ngâm sa mạc

Giọng điệu à ời

Ngàn năm còn nức nở lời Nguyễn Du

Hồn Đồ Chiểu quyện cỏ khô

Ngàn năm dậy sóng tiếng ru đồng bằng.

(Đêm 12-12-68)

Thơ Kiên Giang nhiều tình tự dân tộc. Kẻ hậu sinh như NNS, dù được đào tạo bên Tây học, sống ở Trời Tây hồi hơn 10 tuổi, nhưng đọc vẫn thấy xao xuyến làm sao ấy. Đúng là cái gốc con người vẫn đợi tác động thuận lợi là nẩy mầm ngay.

Mời hân Hữu nghe bài: Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím: ThơKiên Giang - Nhạc Anh Bằng - Ca sĩ Như Quỳnh.

TB: Finally, có lời này NNS xin gởi Thân Hữu: Những bài trích dẫn hoặc viết lại trong thư gởi cho Thân Hữu, vì NNS ít thời giờ, nên "cẩu thả", dĩ nhiên còn chứa đầy lỗi lầm trong đó. Vả lại NNS cũng không phải là Nhà nghiên cứu Văn học, chỉ bất chợt thấy thích thì viết...Thân Hữu đã thấy, khi viết thư gởi đi, thường NNS dùng chừng 30 phút là nhiều, để tìm tài liệu và lướt qua. Công việc của NNS lại vất vả lắm: Dạy học, nghiên cứu, viết sách, viết report, tiếp những phái đoàn Khoa học từ các Viện ĐH Ngoại quốc đến thăm...(và còn rong chơi nữa), nên không kỹ lưỡng được. Mong Quí Thân Hữu đọc với sự "Bao dung".

Rồi có một ngày, "Nợ Tang Bồng Tay Trắng Vỗ Tay Reo. Thảnh thơi Thơ túi Rượu bầu..." thì có lẽ NNS sẽ viết như nghề tay mặt của mình, thì Thân Hữu sẽ có dịp đọc được những tác phẩm cỡ: Lã Thị Xuân Thu,rồi bắt chước người xưa, treo trước cửa thành Hàm Dương, thách ai đó sửa được một chữ, sẽ thưởng một lượng vàng..Hi..hi...

Điệu này sẽ bị mất 7 lượng vàng cho Chú Thủy Nam và 1 lượng vàng cho Chú Xuyên Lai rồi.. Còn bị nhầm một bài viết về Hoàng Cầm (mà người Bạn từ Saigon gởi, NNS không kiểm chứng..là của N/s PAD, mà Bạn của NNS quả quyết là của Bùi Huy Lực ... lại bị mất cả trăm lượng rồi..Khổ quá.

(NNS nói vui thôi đó).

Good Weekend.

Thôi NNS làm việc đây, nếu không Professor P.Gray, Xếp của NNS rất khó tính, sẽ "liếc liếc". Lại khổ lắm.

Tình thân,

NNS
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Thơ Tiền Chiến Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân