TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Thân Phận Dư Thừa - The Unwanted
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Thân Phận Dư Thừa - The Unwanted
Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Dài
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:03 pm    Tiêu đề: Thân Phận Dư Thừa - The Unwanted
Tác Giả: Nguyễn Kiên - dich giả: Nhật Tiến

Thân Phận Dư Thừa

Nhật Tiến dịch
The Unwanted của Nguyễn Kiên



Lời ghi chú của tác giả

Cuốn Thân Phận Dư Thừa là hồi ức thủa ấu thơ và thời niên thiếu của tôi ở Việt Nam. Nó xuất phát từ những kỷ niệm sống động của tôi trong những năm này và được bổ sung thêm bằng sự hồi tưởng của mẹ tôi và em trai tôi. Kính dâng mẹ Người đưa con vào đời và kính tặng ông Frank Andrews người đã mang cho tôi một đời sống mới. Chân thành cảm tạ Aexandra Bennett và Scott Morgan đã tạo cảm hứng cho tôi viết cuốn này. Judy Clain đã cho tôi cơ hội trở thành văn sĩ. Fiona và Jake Eberts có niềm tin nơi tôi ngay từ thủa ban đầu. Eaine Gartner với sự có mặt tận tình. Michaela Hamilton đã giúp tôi trau chuốt lời văn. Peter Miller với trái tim sư tử đã hỗ trợ tôi từng bước trên đường sự nghiệp. Em Nguyễn Bé Ti đã là đứa em yêu quí của tôi. Nguyễn Jimmy đã giúp tôi đi lại con đường trong ký ức. Ilona Price và Jason Goodman về sự nồng nhiệt và rộng lượng. Joanna Russco - Tabeek đã dành cho tôi nhiều bữa ăn miễn phí tại tiệm Painoteca. Lisa Sharkey với sự khích lệ cần thiết. Milan Tina với một tình bạn chân thành. Đặc biệt xin cảm tạ tất cả quí vị tại cơ sở xuất bản PM & Little, Brown đã giúp tôi thể hiện từ thân phận dư thừa trong ký ức trở thành một tác phẩm. Và đặc biệt gởi tới chị Loan, dù nay chị ở bất cứ nơi đâu, em cũng không bao giờ quên chị.
Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:03 pm    Tiêu đề:

Lời nói đầu của tác giả

Năm tôi lên tám, do một sự tình cờ, mẹ tôi mua được một một cuốn sách ở chợ trời. Bà đưa cho tôi và nói rằng: “Con và đứa bé trong chuyện chỉ khác nhau mỗi bức tường mà thôi, và mẹ sẽ không bao giờ để con rơi vào hoàn cảnh của nó.” Tôi đã đọc đi đọc lại cuốn sách và khóc nhiều lần vì cảm thương nỗi bất hạnh của đứa bé trong truyện. Đó là cuốn “Chim hót trong lồng” của nhà văn Nhật Tiến. Tôi không bao giờ nghĩ tới có một ngày trong cuộc đời, tôi lại được hân hạnh cầm chung một ngòi bút với tác giả, để chia sẻ thân phận dư thừa của tôi. Tôi cũng đã được đọc nhiều tác phẩm khác của Nhật Tiến, trong đó có cuốn tôi thích nhất là “Thềm Hoang”. Ông đã trở thành một trong những tác giả mà tôi hâm mộ, cùng với những cây bút khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Tô Hoài, Mai Thảo, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Lan Khai, Pearl S. Buck, Leo Tolstoi, Mak twain, Alexander Dumas... v v.. Văn phong của Nhật Tiến làm sống động những tình tiết của câu chuyện. Những hoàn cảnh mà ông diễn tả cùng những hình ảnh về các mảnh đời tuyệt vọng trong các sáng tác của ông đã vô cùng sống thực đến nỗi vẫn còn mãi mãi ám ảnh trong tâm hồn của tôi. Khi tôi đọc bản dịch “Thân phận dư thừa”, cứ mỗi trang viết bằng tiếng mẹ đẻ quen thuộc, được trau chuốt qua ngòi bút điêu luyện của Nhật Tiến, lại làm bừng lên trong thế giới riêng tư của tôi đậm hương vị mới, linh động, rực rỡ mầu sắc. Đối với một người viết trẻ, còn đang dò dẫm tìm đường, tôi rất may mắn có cơ hội học hỏi thêm rất nhiều ở nhà văn Nhật Tiến. Một câu ngạn ngữ Trung Hoa nói rằng: “Nếu anh có một vị Thầy dạy dỗ trong một giờ thì anh đã có một bậc nghiêm từ mãi mãi trong đời sống”. Tôi đã may mắn làm việc với nhà văn Nhật Tiến trong suốt thời gian dài hơn là một giờ rất nhiều. Xin chân thành cảm ơn bác Nhật Tiến. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc “Thân phận dư thừa” được dịch bởi nhà văn Nhật Tiến.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:05 pm    Tiêu đề:

Chương Một



Nha Trang ngày 12 tháng 5 năm 1972.

Tôi còn nhớ như in cái đêm hôm ấy đó là ký ức đầu tiên và cũng là kỷ niệm vui sướng nhất trong thời thơ ấu của tôi, vẫn cái mùi xiên thịt nướng quen thuộc từ dưới bếp tỏa ra. Tiếng của mẹ tôi rộn ràng qua các hành lang dài, ra lệnh cho đám người giúp việc với một thoáng tự kiêu. Không khí ẩm ướt của mùa hè bọc thành một làn hơi sương mờ ảo quanh tôi, tạo nên một loại oi bức chỉ ở Nha Trang và chỉ vào tháng năm mới có. Và điều mà tôi ghi nhớ hơn hết là bầu không khí hân hoan, hội hè tràn ngập quanh tôi khi tia nắng chiều tắt lịm vào lòng đại dương chỉ cách cửa sổ phòng tôi khoảng vài trăm thước. Đó là sinh nhật lần thứ năm của tôi.

Căn nhà thời thơ ấu của tôi, để đáp ứng với sự đam mê sống gần những bãi biển xinh đẹp của mẹ tôi, đã được cất ngay sát mé nước với tiếng sóng rì rào ở kè đá nền nhà cái biệt thự này gồm ba tầng lầu và có tới trên hai mươi bốn phòng trong đó có ít nhất tám phòng ngủ. Tất cả đều được trang bị bằng những đồ đạc kiểu phương tây đắt tiền, được bầy biện theo cung cách do chính mẹ tôi nghĩ ra. Và để cho căn nhà vừa có tính cách riêng biệt, vừa để xưng tụng ông ngoại tôi, mẹ đã đặt tên cho nó là biệt thự họ Nguyễn. Theo những câu chuyện mà tôi được nghe, phần lớn là do ông bà ngoại tôi kể lại, thì mẹ tôi cất căn nhà này vào lúc bà mang thai tôi, với sự mong muốn có đứa con đầu lòng trong căn nhà của chính mình. Mẹ tôi sơn tường quanh nhà bằng mầu vỏ trứng. Bà thường biểu lộ sự khó chịu khi tôi diễn tả cái mầu trắng này là sự cũ kỹ của thời gian. Từ cổng trước vào nhà là một lối đi có lát bằng đá cẩm thạch mầu hung đỏ chạy vòng quanh khu vườn trong có một bể bơi hình bầu dục. Người làm vườn, được mướn qua văn phòng dịch vụ, tên là ông Trần. Công việc của ông là trồng và coi sóc rất nhiều cây hoa hiếm quí thuộc nhiều loại trước nhà. Mẹ tôi vì muốn ngăn cách ngôi nhà xinh đẹp với thế giới bên ngoài nên đã cho dựng lên hai tấm cửa khổng lồ bằng sắt cùng với cái hàng rào kẽm gai thật cao có dây leo mọc thật dầy đặc, che khuất mọi thứ bên trong. Ngày trước, tôi thường chơi đùa với đồ chơi ở ngoài vườn trong khi bọn trẻ chơi ở phía bên kia hàng rào vẫn thường dòm vào để nhìn tôi với đầy vẻ thèm thuồng. Theo mẹ tôi thì tôi không thể giao du với chúng nó được, hoặc là vì lũ đó quá dơ dáy hoặc là vì tôi quá sạch sẽ. Ở Việt Nam con nhà giầu như tôi thường di dép xăng đan để chân khỏi bị nóng và bẩn trong khi bọn con nhà nghèo ở bên kia hàng rào thì chỉ dẫm chân đất.

Trưa hôm ấy, trước khi cử hành lễ sinh nhật, gần như mọi sinh hoạt đều tập chung trong nhà bếp. Tôi giang tay giả làm một chiếc phi cơ đang lượn giữa đám đông người, miệng vù vù tiếng động cơ và làm như máy bay bị rớt khi đụng vào chân mọi người. Em tôi và tôi chế ra cái chò chơi tài tình ấy để vòi vĩnh những món ăn vặt của đám người làm. Tiếc thay vì quá bận rộn nên chẳng có ai chú ý đến tôi cả. Ở ngay giữa căn bếp chính, một toán đầu bếp đứng chung quanh một cái bàn lớn, đang trang trí một cái bánh vĩ đại mầu trắng trên có những đóa hoa hồng, dây leo mầu nâu với những lá xanh làm bằng kem và mầu thực phẩm. Phía bên kia, trong làn khói mù mịt, những con gà mái dầu chờ tới lượt bị cắt tiết, tiếng kêu cục tác sợ sệt của chúng vang lên át cả tiếng xèo xèo nóng rẫy của thịt heo chiên. Cách đó vài bước, một tốp tớ gái tíu tít vây quanh cái bếp lò đang bận rôn sửa soạn cho những món ăn chính. Một người bật cái quạt trên trần lên trong khi một cô khác đang chắt nước luộc mì cho chảy xuống cống. Làn khói tỏa lên từ nồi nước sôi làm tăng thêm cái nóng ở trong phòng.

Nhìn quanh để tìm nạn nhân mới cho cái trò chơi lượn máy bay, tôi phát hiện một thằng bé phụ của người cung cấp thực phẩm. Hắn chỉ trạc lên mười, thân hình choắt choeo với những vầng quầng thâm dưới hai mắt. Tay bưng một cái bát tô bự đầy kem, hắn đang chạy xuống bếp thì đụng ngay phải tôi. Tôi biết tẩy của đám người làm là họ rất sợ mẹ tôi khi bà nổi cơn lôi đình. Trong lúc cậu nhỏ đang còn lo lắng nhìn xem tôi có bị thương tích gì không, thì tôi đã vọc tay vào bát xớt đầy một bàn tay toàn là kem. Trước khi hắn ta kịp hoàn hồn, tôi cười ré lên và dông tuốt, vừa chạy vừa liếm cái vị ngọt trên tay. Lên trên lầu, tôi tính dòm lén vào phòng ngủ của mẹ tôi. Bà ngồi kia như một bà hoàng trước bàn trang điểm, chỉnh tề trong chiếc áo dạ hội kim tuyến mầu xám nhạt, lóng lánh dưới màu vàng cam nom tựa như lớp vẩy cá. Bà đang tập trung vào việc chải mớ tóc dài đen nhánh, dợn sóng, chảy xuống tấm lưng ong của bà. Mẹ tôi không thuộc loại phụ nữ Á Đông mảnh mai điển hình. Ngực bà nở nang, hông tròn trịa, eo nhỏ nhắn. Đôi mắt của bà to, viền đậm chung quanh và đang tập trung vào chiếc bóng của mình ở trước mặt. Trải nhiều năm nhìn thấy mẹ tôi đứng ngắm nghía trước gương, đã khiến cho tôi tin rằng mẹ tôi là một người hiếm có nhất, xinh đẹp nhất trên trần gian này. Sự hiện diện của tôi làm mẹ tôi giật mình. Bà ngừng nhìn bóng mình trong gương, quay lại phía tôi mỉm cười, phô ra những cái răng trắng và đều. Căn phòng này đây, đã từng có những lúc tôi ngồi hàng giờ để nghe mẹ tôi giải bầy về bí quyết sắc đẹp của bà. Chắc chắn là tôi đã ngồi chăm chú nghe nhưng không phải vì những điều bà nói, mà là bị thôi miên vì giọng nói của bà, vừa quyến rũ vừa luôn luôn đầy trí tuệ và thông minh. Nụ cười của bà chợt mất đi, bà nghiêm mặt hỏi tôi:

- Coi kìa, mặt con bôi đầy lên những cái gì thế?

Tôi liền sờ tay lên má và cảm thấy mấy vệt kem còn sót lại. Vừa liếm ngón tay, tôi vừa trả lời:

- Đó là cái ở dưới bếp để làm bánh sinh nhật cho con hôm nay. Con có vô được không?

Mẹ tôi gật đầu:

- Được chứ, con vô đi. Rồi bà rầy tôi:

- Cái thằng dơ dáy chưa kìa! Ai lại ăn uống như thế. Sao không chờ tới bữa tối?

Tôi ngồi ngay lên giường và nhìn bà một cách tò mò. Dùng một miếng bông lót nhỏ, bà đang thoa một loai phấn trắng lên mu bàn tay. Tôi hỏi:

- Mẹ làm gì thế hả mẹ?

- Mẹ thoa phấn lên bàn tay đó mà.

- Để làm gì vậy?

- Có mỗi một câu đó mà sao hỏi hoài vậy con?

- Nhưng con chẳng bao giờ nhớ câu trả lời của mẹ.

Bà ngưng lại và giơ cả hai bàn tay lên ngắm, nom chúng như hai tên lính đứng nghiêm chỉnh sẵn sàng chờ kiểm tra. Bà nói:

- Mẹ làm như vậy để mọi người chú ý đến tay của mẹ. Con coi có đẹp không?

Cùng với sản nghiệp, hai bàn tay là niềm kiêu hãnh lớn nhất của bà trong cuộc đời. Trước khi gặp ba tôi, bà đã từng làm bàn tay mẫu cho một công ty kim hoàn. Trái ngược với thân hình khiêu gợi của bà, tay bà thuôn dài và thanh nhã. Mỗi ngón là một tháp bút mềm mại không nhìn thấy khớp, làn da không có nếp nhăn, móng tay thuôn dài, sơn thuốc kỹ lưỡng và bóng loáng. Bà để ra hàng giờ ngồi giũa những đường viền, tỉa những chỗ da thừa và thay đổi mầu thuốc sơn. Chỉ đến khi nào mẹ tôi hoàn toàn hài lòng với bàn tay, sau đó bà mới trang điểm tới mặt và dành vài tiếng đồng hồ cho việc này. Bà nói vì khuôn mặt bà không được toàn bích nên sự thành công của bà phải dựa trên bàn tay. Để làm nổi bật nét đặc biệt này của mình, mẹ tôi luôn luôn phô diễn hai bàn tay. Chúng cử động uyển chuyển trước mặt bà trong mỗi cuộc trò chuyện, chống lên má khi chụp hình hay nâng cằm lên mỗi khi bà muốn sử dụng uy quyền thiên phú của mình

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:06 pm    Tiêu đề:

Chương Hai

Nha Trang 25 tháng 3 năm 1975

Một loạt tiếng nổ kinh hoàng lôi tuột tôi ra khỏi giấc ngủ say. Tôi nhảy khỏi giường, lơ mơ chẳng biết chuyện gì quanh mình. Bầu trời qua cửa sổ lung linh những ánh sao yếu ớt. Tôi tự hỏi phải chăng những tiếng nổ mà tôi vừa nghe đó chỉ là do chính tôi tưởng tượng ra thôi. Một loạt tiếng súng lại vang lên, tôi tỉnh hẳn vì kinh hãi. Vừa mò mẫm tìm dép trong bóng tối, tôi vừa lên tiếng gọi mẹ. Một bóng người chạy bổ vào phòng, tay cầm ngọn nến. Hóa ra là Loan, chị vú của tôi, mới mười tám tuổi, là người trẻ nhất trong đám người làm của nhà tôi. Tóc chị rối bời, mặt lộ vẻ còn ngái ngủ. Trong ánh sáng lờ mờ của căn buồng, nom chị ngơ ngác và run rẩy. Tôi chạy tới rúc vào ngực chị, hít thở mùi thơm êm dịu và quen thuộc từ chị tỏa ra. Chúng tôi cụm vào nhau giữa căn buồng.

Từ hơn một tháng nay, tiếng súng và tiếng bom tràn ngập Nha Trang. Hằng ngày đài phát thanh loan tin mỗi lúc một đáng lo ngại hơn cho đến khi sự tê liệt đã loang ra khắp nơi như một bệnh dịch. Mọi người gắng theo dõi báo cáo mới nhất với vẻ im lặng và cay đắng nhẫn nhục. Những tin đồn thổi lan rộng khắp Nha Trang, ăn sâu vào phố xá như một chứng bệnh ung thư. Từ lúc không còn cai ngục nữa, cửa nhà tù mở bung, bọn tội phạm ùa ra như làn nước bẩn, tàn nhẫn cướp phá trong thành phố. Không ai dám mạo hiểm ra ngoài. Phố xá vắng tanh, thỉnh thoảng mới có một chiếc xe phóng đi vội vã. Những căn nhà khóa cửa kín mít biểu lộ sự sợ hãi của gia chủ. Đài truyền hình chiếu cảnh những thành phố gần vùng chiến sự, ở đó, giữa ban đêm, những người dân yếu bóng vía phóng ra khỏi cửa, không mang theo được những gì ngoài những đứa trẻ còn thơ dại. Những người tỵ nạn trắng tay, chân dẫm đất bị cuốn đi từ thành phố này sang thành phố khác, trốn chạy khỏi nỗi khiếp sợ vô hình, đầu rỗng tuếch chẳng còn biết chạy đi đâu và trốn cái gì. Kiếm cái ăn đã trở thành mối lo thường trực kể từ khi chợ búa không còn họp đều đặn nữa. Thành phố như một con cá đang hấp hối trên vỉa hè, ngáp thở một cách tuyệt vọng.

Như phần lớn người dân Nha Trang, chúng tôi đóng chốt trong nhà chờ đợi sự kinh hoàng của chiến tranh bộc lộ hết cơn thịnh nộ của nó. Cho đến nay thì chỉ có một vài sự đụng độ làm xuyên thủng lá chắn bảo vệ ngôi nhà của họ Nguyễn. Tôi nhớ lại sự kiện đầu tiên và kinh khủng nhất đã làm mẹ tôi mất đi ý niệm về sự an toàn: Ngân hàng của bà bị sụp đổ. Từ năm 1968, mẹ tôi đã là một đồng chủ tịch một ngân hàng nhỏ ở Nha Trang. Một nửa tài sản đứng tên mẹ tôi, còn nửa kia thuộc về một cặp vợ chồng người Tàu giàu có. Vào một buổi tối, mẹ tôi nhận được một cú điện thoại báo tin rằng người hùn vốn với bà hiện ở Thái Lan và họ đang trên đường tếch sang Nữu Ước ôm theo toàn bộ tiền bạc. Ngày hôm sau bà đến văn phòng để chứng kiến một sự tan hoang và đầy rác rưởi. Ở bên ngoài, hàng trăm khách hàng giận dữ đang gọi tên bà và đang tìm cách phá cửa đòi vô. Chỉ sau vài giây đứng trước đám đông, mẹ tôi đã phải thoát khỏi ngân hàng qua một cửa ngách. Tuy thân thể không hề hấn gì nhưng cái ý chí vốn cương cường của bà đã như sụp đổ. Từ trên ban công phòng ngủ tôi nhìn thấy mẹ tôi trở về. Một bên giày đã tuột đâu mất, vẻ thất thần hiện rõ trên gương mặt của bà. Dượng Lâm, ông bồ chung sống với bà, trẻ hơn bà tới mười tuổi, đang cùng với bạn bè tắm nắng cạnh hồ bơi. Nhưng cặp mắt như mất hồn của bà không mảy may để ý họ. Họ nhìn bà chòng chọc cho đến khi bà biến mất vào nhà. Chỉ khi đôi chân bà chạm tới nền đá lạnh trong phòng khách, bà mới đổ vật xuống trong tiếng gào nức nở. Một nỗi tuyệt vọng tràn ngập như nhận sâu tôi xuống một hố thẳm. Từ trên ban công tầng hai, tôi bắt đầu khóc với bà cho đến khi có những tiếng nổ dữ dội vang lên làm lấn át tiếng thổn thức của tôi, những tiếng nổ giận dữ của bom đạn.

Bây giờ đây, cũng lại những tiếng ầm ầm rung chuyển như thế đã hất tôi ra khỏi giường và đẩy tôi vào vòng tay của chị Loan. Chị bế tôi chạy xuống cầu thang vào phòng khách tìm mẹ tôi lúc này đang bận tiếp một số khách chọn lọc. Để tìm hiểu thêm tình hình, Bà đã mời vài viên chức chính phủ còn bị kẹt lại Nha Trang tới nhà. Bà ngồi trên chiếc ghế, khiêm nhượng trong chiếc áo đài, phủ bên ngoài chiếc quần đen. Đang mang thai được chừng bốn tháng, bụng của bà như muốn trồi lên dưới bộ quần áo lụa.

Lúc này bà đang nói dở câu chuyện với ông Đặng, trưởng ban thông dịch của lãnh sự quán Hoa Kỳ. Ông bà Đặng là một trong những người hợp tác quan trọng nhất của mẹ tôi. Trái tim bà không dành bất cứ một mối liên hệ nào thắm thiết hơn là một tình bạn giao tế. Bà thừa nhận điều đó với tôi trong nhiều trường hợp rằng cái nhược điểm đó vốn là bẩm sinh của bà, ngoại trừ đôi khi chính bà lại xác nhận rằng cá tính đó không phải là nhược điểm, mà lại là một cách ứng sử thành công trong cuộc đời. Nói một cách đơn giản mẹ tôi không bao giờ tin vào bất cứ ai ngoài chính bản thân mình. Quan hệ giữa mẹ tôi và vợ chồng ông Đặng tuyệt nhiên chỉ là chuyện làm ăn. Do chức vụ đang giữ, ông Đặng có thể cung cấp cho mẹ tôi những tin tức tối mật và mới nhất về đất nước, về thị trường với những nhân vật liên đới chủ chốt, bao gồm cả những nhân vật hiện đang dự buổi tiệc này. Do vậy mẹ tôi có được những tin tức từ tận gốc, đáng giá nhất. Đổi lại ông Đặng được coi là thân thiết để được vào nhìn thấy tận bên trong buồng ngủ của bà, ở đó ông được công nhận là cánh đàn ông tại các bàn mạt chược đã bàn ra tán vào rất đúng khi nói rằng bộ quần áo ngủ của bà thật vừa khít một cách tuyệt hảo với cơ thể hấp dẫn của bà!

Còn về bà Đặng thì luôn luôn là người khách tiêu biểu nhất, lôi cuốn nhất trong các buổi tiếp khách của mẹ tôi. Vào lúc đó, với ly sâm banh còn vơi một nửa, cầm lỏng lẻo ngang ngực áo khoét rộng, bà Đặng đứng cách chồng vài bước, ngả vào dượng Lâm và một khách khác để dựa dẫm. Mỗi lần dượng Lâm và ông bạn thì thào vào tai bà chuyện gì đó lại làm bà cười rú lên, nghe rổn rảng như tiếng thủy tinh vỡ. Ngồi gần đó, mẹ tôi và ông chồng bà Đặng đang bị cuốn vào câu chuyện sôi nổi, dường như chẳng còn đếm xỉa đến quang cảnh ầm ĩ đang diễn ra chung quanh.

“Mẹ ơi...!” - tôi gọi chõ vào từ ngoài cửa. Mẹ tôi xin lỗi và đứng dậy đi về phía chúng tôi. Trong vòng tay ẵm của chị Loan, qua thân mình chị rung động, tôi cảm nhận được cơn bối rối của chị khi mẹ tôi đến gần. Không kịp để Loan nói gì, bà đã sấn tới và giằng lấy tôi. Với cái nhìn lạnh lùng, bà gầm gừ vào tai người tớ gái, cố để không ai nghe thấy: “Xéo ngay...” Rồi mẹ tôi xoay một vòng, bế tôi trên tay bà trở lại với mọi người cứ như không có chuyện gì xẩy ra. Hướng về ông Đặng bà nói:

- Xin lỗi cháu nó sợ.

Ông Đặng vừa nói vừa thở dài:

- Hừ... tình cảnh này thì... ai cũng thế, huống chi nó... Bà biết đấy, bà nên đi khỏi đây trước khi quá muộn...

- Sao vậy? Thế còn người Mỹ? Họ không còn giúp chúng ta à?

Ông Đặng nhìn mẹ tôi với cái nhìn chỉ dành cho kẻ mất trí hoặc đần độn hết chỗ nói:

- Người Mỹ! Bà nói chuyện gì thế? Họ đã bỏ chúng ta từ lâu rồi. Ta chẳng còn nhận được sự trợ giúp nào của họ từ năm 1972 kìa. Mình đã phải tự lo lấy và... sụp đổ quá nhanh...

“Nhưng...” mẹ tôi lắp bắp, lấy tay bịt tai tôi lại cứ như là để cả hai chúng tôi thôi không còn cảm nhận được cái ngặt nghèo của tình thế.

- Theo ý kiến tôi, nhất định là bà phải đưa gia đình ra khỏi đây ngay lập tức. Cộng quân đã chiếm được cả thành phố Qui Nhơn và cả Tuy Hòa rồi. Chỉ vài cây số ngắn ngủi xuyên rừng nữa thôi là họ sẽ tới được đây.

- Trời ơi! Tôi phải làm gì bây giờ.

- Như tôi đã nói rồi, thưa bà, tất cả những gì chúng ta có thể làm được lúc này là cuốn gói chạy ngay đi... Sáng sớm mai gia đình tôi cũng rời khỏi nơi đây, tôi khuyên bà cũng nên làm như thế.

- Tôi biết đi đâu bây giờ?

- Thì... trước hết hãy vào Sài Gòn. Ít ra là từ đó bà cũng có thể ra khỏi Việt Nam qua ngả sân bay. Mặt khác, nếu tình hình chính trị dược cải thiện hơn, bà vẫn có thể quay về Nha Trang kia mà...

- Tôi chẳng còn có gì ở đây mà tính chuyện quay trở lại, tôi đã mất cái ngân hàng và tất cả tiền bạc rồi.

Ông Đặng nhún vai biểu lộ tình trạng bất lực của mình:

- Thế thì lại càng có lý do rời bỏ cái xứ sở tuyệt vọng này. Xin đừng quên giữ liên lạc với tụi tôi ở Sài Gòn. Đây là địa chỉ mà tụi tôi sẽ tới.

Ông viết nguệch ngoạc lên phía sau tấm danh thiếp và trao vào tay mẹ tôi.

Đêm đó... ngay khi buổi tiếp tân còn lại vài người khách, mẹ tôi bảo dượng Lâm đi thuê một chiếc xe van loại nhỏ. Cái xe rộng rãi này có vẻ như là phương tiện duy nhất để mẹ tôi có thể bốc đi được sáu người trong nhà bao gồm luôn cả ông bồ của bà. Lúc dượng Lâm trở lại với chiếc xe, chúng tôi chạy vào nhà để gom một số vật dụng cần thiết. Khi chúng tôi theo gót những người khách cuối cùng trên lối đi ra đường, không một mạng nào trong ngôi nhà này biết được dự tính táo bạo của chúng tôi. Phần lớn những kẻ hầu người hạ đều đã đi ngủ ngay từ lúc buổi tiếp tân bắt đầu.

Bỗng nhiên, không biết từ đâu đó, chị Loan chạy xộc tới đầu xe và khóc lóc van xin mẹ tôi cho đi theo. Suốt tám năm nay, chị đã mang lại cho gia đình tôi thêm biết bao đầm ấm. Chị đã ân cần đối với tất cả mọi người kể cả với mẹ tôi vốn là người hay khinh miệt những tầng lớp thấp kém. Từ lâu rồi, tôi vẫn coi chị là một thành viên trong gia đình. Trên xe, trong chỗ của mình, mẹ tôi lặng lẽ nhìn cảnh tượng khó chịu đó. Tuy nhiên, tiếng kêu khóc của chị đã làm ông bà ngoại mủi lòng, và ông tôi đã lên tiếng phụ hoạ thêm cho chị. Trước sự can thiệp nhẹ nhàng nhưng cương quyết của ông tôi, mẹ tôi đành phải chấp nhận cho chị lên xe khị đã yên chỗ, chị ôm ghì lấy tôi và em tôi. Chị hôn chúng tôi mà nước mắt đầm đìa trên má rồi chị cúi xuống áp khuôn mặt vào bàn tay của mẹ tôi. Đôi môi của chị mới chỉ chạm vào làn da thì bà đã rụt phắt ngay lại như vừa rớ phải lửa. Mặt bà tối sầm lại đôi mắt tóe lửa nhìn chị đầy vẻ căm ghét. Rồi trong một lúc bất ngờ, mọi người giật bắn mình khi thấy mẹ tôi giáng một cái tát vào bên má trái của chị. Cái tát nẩy lửa làm đầu của chị bật ngửa về phía sau, đập vào thành sắt của chiếc xe gây ra một tiếng động khô khan vang vọng. Có vẻ như chị vẫn còn muốn giữ cho cái đầu cúi xuống đến tận sàn. Trong cơn kinh hoàng lặng lẽ, em tôi sợ hãi bắt đầu khóc thút thít nhưng chẳng ai với tới nó để dỗ dành. Còn tôi vì quá dao động nên chẳng thể thốt lên được một lời.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:07 pm    Tiêu đề:

Chương Ba

Sài gòn - tháng tư năm 1975

Ở Sài gòn chúng tôi thuê một căn nhà hai tầng tại một khu phố tây chỉ cách dinh Độc Lập, nơi tất cả các tổng thống của Việt Nam cư ngụ, có vài con đường. Mới tới còn bỡ ngỡ, tôi và Jimmy cứ chạy lên chạy xuống cầu thang, dòm vào các phòng và ngó ra ngoài đường phố bận rộn qua những khe hổng của các cửa sổ đã bị bịt kín. Hai anh em tôi chẳng đứa nào hiểu tại sao chúng tôi lại đến nơi này. Vì người lớn trong nhà còn đang lo bấn lên, nên tụi tôi tha hồ mà lang thang tìm tòi khắp các xó xỉnh.

Sài Gòn đã quá lộn xộn rồi. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã bất ngờ từ chức vào ngày 23 tháng tư năm 1975. Vơ vét mọi thứ đồ tế nhuyễn, của riêng tây, ông ta chuồn khỏi nước. Để trấn an quần chúng, quốc hội đã chỉ định ông Trần Văn Hương làm tân tổng thống. Đến lượt ông Hương nêu một kỷ lục mới về nhiệm kỳ tổng thống ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam: bốn ngày! Vào trưa ngày 27 tháng năm, theo sự ủy nhiệm của quốc hội, lại một tân tổng thống, ông Dương Văn Minh, đã xuất hiện bên ngoài đại sảnh của dinh độc lập để vẫy chào đám động Ông Minh đã hâm nóng lại niềm tin của dân chúng bằng một lô những lời hứa hẹn hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng giống như cái chính phủ bấp bênh, những kế hoạch, hoang tưởng của ông cuối cùng cũng tan thành mây khói.

Nghe người lớn trò chuyện, tôi hiểu mẹ tôi đưa chúng tôi vào Sài Gòn là để rồi sẽ bay ra nước ngoài một khi chính phủ thất bại. Ngay trong vài tuần lễ đầu, mẹ tôi đã đi móc nối và đã lấy được đủ giấy thông hành và vé máy bay, có thể ra đi bất cứ lúc nào chúng tôi muốn. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nói tới chuyện rời Việt Nam, ông bà ngoại tôi lại chối đây đẩy. Thêm nữa cũng giống như ông tổng thống mới, Sài gòn vẫn không chịu chấp nhận thực trạng sụp đổ đang diễn ra khắp mọi nơi. Chừng nào vẫn còn các buổi liên hoan, các buổi tiệc tùng thì chừng đó vẫn còn hy vọng. Mỗi ngày chúng tôi lại nói lời gĩa biệt với vài người trong đám bạn bè của mẹ tôi khi họ bỏ ra đi. Với chúng tôi, tương lai cũng không đến nỗi tệ hại lắm, bởi vì luôn luôn có những chuyến bay tới và chúng tôi có được sự bảo đảm sẽ có chỗ trong chuyến bay đó. Cho nên chúng tôi vẫn ở lại thành phố và chờ đợi. Trong gia đình, giữa mẹ tôi và chị Loan có một sự căng thẳng không thể hòa giải. Chị cố tránh mặt mẹ tôi mà không thể được vì dường như mẹ tôi lộ diện ở mọi nơi mọi lúc khi không còn bận rộn về những công việc ở ngân hàng như xưa nữa, bà trở nên gần như suy sụp.

Những tin tức ở nhà do bà chị của mẹ tôi nhắn vào lại càng làm tính nết thất thường của bà thêm tệ hại hơn. Bác tôi cho hay rằng từ ngày 2 tháng tư, khi cộng quân chiếm Nha Trang, thì gia đình bác đã mấy lần bị cướp dí súng trấn lột. Họ quyết định phải rời ngôi nhà của họ Nguyễn sau khi kẻ cướp đã vào quậy phá lấy đi chiếc xe Mercedes, nữ trang và tiền bạc cất dấu của mẹ tôi.

Vào ngày 28 tháng tư, vừa bảnh mắt ra mẹ tôi đã nghe được cái tin mà chúng tôi vẫn nơm nớp chờ đợi: một giọng hốt hoảng tường thuật trên đài phát thanh rằng Việt cộng đã tiến tới. Mẹ tôi bảo chị Loan đánh thức tôi dậy. Chẳng nói chẳng rằng, chị Loan kéo tôi ra khỏi giường và xốc tôi xuống căn hầm. Cái hầm rộng khoảng 3m x 4m mà người chủ nhà đã đào dưới nền bếp làm nơi trú ẩn phòng khi có chiến trạnh

Mọi người trong nhà đều đã tập trung tại đó. Bà ngoại tôi ngồi như pho tượng trong một góc xa dưới ánh sáng lờ mờ. Tay bà cầm chuỗi tràng hạt vốn là hạt của cây bồ đề nơi đức phật ngày xưa đã ngồi để giác ngộ. Những ngón tay của bà đều đặn lần tràng. Mắt bà lim dim, miệng thì thầm khấn khứa. Bên cạnh bà, ông ngoại tôi ngồi bó gối bên chiếc bàn duy nhất, bưng cả hai tai như để cố ngăn chặn những tiếng động khủng khiếp ở bên ngoài. Cạnh ông là chiếc gậy chỉ huy mà ông đã có từ nhiều năm trước, khi ông còn là một đại úy trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cho tới cái ngày một viên đạn của Việt cộng ghim vào hông bên phải của ộng

Cách đó vài bước, dượng Lâm nằm dài trên ghế sô-pha. Mái tóc đen nhánh của dượng vẫn được chải và sấy kỹ càng như thường lệ. Nom dượng vẫn tỉnh táo và thoải mái. Trong bóng tối của căn phòng, em tôi đứng với mẹ tôi, tay ôm chặt vào ngực con gấu nhồi bông mà nó yêu thích nhất. Ngả người dựa vào cánh cửa, với mái tóc cột ngược ra đằng sau, gương mặt nhợt nhạt không son phấn, trông mẹ tôi thật xanh xao, ảm đạm dưới ánh sáng chập chờn. Bụng bà đầy lên dưới làn áo ngủ, bà đặt tay lên đó như cố gắng bảo vệ cái bào thai ở bên trong. Lúc tôi và chị Loan bước vào, mẹ tôi và ông tôi đang nói dở câu chuyện.

- Ba ơi mình phải đi thôi. Con xin ba đừng phung phí thời giờ nữa.

Ông tôi buông tay ra khỏi đầu. Đôi mắt của ông như hai cái hố sâu đầy ắp nỗi thống khổ, nhưng ông vẫn quả quyết lắc đầu:

- Ba đã nói với con nhiều lần rồi, ba sẽ không đi đâu hết. Ba đã sinh ra trên đất này và ba cũng sẽ chết ở đây. Mẹ con cũng vậy thôi.

Bà ngoại tôi thì vẫn âm thầm khấn khứa, vẻ mặt chẳng hề thay đổi. Tôi không dám chắc bà có để ý chút nào tới câu chuyện trao đổi giữa hai người không. Trong suốt thời gian chung sống không bao giờ bà tôi làm trái ý ông tôi. Dù với lý do nào đã khiến ông tôi quyết định ở lại thì cũng đủ để cho bà tôi làm theo. Ông tôi nói tiếp:

- Ba không thể đi Mỹ được. Ba không muốn tới bất cứ nước nào mà ba không biết ngôn ngữ, không quen phong tục. Ba thà bị Việt cộng giết, chết bên cạnh tổ tiên còn hơn là làm ma nơi đất khách. Con đi đi!... mang các cháu đi đi. Đừng mất thời gian chờ đợi ba và mẹ nữa... Ba và mẹ sẽ tự lo lấy được... Đừng lo lắng gì cho ba mẹ cả. Ba đã là một người tàn tật, đã sáu mươi bốn tuổi rồi. Chẳng còn ai trên cõi đời này, kể cả bọn ác ôn nhất trong đám cộng sản, lại nhẫn tâm hành hạ vợ chồng ông lão yếu đuối này. Thôi đừng quyến luyến vì bố mẹ nữa...

Mẹ tôi không chịu:

- Con xin ba... ba hãy nghĩ tới lũ nhỏ. Ba biết rằng con không thể để cho ba mẹ trơ trọi ở lại một mình... nhưng nếu con ở lại thì... lũ nhỏ sẽ khốn khổ.

Ông ngoại tôi khăng khăng:

- Đã bảo ba không đi đâu mà. Dù con nói thế nào thì ba cũng không đổi ý đâu.

Mẹ tôi hiểu rằng ông là người tận tuỵ với đất nước. Nhưng mẹ tôi cũng biết rằng Việt Nam là xứ sở đặt nặng vấn đề chủng tộc. Trải qua nhiều thế hệ, bất chấp mọi thách thức, người Việt Nam đã chống lại áp bức của Tầu, Nhật rồi Pháp và cái thành kiến này đã trở nên ăn sâu trong mỗi người Việt Nam. Mẹ tôi lo rằng trong tương lai, anh em tôi sẽ bị đối xử kỳ thị. Chín năm trước đây, một kỹ sư dân sự người Mỹ, ngành xây dựng, công tác ở Sài Gòn, đã thuê mẹ tôi làm thông dịch. Một mối tình lãng mạn đã nẩy nở giữa hai người. Tôi là kết quả của sự dan díu ngắn ngủi đó. Nước da sáng và mái tóc xoăn của tôi đã biểu lộ rõ rệt dòng máu của cha tôi. Cũng có thể diện mạo tôi đã khiến ông thừa nhận tôi là máu mủ của ông, và cũng có thể do sự khả ái tuyệt vời của mẹ tôi, nên trước khi rời hẳn đất nước này, ông đã dốc hết tài khoản trong nhà băng để trao cho mẹ tôi số tiền vào khoảng ba chục ngàn đô la Mỹ, là một tài sản lớn đối với bất kỳ ai ở Việt Nam. Mẹ tôi đã dùng món tiền này cùng với các mối quen biết hùn hạp lập một ngân hàng để đảm bảo cho đời sống của bà. Vài năm sau, bà lại lấy một người Mỹ khác, một sĩ quan, và thằng em Jimmy của tôi đã ra đời. Ba của Jimmy rời khỏi Nha Trang vào năm 1971 cùng với toán lính Mỹ cuối cùng để đoàn tụ với gia đình riêng của ông ta. Ông ta cũng rất hào phóng nữa. Tiền do ông để lại giúp mẹ tôi thanh toán xong hẳn số tiền mẹ tôi còn thiếu khi tậu ngôi biệt thự và tân trang đôi chỗ cần thiết. Mẹ tôi cũng cho xây một bức tường bao quanh nhà, không phải chỉ để ngăn cho người ngoài khỏi dòm ngó mà còn che đậy chúng tôi như thể bà có điều gì đáng hổ thẹn phải giấu giếm, như thế chúng tôi sẽ chẳng bao giờ bị phát hiện. Nhưng đến bây giờ thì mẹ tôi đã nhận ra rằng chẳng có một bức tường nào trên trái đất này có thể ngăn cản cho chúng tôi tránh khỏi sự bị tẩy chay. Nỗi niềm sâu kín mà bà đã cố bảo vệ nay trở nên không thể nào còn che giấu được nữa. Thật vô phương. Mẹ tôi biết rằng rồi đây chúng tôi sẽ phải sống trong một xã hội không biết tha thứ, và bị bỏ quên như một thứ cỏ hoang. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là rời khỏi Việt Nam và di chuyển tới một nơi khả dĩ sống được. Mẹ tôi buồn rầu nhìn ông ngoại, hai tay dắt em tôi và tôi, nói:

- Xin ba hãy tha thứ cho con. Chỉ vì lũ nhỏ này mà con phải ra đi.

Quay sang chị Loan, mẹ tôi nhìn sững rồi trầm giọng:

- Loan lấy vali đi.

Rồi mẹ bảo với tụi tôi:

- Các con lại hôn chào từ biệt ông bà đi. Hôn thật kêu vào. Đây là lần cuối các con nhìn thấy ông bà đấy.

Chúng tôi làm theo lời mẹ. Bà ngoại bỏ rơi chuỗi hạt xuống sàn, giơ tay với chúng tôi. Bà ôm hôn chúng tôi thật thắm thiết, nước mắt của bà chứa chan trên khuôn mặt nhăn nheo. Ông tôi ôm chặt tôi đến nghẹt thở và bởi thế cái hôn tưởng dài như vô tận. Bên tai tôi, ông thì thầm rằng ông yêu hai đứa chúng tôi biết là chừng nào. Sau cùng, ông cũng buông tụi tôi ra khi chị Loan thay quần áo, sắp xếp vài đồ dùng cá nhân và đi tới chiếc xe tải. Ông ngoại đẩy cô gái về phía chúng tôi:

- Cho Loan nó đi theo. Nó có thể giúp đỡ con.

Mẹ tôi dừng lại ở giữa phòng:

- Cái gì? Nó không thể đi được! Nó không có vé.

Dượng Lâm lần đầu tiên mở miệng:

- Thì đã sao? Cô quyền thế lắm kia mà, ai chả biết. Nếu cần cô có thể dời được cả quả núi ấy chứ. Nhưng chẳng có ai đòi cô dời núi cả, chỉ mong cô lo cho con bé này thay vì bỏ rơi nó. Thôi đi, gắng chút được không? Ít ra trong đời, cũng có một lần cô làm một việc tốt cho người khác... Biết đâu đấy... có khi nó lại làm cho cô trở thành một con người đúng nghĩa không chừng.

Mẹ tôi trừng trừng nhìn dượng trong lúc ông ta nói tiếp:

- Thôi mà, rồi cũng sẽ suông sẻ cả thôi. Bây giờ, mọi sự đang rối beng lên, cảnh sát chẳng thể nào xét giấy chi li từng người. Ngay cả khi tụi nó có hỏi tới gia đình mình thì theo cái kiểu dân chúng ở đây như cô đã biết đấy, tôi tin chắc là mình vẫn cho nó lẻn ra cùng với chúng mình được. Nhưng nghiêm chỉnh mà nói, cô hãy thú thực đi. Vấn đề không phải là cô làm được hay không làm dược mà là cô có muốn làm hay không mà thôi, đúng vậy không?

Mẹ tôi đổ quạu:

- Im mồm đi.

Dượng nhún vai nói tiếp trước khi bỏ đi:

- Được chớ... bà muốn gì chẳng được, thưa bà...

Ông tôi chen vào:

- Thôi, mang nó theo đi con.

Với mẹ tôi thì câu nói này không còn là một gợi ý mà là một mệnh lệnh.

Ông tôi lại tiếp:

- Ba đã mang ơn bố nó rất nhiều vì viên đạn ông ấy hứng chịu cho ba. Ba đã hứa với ông ấy là sẽ săn sóc nó. Và ba đã thực hiện lời hứa từ đó đến nay. Kể từ bây giờ, ba muốn con lãnh cái trách nhiệm đó cho ba. Vì ba, con hãy làm mọi thứ để giúp cho Loan. Vả lại nó còn trông nom được xấp nhỏ mà. Thôi mau lên, hãy đi đi, tất cả hãy thương lấy nhau, đừng hục hặc nhau nữa. Nếu ở sân bay có chuyện mà Loan không đi được thì nó sẽ quay về với ba. Vạn nhất nếu có xảy ra chuyện đó, thì ít ra nó cũng còn mang tin tức của các con về cho ba. Hiểu chưa?

Mẹ tôi chấp nhận một cách miễn cưỡng:

- Thưa ba, vâng!

Trước khi mẹ tôi kịp đổi ý, chị Loan đã trèo lên xe, ngồi tọt vào góc trong. Mẹ tôi leo lên sau cùng, mắt nhìn thẳng, không đếm xỉa tới sự có mặt của chị. Khi dượng Lâm lái xe đi, tôi còn thấy khuôn mặt ảm đạm của ông bà ngoại tựa vào cửa sổ hình bầu dục của tầng hầm, chỉ cao hơn mặt đất chừng nửa gang tay.

Mẹ tôi ngồi thẳng, bộ mặt như đông cứng lại trong một mặt nạ băng giá. Từ cái radio, chúng tôi lại nghe được cùng một giọng nữ lúc sáng sớm, run run thông báo rằng bọn cộng sản đang tới. Họ tới giống như một trận dịch châu chấu tấn công như vũ bão cánh đồng lúa, nhanh chóng và không sao kiểm soát được. Sài Gòn trong những giờ cuối cùng của tự do. Không gian tràn ngập cảnh hỗn loạn, vẻ bối rối hiện ra trên gương mặt của mọi người ngoài đường phố. Những toán tù có vũ khí đột nhập tư gia, la lối từ đầu đến cuối phố, giương súng bắn lên trời. Bàn, ghế, tủ, giường ngổn ngang trên đường phố làm cản trở giao thông. Các thứ vứt bỏ đều ném cho ông thần hỏa, dù bất cẩn hay do cố ý, khói và lửa cũng đều làm tăng thêm sự khủng khiếp. Binh lính chạy lung tung, súng bị liệng vào thùng rác, quân phục bị vứt bỏ như đang bị bốc cháy. Mấy đứa trẻ lạc mất cha mẹ túm tụm lại với nhau khóc lóc ở một góc phố. Trên đầu chúng, lửa đang lem lém nuốt chửng cây dừa, khiến cho tàn than rơi như mưa xuống. Qua cửa sổ xe, nhìn chúng như bị thiêu sống trong một buổi lễ hiến tế thần linh.

Chúng tôi không đi xa được. Đường phố bị kẹt cứng bởi những đám người liều mạng, tất cả cùng chung một mục tiêu vô vọng là đi được đến sân bay. Ngay khi vừa vào được thông lộ, chúng tôi nhận ra một sự thật đau đớn là chúng tôi không còn đi được bất cứ tới đâu. Xa tít cuối tầm mắt, đường phố kẹt cứng những xe dân sự và xe tăng quân sự. Những tiếng la hoảng đã trở nên hỗn loạn trong bầu trời nóng bức. Thiên hạ bỏ xe lại, dẫm lên nhau, trèo qua đầu nhau, bám vô bất cứ cái gì có thể bám được, miễn sao có thể nhúc nhích để tiến về phía trước. Những xác chết nằm vặn vẹo, răng nhe ra như đang nhát những người còn sống sót. Cách xe của chúng tôi vài bước chân, một bà bầu nằm bỏ xác trên vỉa hè. Bụng bà ta mở toang hoác ra bởi nhiều bước chân vội vã dẫm lên, cạnh đó là cái bào thai đang hấp hối, khẽ động đậy dưới đám ruồi đen đặc bay nhặng sị. Một vũng máu đen bên dưới thân bà ta đang khô dần dưới ánh nắng gay gắt. Tại chỗ ngồi, mẹ tôi run rẩy, co rúm lại, kéo chúng tôi sát vào người bà. Dọc theo thông lộ, mọi người trôi đi như nước xuôi dòng. Tiếng kêu khóc inh ỏi của những đứa trẻ lạc đi tìm cha mẹ, tiếng la thất thanh của những người bị ăn cướp, những bài hát ồn ào trên đài phát thanh, rồi tiếng súng nổ, tiếng than vãn của nạn nhân bị thương tích, tất cả như hòa trộn trong bản giao hưởng rời rạc của khổ đau. Và giống như làn hơi ẩm đang bốc lên trong không khí, sự tập hợp của những âm thanh buốt nhói này cứ dâng cao, dâng cao, mãi trộn chung với làn hơi độc của lựu đạn cay đang mù mịt như đám mây đen của thống khổ. Ở trong xe, em tôi và tôi quá sợ nên ngồi im thin thít. Dượng Lâm nom không còn cái vẻ thoải mái nữa. Mái tóc dài của dượng xoã xuống vầng trán đang rịn mồ hôi. Những ngón tay của dượng đang xiết chặt lấy bánh lái làm các khớp ngón trắng bệch ra. Đầu dượng lúc lắc theo mỗi nhịp thở một cách không thể kiềm chế nổi, mắt dượng mở to ra khiến cho cái lòng trắng căng nở thêm lên. Bỗng nhiên, dượng hộc lên một tiếng la đầy thất vọng đấm tay vào còi xe một cách giận dữ, rồi quay sang phía mẹ tôi, hầm hừ:

- Đ. M! Phải ra khỏi xe ngay. Cứ ngồi mãi thế này thì thua. Cô lôi lũ trẻ xuống.

Mẹ tôi mím chặt hai môi lại thành một đường thẳng. Bà quơ lấy cánh tay tôi và tôi cảm thấy móng tay bà bấm sâu vào da thịt mình, đáp lại:

- Anh có điên không đấy. nhìn thiên hạ kìa! Tôi là tôi không có rời cái xe này đâu.

Dượng Lâm nghiêng qua, dí sát vào mặt mặt mẹ tôi hai khuôn mặt chỉ cách có vài phân, nhìn nhau chòng chọc. Tôi có thể nhìn thấy mạch máu trên cổ ông ta căng mọng lên như hai con giun. Sau cùng dượng phá vỡ sự im lặng:

- Được rồi đưa cho tôi cái vé chó chết kia đi và cả cái sổ thông hành của tôi nữa. Tôi chán mứa cái cảnh phải nghe lời bà, mụ chằn ạ. Có hay không có bà tôi vẫn cứ dông.

Mẹ tôi không trả lời. Ông ta quát lên:

- Đưa ngay đây!

Tiếng quát làm mẹ tôi giật mình. Mẹ tôi lắc mạnh đầu để định thần, rồi quài tay ra với cái bóp. Mắt dượng Lâm không rời bàn tay của bà, rồi ông thốt lên:

- Đưa cả vé máy bay và giấy thông hành của cô nữa. Tôi sẽ mang Loan đi theo.

Mẹ tôi hỏi:

- Tại sao là nó?

Dượng Lâm nhìn trổng xuống sàn xe như nhìn một vật vô hình:

- Nó có bầu với tôi.

Loan khẽ kêu lên một tiếng. Mẹ tôi phớt lờ cô ta đi. Sau khi thở ra một hơi thật dài, bà nhìn Lâm giọng diụ đi:

- Tôi cũng thế. Vậy anh giải thích chuyện đó với tôi ra sao? Anh không thấy rằng tôi cũng đang mang đứa con của anh trong bụng sao?

- Thì đã sao... Bà đâu có cần tới tôi, chẳng bao giờ bà cần tới tôi hết. Nhưng tin tôi đi, bà sẽ qua cầu được hết mọi chuyện mà...

Rồi dượng giật mạnh cái ví khỏi tay mẹ tôi, lục lọi lung tung cho đến khi tìm thấy cái mình cần. Ngoài giấy tờ ra, dượng lượm lên một bó tiền dầy. ve vẩy trước mặt mẹ tôi như để trêu chọc, dượng nói:

- Xin cứ coi như số tiền này là cô trả công cho sự phục vụ tận tụy của tôi.

Ngồi sau lưng mẹ tôi, cuối cùng, chị Loan lên tiếng:

- Ông Lâm, tôi không đi theo ông. Tôi ở lại với bà chủ.

Dượng quay lại nhìn chị như thể chị bị loạn trí. Rồi môi ông nhếch lên trong một nụ cười méo xệch:

- Cũng được thôi! Đồ ở đợ ngu ngốc. Cứ việc ở lại đi.

Dượng lựa ra giấy thông hành và vé của mẹ tôi rồi liệng cái mớ ấy cùng với cái ví lên lòng của bà. Còn món tiền và giấy thông hành của mình, dượng nhét sâu vào trong túi quần. Xong xuôi, mặt dượng sáng rực lên với nụ cười trên môi. Dượng thả mình xuống ghế, sửa sang lại quần áo trước khi mở của xe phóng ra ngoài. Ông ta còn trân tráo quay lại một lần cuối, nhìn chúng tôi:

- Chúc mọi người một cuộc sống an lành.

Đó là tất cả những gì mà ông ta đã thốt ra trước khi biến mất vào đám đông.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:09 pm    Tiêu đề:

Chương Bốn

28 tháng tư năm 1975

Sau khi dượng Lâm đi rồi, mẹ tôi cứ ngồi lặng lẽ, bất động. Vẻ mặt bà không thay đổi. Ngồi co cụm vào nhau dưới sàn xe, chị Loan ôm lấy chúng tôi trong vòng tay. Màn đêm phủ xuống thành phố trong khi lửa vẫn cháy, những tiếng nổ, những tiếng la hét vẫn còn diễn ra.

Ngồi trên lớp thép của sàn xe, với hai tay bưng chặt hai tai, tôi thấy mọi sự như phai mờ đi. Cảnh vật quanh tôi tưởng như không còn là thật nữa mà là tôi đang hiện diện trong một cuốn phim câm có nền chỉ toàn một mầu đen trắng. Sự tĩnh lặng chẳng có mầu sắc, âm thanh, cũng không mùi vị ngự trị mãi trong tôi cho đến khi mẹ tôi cất tiếng bảo rằng đã đến lúc chúng tôi phải quay trở lại nhà.

Trời đêm dường như làm dịu đi cơn rối loạn của thành phố. Khi chúng tôi liều mạng mò mẫm dọc theo con phố tối thui thì sự ồn ào, hoảng hốt đã lắng xuống. Phần lớn bóng đèn đường đã bị vỡ từ trước, nhưng những bóng còn sót lại cũng chẳng bật sáng vì không có điện. Xung quanh chúng tôi có những bóng đen chập chờn qua lại trong đêm tối. Chẳng thể biết được rằng đó là những người đi nhận diện xác chết để tìm người thân thích đã ra đi hay họ chỉ là những con sói đói khát đang đi lục lọi tiền bạc, châu báu. Lâu lâu lại thấy một lằn sáng lóe ngang trời kéo theo tiếng nổ rền rĩ như tiếng bom hoặc tiếng lựu đạn nổ, hay những tràng liên thanh ròn rã làm rung chuyển khắp vùng xung quanh. Từ chỗ chiếc xe van đậu tới nhà tôi không xa lắm, nhưng cũng phải mất hai giờ đồng hồ đi qua các phố nghẹt kín. Xe hơi và xe tải chồng chất lên nhau thành những đống sắt phế thải làm tắt nghẽn từ phố này sang phố khác. Ở nhà, ông bà tôi vẫn còn đang trốn dưới tầng hầm. Qua tấm cửa sổ nhỏ hình trái xoan, ông bà tôi nhìn thấy mọi người ngay, nên chạy vội ra đón ở cầu thang. Mới có vài tiếng đồng hồ, nom ông bà tôi đã xọm đi đến cả chục tuổi sức lực như đã cạn kiệt hết. Câu đầu tiên, hai người hỏi:

- Thằng Lâm đâu rồi?

Mẹ tôi nhún vai:

- Con không biết nữa. Cãi nhau trên xe rồi hắn bỏ đi. Bây giờ chắc là đang kiếm đường mò ra sân bay.

Ông tôi càu nhàu:

- Thằng khốn!

Bà ngoại tôi hỏi:

- Con tính làm gì bây giờ?

Mẹ tôi lắc dầu:

- Con cũng chẳng biết nữa, chắc phải ở lại đây coi sao đã.

Ông nhìn mẹ tôi, cân nhắc lời nói như để cho hai anh em tôi khỏi hoảng sợ:

- Ba mẹ đã nghe đài. Sài Gòn sắp bị bỏ ngỏ rồi. Quân đội gần như tan rã. Đối phương lại tăng thêm sức mạnh, dường như bây giờ chẳng còn có cái gì, chẳng còn có ai cản nổi tụi nó nữa. Nếu con định làm gì thì nên làm ngay lập tức đi. Mình chỉ còn ngày mai nữa thôi. Ông đại tướng đã khuyến cáo mọi người hãy ở nguyên tại chỗ chuẩn bị cho một tình huống có thể sẽ trở nên rất xấu trong một vài ngày tới.

Vừa chậm rãi lần chuỗi hạt, bà tôi vừa nói:

- Sau khi con đi khỏi, bà Đặng có gọi điện tới. Bà ấy hỏi con. Vậy con gọi cho bà ấy đi.

Mẹ tôi gật đầu:

- Vâng con sẽ gọi ngay.

Bà nhấc điện thoại lên, lắng nghe mấy giây rồi chán ngán đập mạnh nó xuống, đầy thất vọng và giận dữ:

- Đồ mắc dịch, hết xài được rồi!

Quay sang bà ngoại, mẹ tôi hỏi:

- Vậy bà ấy có dặn gì không hả mẹ?

- Có đấy, bà ấy nói gì đó về chuyện chờ máy bay trực thăng. Cũng hỏi gì đó về giấy thông hành của mẹ nhưng mẹ bảo con cầm đi cả rồi. Xong thì bà ấy cúp máy. Dễ có đến bốn năm tiếng đồng hồ rồi.

Mẹ tôi liếc ra ngoài đường phố vắng hoe. Bà cắn môi, suy nghĩ. Tay bà đặt lên bụng, vuốt khẽ lớp lụa đang mặc trong lúc tất cả chúng tôi nhìn và chờ đợi. Sau một lúc khá lâu, mẹ tôi như nghĩ ra điều phải làm. Bà đẩy chúng tôi về phía ông bà rồi dặn dò:

- Ba mẹ trông xấp nhỏ cho con. Con phải tới nhà bà Đặng. Chỉ một lát thì con về thôi.

Bà ngoại tôi thảng thốt:

- Đừng, con!

Ông ngoại chen vào:

- Con không đi được đâu. Nguy hiểm lắm. Với lại làm sao con có thể để lũ nhỏ ở đây với ba mẹ được.

Từ một góc, dấu mặt trong bóng tối của bức tường, chị Loan vẫn bằng cái giọng nhỏ nhẹ như mọi khi, nhưng rõ ràng:

- Thưa bà Khuôn, em vẫn là người làm của bà. Cần gì bà cứ sai em. Nếu bà cho phép, em sẽ đi tới nhà bà Đặng cho bà. Em sẽ đem giùm bà bất cứ tin tức gì bà muốn gửi tới các bạn bà.

Mẹ tôi ngẩng lên nhìn chị. Một thoáng ngạc nhiên lướt qua mặt, cứ như lần đầu tiên bà trông thấy chị đứng ở đó. Bà đi tới chỗ chị, giơ tay ra vuốt ve khuôn mặt chị, nhưng chỉ có những đầu móng tay là chạm tới làn da của chị. Dù vậy, chị Loan cũng vẫn rụt lại, vẻ khiếp sợ. Mẹ tôi hỏi:

- Có chắc không?

Chị Loan gật đầu:

- Thưa bà chắc chứ!

- Vậy thì cứ đi! Đi may mắn và nhớ trở về ngay nhé.

Chị ra tới cửa thì dừng lại, từ từ quay về phía mẹ tôi. Với vẻ cực kỳ khó khăn, lúng túng, chị vừa cắn móng tay vừa nói. Tuy thế, giọng chi vẫn rõ ràng rành mach.:

- Nếu nửa giờ sau không thấy em về thì tức là em đã gặp chuyện rắc rối. Lúc đó bà đừng chờ em nữa và tìm cách khác đi. Nhưng mà thưa bà Khuôn, có một điều em thực sự muốn thưa với bà nhưng chưa bao giờ có dịp. Vậy bà hãy cho phép em giải tỏa điều đó trước khi em đi. Em muốn xin lỗi bà về những gì đã xẩy ra giữa em và ông Lâm.

Mẹ tôi cựa quậy một cách khó chịu trong khi chị Loan vẫn tiếp tục:

- Hồi còn ở Nha Trang, em không muốn để bà phát giác được cơ sự như thế, trong cái đêm mà hắn đi vào phòng em. Nhưng em không cản được. Em không thể cưỡng lại được hắn. Hắn quá khỏe, quá hung bạo và lại còn dọa tống em ra đường nếu em không chịu nghe theo. Suốt cả đời, ngay cả khi em không còn ở với bà, thì cũng không bao giờ em muốn làm đau lòng bà. Thưa bà em cầu xin bà tha thứ trước khi em đi.

Chị bắt đầu òa lên khóc nức nở. Mẹ tôi lắc đầu:

- Thôi đừng nghĩ ngợi gì nữa, mọi chuyện đã thành quên lãng hết rồi, hắn ta cũng đã bỏ đi. Chẳng còn gì đáng nói nữa. Hãy tự lo cho mình thôi. Cả nhà cầu nguyện cho cô. Mọi người đều cần cô quay trở lại.

- Vâng, thưa bà.

Chỉ đáp có thế rồi chị biến vào bóng đêm bên ngoài. Một tiếng đồng hồ sau, chị Loan giữ lời hứa, quay trở lại với một trong số những người làm của bà Đặng. Cả hai muốn đứt hơi sau khi chạy qua các phố. Vẻ sợ hãi vẫn còn hiện rõ trên gương mặt họ. Ngay khi họ vừa bước vào, mẹ tôi đã hỏi:

- Công chuyện ra sao rồi? Họ đã đi chưa? Có gặp ông bà Đặng không? Có biết họ đang ở đâu không?

Chị Loan hổn hển:

- Em đã gặp bà Đặng, bà ấy vẫn còn đang chờ ở nhà. Có cái thư này gởi cho bà.

Chị lục túi áo lấy ra một lá thư, trao cho mẹ tôi. Bà chộp ấy nó và đọc to lên.

“Khuôn thân mến,

Tôi chẳng biết nên vui hay buồn khi nhận được tin mới nhất về gia đình của bạn. Khi nói chuyện với cụ bà qua điện thoại vào buổi trưa hôm nay, tôi có cảm tưởng là giờ này bạn đã tới Thái Lan. Rồi thì Loan đến cho tin của bạn. Vậy là bạn đã lỡ chuyến bay cuối cùng rời Sài Gòn. Tối nay qua đài phát thanh, tôi đã nghe hết bản tường trình về những biến cố đã xẩy ra. Trong lòng tôi có sự giằng co về những cảm giác vui buồn lẫn lộn. Một mặt, mừng vì tôi sẽ không bị cô đơn, ít ra còn có bạn chia xẻ những sự khó khăn với tôi. Nhưng mặt khác, tôi rất buồn cho hoàn cảnh không may của bạn. Chỉ thoáng trong một thời gian ngắn ngủi, ban đã gặp biết bao nỗi niềm đau khổ. Rồi còn hiện tại nữa, chúng mình đã xong đâu. Để tôi kể cho bạn nghe những chuyện đã xẩy ra với tôi kể từ lúc hai đứa mình gặp nhau hai hôm trước.

Như bạn biết đấy, trước đây nhà tôi cố gắng tìm cách xin thông hành cho tôi và hai cháu trai để ra đi. Tiếc thay, xin lạy cả nón cái hệ thống thư từ chết tiệt này, riêng đơn xin của tôi đã bị thất lạc qua bưu điện. Dù với tâm trạng rất tệ hại của tôi lúc này, tôi cũng chẳng trách cứ nhà tôi, vì anh ấy đã cố gắng hết mình, chạy chọt đủ các đường để lôi mình ra khỏi cái xứ khốn khổ này. Hôm qua, khi các con tôi nhận được thông hành, thì đó là cơ hội ngàn năm một thủa đã đến. Chúng nó được phép rời Sài Gòn bằng chuyến trực thăng cuối cùng của tòa đại sứ Hoa kỳ cùng với nhân viên ngoại giao mà một ông trong đó là bạn tâm giao của nhà tôi từ nhiều năm qua. Ông bạn này đã góp ý là không nên ghép tôi vào chuyến bay vì tôi là người độc nhất trên cả chuyến bay mà không có giấy tờ hợp lệ. Khi tới Bangkok, có thể vì tôi mà sinh rắc rối cho tất cả mọi người với nhân viên sở di trú ở đó. Chuyến bay có nhiều vị đại sứ quan trọng nên họ đề phòng cực kỳ cẩn thận hầu giữ an toàn cho chính họ. Vì thế tôi hãy còn ở đấy, đứng trên nóc tòa đại sứ quán Hoa Kỳ để chứng kiến chồng con bay khuất lên trời và tự hỏi phải biết đến bao giờ tôi mới gặp lại tất cả.

Bạn đã từng làm mẹ, hẳn bạn cảm thông nỗi lòng đau xót của tôi như thế nào kể từ ngày hôm qua, sau chuyện đó. Trong một mẩu giấy báo tin vui hơn, nhà tôi cho biết đã tới Bangkok bình an vô sự, hiện cùng hai cháu tạm trú đâu đó để chờ chuyến bay đi California. Anh ấy rất chịu khó liên lạc với tôi qua điện thoại, cho mãi vừa mới đây, toàn bộ hệ thống bị tê liệt. Anh ấy hứa sẽ dùng trực thăng để quay lai đón tôi, không lâu đâu, chỉ vài ngày nữa thôi. Tôi hiểu chồng tôi. Anh ấy rất tốt và có khả năng làm chuyện đó. Khi anh ấy nói là sẽ quay lại đón thì tôi tin. Cho nên tôi vẫn chờ ở đây mà chưa tuyệt vọng.

Tôi viết cho bạn thư này để đề nghị với bạn một điều mà có lẽ bạn không thể từ chối vì hơn ai hết, tôi biết rằng lúc này bạn chẳng có nhiều cơ hội nào khác để chọn lựa. Đúng ra, đây là ý kiến của nhà tôi, và đây cũng chỉ là một đề nghị trao đổi rất đơn giản. Tôi cần giấy thông hành còn bạn thì cần ra đi. Vậy thì hãy nương nhau mà giải quyết vấn đề. Bạn trao cho tôi giấy thông hành của cụ bà và vé máy bay đi Mỹ. Trưa nay, qua điện thoại, bác cho biết là sẽ không đi đâu hết, vậy tôi nghĩ trong thời gian sắp tới, bác đâu cần những thứ đó. Cho nên khi nhà tôi trở lại với trực thăng, điều mà anh ấy sẽ làm, sẽ đưa cả gia đình bạn tới Bangkok. Ở đó tôi vẫn đóng vai thân nhân của bạn cho đến khi cùng tới California. Sau đó là tùy bạn, bạn tách ra theo ý mình hay là ở lại cùng chúng tôi bao lâu là tùy ý. Dù là trong trường hợp nào, chúng tôi hứa sẽ là người bạn đồng hành tốt nhất của bạn và các cháu. Xin bạn hãy quyết định thật mau chóng vì thời gian đã hết rồi. Người cầm theo thư này là một trong những người giúp việc mạnh khỏe nhất của tôi. Hắn ta sẽ hướng dẫn bạn đi tới chỗ ở của tôi. Khi bạn tới đây, chúng tôi sẽ cùng đi với bạn đến cái tháp của tòa đại sứ Mỹ. Tôi đã có cách để chúng mình vào được bên trong. Xin hãy giúp tôi để tôi tìm được con cái.

Bạn bây giờ là niềm hy vọng của tôi. Cầu xin trời phật độ trì cho chúng ta.

Thân ái

Bà Nguyễn Đặng

Đọc xong thư, mẹ tôi nhướng mắt nhìn ông bà ngoại dò hỏi, nhưng chẳng ai lên tiếng. Sau cùng mẹ tôi phá vỡ sự ngột ngạt ấy:

- Sao ba, ba nghĩ con phải làm gì bây giờ?

- Như bà ấy đã nói trong thư, con chẳng còn nhiều đường để mà lựa chọn đâu. Trừ phi con muốn để lũ nhỏ sống ở đây, nhưng con đâu có muốn thế. Ở địa vị ba, ba sẽ ráng lấy can đảm mà đi đến đó ngay lập tức.

Những túi ở dưới mắt ông như trũng sâu hơn và tối đi sau mỗi lời ông nói ra. Bà ngoại cũng đồng ý với ông:

- Còn nước còn tát, thôi, cầm lấy giấy thông hành của mẹ rồi đi ngay đi.

Tôi buột miệng hỏi:

- Thế còn chị Loan?

Tiếng nói của tôi dội nẩy lên trong phòng giống như một trái ping-pông làm tôi sửng sốt. Ông tôi trả lời thay cho chị, mắt ông đăm đăm nhìn chị, cái nhìn nhiều hàm ý hơn là lời lẽ:

- Chị Loan sẽ ở lại đây săn sóc ông bà. Phải vậy không Loan?

Chị lúng búng:

- Dạ!

Nom chị không ra thất vọng mà cũng chẳng buồn rầu. Chị nhìn cắm xuống sàn và cứ giữ như thế cho đến lúc chúng tôi đi khỏi. Trong tâm trạng mất tinh thần, chúng tôi chào từ biệt qua loa và theo người cận vệ của bà Đặng bước ra ngoài bóng đêm.

Bên kia đường phố, đồng hồ nhà thờ Đức Bà gõ lên ba tiếng. Tới được nhà bà Đặng không khó lắm bởi lẽ bà ở cách nhà tôi có hai con phố. Chỉ không đầy năm phút và qua vài ngã rẽ là tới cửa nhà bà. Cái bà Đặng đón tiếp chúng tôi hôm nay chẳng phải là con người vui vẻ ồn ào mọi khi, mà là hiện thân của sự bơ phờ, trống rỗng. Mắt bà đỏ hoe và mọng lên. Những ngón tay bồn chồn cứ lần mò từ góc này qua góc kia của mẩu khăn nhỏ nhầu nát. Tóc bà xù lên như ổ quạ, dính bệt từng mảng sát vào da đầu. Một vệt ố nâu chạy qua ngực áo có hình dáng một bàn tay tinh quái đang sờ soạng mò mẫm mỗi khi bà nhúc nhích. Bà chụp lấy cánh tay của mẹ tôi, cảm ơn rối rít vì chúng tôi đã tới. Chúng tôi vào ngồi trên ghế salon trong phòng khách. Bà Đặng sôi nổi với niềm phấn khích mới:

- Tôi biết là bạn sẽ tới mà. Bạn đúng là niềm hy vọng cuối cùng của tôi. Cả đêm hôm qua tôi đã cầu nguyện. Nghe tin là bạn đã đi từ hôm qua, tôi muốn xỉu luôn. Tôi chẳng còn biết phải làm gì, trông vào đâu nữa. Thế rồi cái con bé người làm ấy tới, cảm ơn trời, tôi lại thấy le lói hy vọng.

Bà ta khịt mũi ầm ĩ và chùi một cách kỹ càng bằng một mảnh khăn bẩn. Khi ngẩng đầu nhìn mẹ tôi, bà lại một lần nữa, mắt đẫm lệ, than vãn một cách đau khổ:

- Khuôn ạ... Gia đình tôi, lũ nhỏ của tôi đã đi hết cả rồi.

Mẹ tôi an ủi:

- Mình biết... Mình rất lấy làm tiếc.

Bà Đặng cố trấn tĩnh:

- Tôi đã ở đó. Làm sao tôi quên được chuyện đó. Tôi đã cùng với lũ con tôi leo lên tới trên nóc. Thằng nhỏ, Tuấn, trong tay hãy còn đang cầm cái bánh chóp nón trong chứa đầy kem. Kem sôcôla! Nó cố sức nhảy đại vào lòng tôi, nhưng ba nó và mấy người khác cố kéo nó lại và lôi nó đi. Nó biết đấy, bạn ạ. Tuy nó mới ba tuổi nhưng nó biết chuyện gì đang xẩy ra. Nó túm lấy áo tôi và hét lên “Mẹ ơi... mẹ ơi”. nghe nó la khóc mà tôi đứt cả ruột. Tay nó nhoe nhoét sôcôla, làm vấy hết cả áo tôi.

Bà nhìn xuống vệt bẩn hình bàn tay bé xíu bên trên ngực áo rồi nở một nụ cười thật tôi nghiệp:

- Thế là họ mang các con tôi đi. Tôi ngã xuống đất, chỉ còn biết khóc... khóc... trong lúc chiếc trực thăng đã dứt tụi nó ra khỏi tôi. Lúc đó tôi chỉ muốn chết. Khuôn ơi... Tại sao lại như thế? Biết đến bao giờ cơn ác mộng này mới chấm dứt?

Mẹ tôi vỗ về:

- Sắp qua khỏi rồi. Phải tự lo cho mình đi. Chỉ trong vài ngày nữa bạn sẽ gặp lại tất cả ấy mà.

- Ta phải đi thôi. Tôi không muốn gặp hụt Đặng khi anh ấy quay trở lại.

Rồi bà bật dậy, hấp tấp đi ngang qua phòng:

- Xong cả chưa? Muốn lấy gì thì cứ việc lấy, đi ngay thôi. Xin lỗi phải hối hả thế này, nhưng tôi không thể chờ đợi lâu hơn nữa.

Bà ta vỗ hai bàn tay vào nhau để ra lệnh cho đám người làm và cao giọng giận dữ trong lúc họ chạy rối tinh lên để sắp xếp đồ dùng cho bà.

- Nào đi nào!

Tòa đại sứ Hoa Kỳ nằm đối diên với công viên như đã dự đoán trước, chúng tôi vấp phải một đám đông giận dữ trước cửa tòa nhà. Họ la hét một cách vô vọng trước sự dửng dưng và súng ống đầy mình của toán lính gác người Việt ở đằng sau những cổng sắt. Chúng tôi túm chặt lấy nhau trong lúc làn sóng hỗn loạn đe dọa dẫm đè lên chân chúng tôi và xô chúng tôi ra mỗi người mỗi ngả. Bà Đặng la hét gọi tên cận vệ, người đã cùng đi với chúng tôi suốt mấy tiếng đồng hồ vừa qua, đưa cho anh ta một tấm thẻ cá nhân mầu vàng trên có dán hình của bà:

- Đi tìm David. Anh đã gặp David rồi dó, nhớ không? Ông ấy người cao, tóc hung hung, đang đứng ở cái góc đằng kia kìa. Cái ông duy nhất mặc thường phục đó. Anh không nhìn thấy mặt ông ta đâu ông ấy đang đội mũ bảo vệ. Nom thấy chưa? Tốt! Đưa cho ông ấy tấm thẻ này. Bảo ông ấy cho tôi vào. Nói tiếng Anh chứ không nói tiếng Việt. Nhớ chắc là phải đưa cho ông ấy tấm thẻ này. Tụi tôi đợi ở đây. Mau lên không thì ông ta vào bên trong mất.

Người cận vệ cầm trong tấm thẻ trong tay bà Đặng và chẳng chút ngần ngừ lao ngay vào đám đông. Chúng tôi bước khỏi vỉa hè, túm tụm vào nhau nhìn anh ta sấn sổ mở đường đi tới cổng. Vì hơi lựu đạn cay vẫn còn phảng phất nên mắt ai cũng đỏ hoe và sưng lên. Anh ta giơ tấm thẻ lên cao, vẫy vẫy để người tóc hung chú ý tới. Từ giữa hai cây chắn đường, David nhào ra cầm lấy tấm thẻ trong tay người cận vệ và gạt đám đông ra một bên để lấy chỗ cho bà Đặng vào. Ở bên kia đường chúng tôi nhảy cẫng lên, vẫy tay, gân cổ gọi tên ông. Lát sau ông nhận ra chỗ chúng tôi, nhưng trước khi ông mở được cánh cổng thì những người lính lại tung lựu đạn cay vào đám đông. Mọi người nhào xuống, cố hớp thêm không khí trong sặc sụa, nôn ẹ. Những viên quân cảnh Mỹ vội mở cửa, dùng báng súng đẩy đám đông lùi lại. David và ba viên cảnh sát xô mạnh để tiến lại chỗ chúng tôi. Ông ta đỡ ngang lưng bà Đặng và kéo bà đi qua đường. Bà dãy dụa chỉ tay về phía chúng tôi, la lên với ông ta bằng một thứ tiếng Anh ba rọi:

- “Take them, too. My friends. Two boys and a mamasan. David is Number One. Good. Thank you. They come with me. To helicopter. Please”

David chẳng mất lâu thì giờ để hiểu hết ý bà ta nói gì. Ông ra hiệu cho mấy người lính. Một người quơ lấy em tôi, người khác nhấc bổng tôi lên. Người sau cùng ôm choàng lấy mẹ tôi trong cánh tay mạnh mẽ, đầy lông lá. Tôi hớp lấy bầu không khí một cách tuyệt vọng như phổi tôi đã tràn ngập hơi cay như sắp muốn nổ tung ra. Tôi không thốt lên lời, cũng chẳng thở được, chẳng nhìn thấy cái gì xung quanh khi tôi được vác qua đám đông như một bao gạo. Tôi hầu như không nhận biết cả những cánh tay giận dữ từ tứ phía cào cấu và lôi kéo tôi. Tôi chỉ nhắm nghiền mắt lại và lặng lẽ mong chết đi để mình được giải thoát. Sau cùng tôi được quẳng xuống một chỗ phẳng phiu trên sàn. Ai đó đặt lên mặt tôi một cái khăn mặt ướt để tạm thời làm dịu chỗ đau nhức nhối. Những cơn khó chịu trong phổi tôi bắt đầu giảm đi, tôi hít một hơi thật sâu. Dưỡng khí ùa vào xua tan sự đau đớn. Tôi cố nhìn quanh mặc dầu bầu không khí vẫn còn ngợp hơi cay, tôi vẫn phân biệt được cái phía bên trong của tòa đại sứ Mỹ. Em tôi nằm dưới đất, gần bên tôi khóc ngon lành nhưng tiếng nức nở nghe qua tấm khăn tắm của nó trở nên yếu ớt, như tiếng một con mèo hen. Tôi nghe tiếng mẹ tôi dỗ nó ngay rất gần đó. Một tia nắng xuyên qua cửa sổ phía trên cao chiếu xuống, nhẩy múa trên mình tôi, ấm áp mơn trớn mái tóc tôi như muốn thì thầm với tôi rằng, cuối cùng thì bình minh đã tới.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:09 pm    Tiêu đề:

Chương Năm

29 - 30 tháng 4 năm 1975

Suốt tám tiếng đồng hồ sau đó, anh em chúng tôi ngủ li bì tại một xó hành lang tòa đại sứ Hoa Kỳ trong khi người lớn đợi chuyến trực thăng quay lại. Mẹ tôi cố đánh thức tôi dậy để ăn trưa và tối nhưng trong giấc ngủ mê mệt, tôi chỉ gạt tay bà ra thôi. Cuối cùng khi tôi quyết định bò dậy thì mặt trời đã gần lặn.

Ánh hoàng hôn bao trùm lên thành phố một mầu cam ảm đạm. Không gian vẫn còn phảng phất cái mùi của lựu đạn cay. Từ chỗ cửa sổ nhìn thẳng ra cửa chính của tòa đại sứ, tôi thấy rõ ràng sự chen lấn xô đẩy vẫn còn đang diễn ra giữa những người lính và dân chúng phía bên ngoài. Chỉ có điều đám đông có thể đã nhiều lên gấp ba và sự chộn rộn chen chúc thì tăng gấp đôi so với buổi sáng trong đám xô lấn, tất cả đều là đàn ông vì phụ nữ và trẻ em thì đã bỏ cuộc. Một vài người còn lại có cả súng và lựu đạn, nhưng chưa một ai dám sử dụng mà chỉ dơ lên để dọa nạt thôi. Quân cảnh Mỹ đã được lệnh đóng cổng lại, không cho bất cứ ai được vào. Tôi nhìn thấy mấy tấm thẻ mầu vàng được quơ lên cao, phản chiếu loang loáng dưới ánh chiều tà, nhưng họ cứ mặc kệ. Tôi lần mò lên cầu thang và chui ra sân thượng, nơi mà mẹ tôi đã dặn là khi nào thức dậy thì tìm bà ở đấy. Dọc theo những hành lang, tôi nhận ra rằng cả tòa nhà này nay đã vắng tanh, nom giống như cái hộp diêm trống rỗng. Tất cả mọi người đều leo lên sân thượng, vốn cũng là một nơi đã từng được trang hoàng lộng lẫy. Ở đầu phía bên kia là khu giải trí có hẳn cả một hồ bơi ngoài trời với bàn ghế bằng nhựa có bóng mát và những cây cảnh ngoại nhập. Phần còn lại của ngôi nhà này là một cái nền vuông vức, phẳng lì, có sàn trơ trọi dành cho trực thăng lên xuống.

Ngoài mẹ tôi, bà Đặng và ông David còn có năm người đàn ông Mỹ đứng vơ vẩn bên hồ tắm. Hoàn cảnh của họ thì đại khái cũng giống ông David, nghĩa là cũng kẹt lại đằng sau vì chính ý muốn của họ. Đó là một nhóm phóng viên quốc tế ở lại để ghi chép sự sụp đổ của thành phố Sài Gòn. Cũng như bao người khác, họ bị đuổi theo từ thành phố này qua thành phố khác, chứng kiến một cách bất lực những quân đoàn Việt cộng nuốt chửng từng vùng đất một ngay trước mắt, hết vùng này tới vùng khác. Và bây giờ, chính họ cũng bị kẹt cứng ở chặng cuối cùng, chẳng còn biết chạy đi đâu. Họ chỉ còn có một chuyện là chờ đợi, hoặc là những cái trực thăng tới bốc họ đi, hoặc là toán lính Việt cộng tới bắt, bất cứ điều gì đến trước. Nhưng không giống như mọi người, những người Mỹ này tỏ ra lãnh đạm với làn sóng cuồng loạn đang diễn ra chung quanh. Họ đứng thờ ơ bên cạnh hồ bơi, mồ hôi đổ nhễ nhại trước cái nóng nung nấu, vừa ăn bữa tối vừa tán gẫu một cách hài hước về nền hòa bình của thế giới.

Đến nửa đêm thì hầu hết chúng tôi đều tiêu tan mọi niềm hy vọng đi thoát. Mặc dầu vậy, cũng chả có ai chịu nhúc nhích. Tôi ngồi xệp xuống sàn cạnh mẹ tôi lúc đó đang ôm em tôi trong lòng và đắm chìm trong thế giới riêng tư của bà. Cách đó vài bước và đối diện với chúng tôi, bà Đặng nằm cuộn tròn như hình dáng cái thai nhi, đầu ủ vào hai cánh tay, mắt nhìn đăm đăm vô cảm vào khoảng tối phía sau tôi. Mỗi lần nghe có tiếng động cơ nổ, dù đã lả đi bà cũng cố nhỏm dậy vui mừng, dù chỉ trong khoảng khắc đủ để nhận ra đó là tiếng động cơ gì. Rồi bà lại vật mình xuống sàn, co người lại như trước. Trong sự im lặng đến nặng nề, chúng tôi nằm đếm tiếng chuông ngân nga vọng lại từ ngôi nhà thờ gần đó, cứ thế cho mãi tới sáng.

Cái buổi sáng 30-4 ấy, ở bên ngoài tòa đại sứ quán Hoa Kỳ, đám đông đã kéo đen nghẹt đến nỗi tràn ra cả hàng chục dẫy phố xung quanh. Từ trên nhìn xuống, đường phố lúc nhúc những người nom như một tổ ong vỡ, đang sôi sục vì giận dữ. Chúng tôi thất vọng nhìn về phía xa, nơi có nhiều chiếc trực thăng của nhiều quốc gia đang làm nhiệm vụ giải cứu ở rải rác nhiều nơi, nhưng chả có cái nào xuống cứu chúng tôi cả. Bỗng nhiên, cứ như trời sập, mọi chiếc loa ở mọi góc đường đồng loạt ré hết cỡ của nó làm cho cả thành phố sững lại. Một lát sau, giọng quen thuộc của tổng thống Dương Văn Minh vang lên trong không trung. Ông nghẹn ngào đọc bản thông cáo đầu hàng, nhường Sài Gòn lại cho Cộng sản. Lúc đó là 10 giờ 30 phút sáng. Vào đúng cái lúc đó, chúng tôi nhận thấy hai chiếc trực thăng của Việt Nam tách rời bầu trời điên loạn đầy kích động để bay lượn trên đầu của chúng tôi. Một chiếc ngụy trang mầu xanh của hải quân, còn chiếc kia, nhỏ hơn nhiều, thấy sơn mầu ngân nhũ. Trông thấy chúng, bà Đặng nhào ra kêu như điên dại. Bà quì xuống đất, vừa khóc vừa tạ ơn ông trời ở trên cao đã đáp ứng lời cầu xin của bà. Chẳng mấy chốc, cả chúng tôi hoặc cũng hú lên giống như bầy sói tru trong đêm trăng sáng, hoặc hò hét lên với tất cả sự vui mừng. Hai chiếc trực thăng cũng gây sự chú ý của những người đứng dưới đường phố. Khi chúng xà xuống thấp, tiếng gào thét của đám đông ùa lên dữ dội hơn. Những nắm tay khua lên không trung và mọi người hét bằng tất cả hơi sức của mình:

- Chờ tôi với... Làm ơn cho tôi lên với... trời ơi...

Khi chiếc trực thăng sơn mầu ánh bạc xà xuống thấp chỉ còn hơn chục thước thì chúng tôi nom thấy ông Đặng đứng ngay ở cửa lên xuống, mình bận một cái áo cổ cồn mầu trắng phẳng phiu và sạch sẽ với chiếc quần tây mầu đen, miệng tươi cười nhìn bà vợ một cách đắc thắng. Ông ta trạc tuổi bốn mươi, hói trán, nom chải chuốt và tràn trề sinh lực. Đầu đội một cái mũ sắt quá khổ khiến cho thân hình ông trở nên như bé đi. Quanh bụng ông ta choàng một sợi dây nịt an toàn để khỏi rớt ra khỏi máy bay. Ông ta vẫy tay loạn xạ một cách vui mừng như để ra hiệu là đã nhận ra chúng tôi. Gió quét mạnh mẽ từ trên cánh quạt thổi xuống thân tầu giống như đang ở cận kề một cơn lốc xoáy, thổi bạt tất cả mọi thứ ở khắp mọi chỗ chung quanh chúng tôi. Còn chiếc trực thăng kia thì lượn vòng cách đó một khoảng xa như để chờ đợi bạn đồng hành đáp xuống trước. Rồi thì chuyện xẩy ra. Một kẻ nào đó trong đám đông đã nổ súng. Những viên đạn đã xé toang bầu không khí và ghim vào một bên của thân tầu. Thế rồi hàng loạt phát súng nữa từ đám đông bắn lên theo. Viên phi công vội vã cho bay thốc trở lên. Bà Đặng vội chạy tới thành ban công, kêu lên cầu khẩn:

- Đừng bắn... trời ơi, xin đừng có bắn. Chồng tôi đang ở trên đó...

Bà ta nhẩy lên đùng đùng để mọi người nhìn thấy rõ mình hơn. Từ ở dưới gậm một cái bàn, ông David nhào ra kéo bà trở lại, bà giẫy giụa một cách yếu ớt miệng vẫn còn kêu van đám đông ở phía dưới.

- Xin đừng bắn... đừng... xin đừng...

Nhưng quá trễ. Một viên đạn đã ghim đúng mục tiêu. Từ chỗ đứng, tôi có thể nhìn thấy cái áo sơ mi trắng của ông Đặng loang lên một vệt máu đỏ, rồi nó ứa ra hãi hùng khiến ông phải lấy tay bưng lấy. Từ trên sân thượng, bà Đặng gào lên:

- Đ... ừ... ừ... ừng!

Ông Đặng đứng trực diện với vợ ngay ở phía trên, mắt mở to ngạc nhiên nhìn như ông ta không hiểu ra sự gì đã tới với ông. Họ nhìn nhau, chỉ trong một thoáng, không quá một giây đồng hồ, trước khi ông thình lình mất thăng bằng. Chiếc trực thăng lộn đi nửa vòng, hất ông Đặng ngã xuống sàn khi đó vẫn còn vướng dây nịt an toàn. Một loạt đạn nữa lại bắn lên và lần này thì trúng vào ổ cánh quạt phía trước. Nó lộn nhào giữa khoảng không, rồi giống như một con chim sẻ bị bệnh, nó ngừng sững lại, đổ nhào xuống bãi đáp và nổ tung thành một đống lửa chói lòa. Ở bên kia hồ tắm, mắt tôi như bị mù đi trong khoảng khắc. Thoáng chốc, tất cả chỉ còn lại một chiếc trực thăng đổ nghiêng, cháy âm ỉ dưới bầu trời xanh, gắt nắng. Ở bên trên. Chiếc trực thăng kia lượn vòng rồi biến mất. Dưới đường phố đám đông la hét thỏa mãn.

- Đừ... ừ... ng...

Giọng bà Đặng thều thào, chân bà khụy xuống rồi bà ngã lăn xuống sàn. Mọi người quá hoảng hốt đến nỗi không biết làm gì khác hơn là chỉ nhìn bà như một con rối bằng giẻ.

Từ góc đường phía đằng xa, một toán lính Việt cộng đang theo nhịp hành quân tiến đến với bản hùng ca xa lạ trong tiếng trống kèn. Những xe vận tải, xe tăng phủ đầy bụi đất đi ầm ầm trong thành phố. Trên nóc xe nào cũng có bộ đội. Vài người phất trên tay hoặc lá cờ đỏ sao vàng hoặc lá cờ nửa xanh nửa đỏ có ngôi sao vàng ở chính giữa. Vài người khác thì bung ra những bảng khẩu hiệu viết nguệch ngoạc mà tôi có thể đọc được vài câu như thể là “Chúng tôi đến trong hòa bình. Hãy hàn gắn vết thương do bọn tư bản để lại. Nam bắc là chung một nhà, tất cả hãy ngừng bắn lập tức.”

Bản nhạc tràn đầy bầu không khí những nốt vui tươi, như để xoa dịu đi sự căng thẳng trong đường phố. Ông David quay về phía mẹ tôi, nói:

- Rất lấy làm tiếc. Mọi sự đã xong xuôi hết rồi. Chiến tranh đã chấm dứt. Chúng tôi không thể giữ bà ở đây được nữa. Hãy đem con cái và bạn của bà rời khỏi nơi đây trước khi quá muộn. Chúng tôi tốt hơn cũng phải ra đi mà không mang theo một người Việt Nam nào. Bà có hiểu tôi nói không? Hãy ra khỏi đây ngay. Chúc bà may mắn và tất cả hãy giữ gìn cẩn thận.

Trong một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, bà Đặng cố tiến lại xác chiếc máy bay trực thăng với hy vọng tìm được xác chồng, nhưng vô ích. Bị đẩy một cách vội vã ra khỏi cửa, chúng tôi nắm chặt tay và đi sát vào nhau cho tới khi đi xuống dưới mặt đất. Chẳng còn mấy ai chú ý khi chúng tôi lách ra khỏi cánh cổng và hòa nhập vào dòng người ùa đi khắp mọi ngả.

Đoàn quân hành của Cộng sản tiến chậm chạp trong đường phố, chào mừng dân chúng đứng ở hai bên lề và trao cho họ những tấm chân dung nhỏ của Hồ Chí Minh cùng những lá cờ bằng giấy như thể những món đồ này là trân quí cuối cùng. Họ ngừng lại trước dinh Độc Lập biến xe tăng thành một cái xe ủi đất, chỉ nháy mắt họ húc đổ cánh cổng sắt trong khi đám quần chúng vỗ tay cổ võ.

Sài Gòn đổi chủ vào lúc 11 giờ 30 sáng 30 tháng 4 năm 1975.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:10 pm    Tiêu đề:

Chương Sáu

Sau khi Sài Gòn sụp đổ, mẹ tôi đem Jimmy và tôi trở lại căn nhà thuê ở gần công viên. Suốt bốn ngày đêm sau đó, chúng tôi ở miết dưới tầng hầm dơ dáy, tường vách chất chung quanh đầy bao cát. Phía cuối hầm có một phòng vệ sinh nhỏ với ánh đèn hắt hiu. Một dây điện nối từ đó, truyền qua một bóng đèn trơ trụi treo ở giữa hầm làm nơi sinh hoạt gia đình. Vì bị cúp điện thường xuyên nên đèn cầy trở thành nguồn ánh sáng chủ yếu. Hằng ngày, chúng tôi chui rúc trên một cái nệm nhỏ và lắng nghe tiếng những bước chân chạy rầm rập cùng tiếng đấm của thình thịch vang dội lại từ nhà này qua nhà khác. Trong khi chờ đợi để được đăng ký chính thức hẳn hoi trong chính quyền mới, chúng tôi đành phải trốn chui trốn nhủi như một ổ chuột trong mùa mưa.

Chỉ có chị Loan là dám đi ra ngoài để mua thực phẩm, nghe ngóng tin tức và làm những công việc vặt cho mẹ tôi. Khi đi, bao giờ chị cũng mặc bộ quần áo đen cho dễ hòa nhập với mọi người ngoài phố. Khi chị trở về, chúng tôi có thể nhìn thấy bóng dáng của chị qua rìa của cái cửa sổ hình trái xoan chỉ cách mặt đất khoảng một tấc. Chợ thì cũng chẳng có gì nhiều. Trong thời gian chiến sự tràn đến, chẳng mấy ai điên rồ gì mà mang đổi thức ăn lấy tiền, hoặc vì sợ đói hoặc vì sợ tiền có thể mất giá. Thông thường thì chợ búa là nơi dân chúng tụ họp ồn ào, náo nhiệt mua bán nhưng bây giờ ở đó lại tràn ngập những bộ đội. Hy vọng là càng ít người chú ý đến mình thì càng tốt, chị Loan chẳng bao giờ dám đi la cà. Mặc dầu thức ăn của chị mua về thường thì đạm bạc và héo úa vì cũ nữa, nhưng chị cũng cố gắng chế biến thành những dĩa cơm rau tương đối ngon lành gồm phần lớn là rau cải ngọt hay cải xoong có rưới thêm nước mắm theo cách chị học ở trường nấu ăn. Đối với chúng tôi thì ăn miếng nào là thấy ngon miếng ấy. Chị nấu nướng trong căn bếp ở tầng trên, khi xong xuôi thì bưng xuống hầm.

Những tin tức do chị Loan mang về thì chỉ toàn là những tin đồn hay suy đoán do những người dân đang hoang mang loan truyền. Theo dõi những hoạt động của Việt cộng cũng thu thập được một vài gợi ý để sống còn. Điều trước tiên và hệ trọng nhất, là khi ở những nơi công cộng hay trong những buổi họp chợ mỗi người phải tỏ ra mình cũng Cộng sản như ai. Bất cứ về lời buộc tội về sự ngoan cố nào cũng lập tức tạo nên sự phẫn nộ kinh khủng chụp xuống đầu kẻ bị tố cáo. Chẳng ai còn tin ai hết ngay cả những người thân trong gia đình. Chính quyền và các viên chức trong chế độ mới là tập trung gây nên nỗi sợ hãi, trong khi phần lớn bộ đội thì dường như vô hại, nhất là cái cách mà họ cư xử với trẻ em. Tuy nhiên, mọi người đều cảnh giác về giờ giới nghiêm bắt đầu từ lúc chín giờ và bất cứ kẻ nào bị bắt gặp ngoài phố trong giờ ấy đều bị bắn ngay tại chỗ không báo trước. Các thông báo về những cái chết trong giờ giới nghiêm đã gieo thêm hãi hùng cho cái thành phố vốn đầy hãi hùng này.

Để kiểm soát được toàn bộ Sài Gòn, Việt công đã chia lực lượng ra thành nhiều toán nhỏ, rải khắp mọi nơi trong thành phố. Nhiều nhà sẵn sàng mời bộ đội vào đóng chốt để hy vọng hành vi thành khẩn của mình sẽ làm nhẹ đi phần nào tội lỗi trong quá khứ. Những toán khác thì ùa vào chiếm đóng những căn nhà bỏ không, các khách sạn, các khu đại sảnh, các trường học hay đóng la liệt trên đường phố.

Bên trong cái hầm tù mới của chúng tôi, Jimmy và tôi trở thành mối bận tâm hàng đầu của mẹ. Bà đã từng bảo vệ chúng tôi trước các tin đồn, những cặp mắt nhìn trừng trừng, và những lời phê phán xuất phát từ bề ngoài giống Mỹ của tụi tôi. Nhưng hiện nay sự o ép đã vượt quá mức chịu đựng của bà. Thu mình trong một góc xa nhất của căn buồng, chúng tôi nhìn mẹ tôi đi tới đi lui như một con thú bị nhốt trong chuồng. Và lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi thấy chịu hết nổi vì mặc cảm tự ti bởi vì tôi nhận ra sự khác biệt của mình, cũng như thằng em trai tôi, chính bản thân nó cũng bị tôi ghét bỏ. Tôi muốn bứt hết mớ tóc mầu nhạt của tôi ra, cạo tuột làn da trắng và lột bỏ đôi dép đắt tiền ra khỏi bàn chân. Tôi cầu trời có một chuyện gì đó xẩy ra, bất cứ là chuyện gì cũng vậy để cho cái sự tủi hổ bớt ám ảnh mẹ tôi. Thay vì thế, tôi vẫn cứ còn ngồi lặng câm, tê liệt trong nỗi sợ hãi và cầu mong cho thời gian trôi qua mau.

Một buổi trưa, sau vài ngày trốn tránh, mẹ tôi sai chị Loan đi ra ngoài chợ mua vài lọ thuốc nhuộm mầu đen. Chẳng cần báo trước, bà bất ngờ nhào vào góc nhà mà chúng tôi đang núp, xách chúng tôi lên bằng những móng tay sắc nhọn của bà giống như bà đang bắt mấy con gà ở trong bu. Bấp chấp tiếng kêu khóc kinh hoảng của chúng tôi, bà kéo lê chúng tôi trên sàn nhà lạnh lẽo để lôi vào buồng tắm. Trong khi chúng tôi giẫy giụa và kêu gào, bà xối cái thứ nước đen ngòm đó lên chúng tôi và ghìm đầu chúng tôi xuống để ướp thuốc nhuộm lên những mái đầu hung hung của chúng tôi, một thời gian hình như rất lâu. Tôi ngồi dúm người lại bên em tôi, hai cánh tay gầy guộc che lên bộ ngực phanh trần. Sự phũ phàng thô bạo khi mẹ tôi giật từng mảng tóc của chúng tôi lên, không nói không rằng làm chúng tôi tá hỏa. Cả hai anh em chúng tôi đều khóc sướt mướt vì cái vụ nhuộm đau đớn này. Bà nhìn sững chúng tôi bằng cái nhìn thất thần và chỉ ngón tay thẳng vào mặt chúng tôi:

- Hai đứa mày câm mồm lại! Đàn ông không bao giờ được khóc lóc! Nhớ chưa?

Nói xong, bà lại tiếp tục xối thêm thuốc nhuộm lên đầu chúng tôi.

Nhưng chúng tôi chẳng thể nào nhịn khóc được. Ông ngoại tôi, sau cùng đã chạy xổ vào phòng tắm, quất trái vào mẹ tôi. Chỉ vào bóng chúng tôi trong gương, Ông tôi quát:

- Ngừng ngay! Mày điên rồi à? Mày định làm gì mấy đứa con của mày vậy? Có thật cần thiết phải làm như vậy không?

Mẹ tôi nhìn vào gương, đờ người lại. Trong gương, hai khuôn mặt nhỏ bé, lem luốc thuốc nhuộm và nước mắt nhìn bà. Nhưng chúng tôi không dám nhìn thẳng vào đôi mắt của mẹ chúng tôi. Với bàn tay run rẩy, mặt đỏ rừ đầy nét thù ghét, trông bà dữ như ông kẹ. Kinh hoảng với hình ảnh trong gương, mẹ tôi òa lên, nức nở khóc.

Bà quỳ xuống, lấy hai tay lau sạch những vết nhem nhuốc trên mặt chúng tôi rồi nhỏ nhẹ:

- Tha lỗi cho mẹ nhé.

Người đàn bà điên loạn khiến cho chúng tôi hãi hùng đã biến đi, chỉ còn tiếng nói của mẹ tôi thì thầm bên tai:

- Mẹ không giúp các con được. Chẳng có thể làm gì để thay đổi con người vốn đã như thế của các con. Thôi đừng khóc nữa. Tất cả đều là lỗi của mẹ, mẹ cũng chả hiểu tại sao nữa. Nhưng mẹ hứa với các con rằng mẹ sẽ không để bất cứ việc gì hoặc đứa nào làm khổ các con. Trừ phi mẹ chết!

Tất cả chúng tôi đều khóc với nhau trong phòng tắm cho đến khi nước mắt cạn khô. Chiều hôm đó, mẹ tôi có một quyết định. Sau khi đẩy anh em tôi lên tầng nhà trên, bà nói với ông bà ngoại và chị Loan rằng có một buổi họp gia đình.

Đứng trên cầu thang, Jimmy và tôi cố lắng tai nghe xem mọi người nói gì với nhau. Nhưng chúng tôi chỉ lõm bõm nghe câu được câu chăng, ngoại trừ cái lúc có tiếng của ông ngoại la lên, vang trong không khí, thật chẳng bao giờ ông ngoại tôi lại giận dữ đến như thế:

- Không! Ba cấm đấy! Con điên mất rồi... thật quá nguy hiểm...

Mẹ tôi kéo chị Loan qua một bên, sai chị đi ra phố rồi bà lại tiếp tục tranh cãi với ông bà ngoại thêm cả tiếng đồng hồ. Sau cùng mẹ tôi mở bung cánh cửa xông ra. Tôi còn nghe giọng phẫn nộ của ông ngoại tôi còn đuổi với theo bà:

- Con đừng có xúi con Loan làm chuyện bậy. Nó còn quá nhỏ, không thể tự mình quyết định được!

Mẹ tôi la lại:

- Ba không thấy sao cả con và nó không ai có đường để lựa!

Ông tôi nói giong nài nỉ:

- Vậy thì chờ chúng ta quay về nhà rồi hãy tính. Thôi con ơi, nhiều chuyện xẩy ra lắm rồi, đừng có làm thêm một chuyện sai lầm trong ngày hôm nay nữa.

Mẹ tôi đi vào buồng tắm và đóng sầm cửa lại. Sau đó một lát chị Loan trở về. Theo sau chị là một bà già mà chị bảo hãy đứng chờ ở ngưỡng của.

Qua khung cửa sổ ở tầng trên, chúng tôi im lặng quan sát bà ta. Đứng bên cạnh cửa tay ôm khư khư một cái túi dơ bẩn, bà chờ chị Loan. Khuôn mặt bà đầy những nếp nhăn in hằn xuống, nhiều đếm không xuể, xương sống thì còng làm cho mắt bà phải nhìn cắm xuống đất. Tóc bà ta lưa thưa và bạc. Lúc biết chúng tôi đang nhòm, mặt bà dão ra thành một nụ cười móm mém, đỏ tái. Sự xuất hiện của bà trước mắt chúng tôi bất thần như chuyện cổ tích, và chúng tôi có cảm giác là bà sẽ bay vòng vòng trên một cán chổi như là một mụ phù thủy vậy.

Chị Loan đã trở ra có mẹ tôi theo sau. Hai người đưa bà cụ xuống tầng hầm dưới. Bà ta hỏi mẹ tôi:

- Ngoài cô gái này ra có phải cô là một người nữa cần tới tôi phải không? Cô chắc là mới chỉ có bầu ba tháng không? Ngó cái bụng tôi cá là nó phải già tháng hơn nhiều....

Mẹ tôi quay lại suỵt bà già. Vẻ kích động dễ nhận ra trên gương mặt của mọi người. Bà già bước vô nhà, đặt cái túi xuống sàn và thở phào nhẹ nhõm. Trông thấy ông bà ngoại tôi đứng chờ ở dưới căn hầm, bà khẽ gật đầu chào.

Chị Loan giới thiệu bà ta với mọi người:

- Thưa đây là bà Tám, bà mụ duy nhất còn sót lại trên phố. Mọi người ở ngoài chợ đều giới thiệu bà Tám cho chúng ta. Con đã nói với bà tám là mình không phải là cư dân ở đây nên chẳng ai biết ai vào đây hết. Cũng vì thế mà bà nhận lời giúp cho đấy.

Bà Tám thô lỗ tuôn ra một tràng:

- Được rồi... được rồi... khỏi dài dòng văn tự nữa. Phải gấp lên vì tôi còn hai mối ở ngoài phố đang chờ, không lại tới giờ giới nghiêm. Mấy người sẵn sàng cả chưa?

Rồi bà chỉ vào Jimmy và tôi, hỏi:

- Ủa, tóc hai thằng nhỏ làm sao vậy?

Mẹ tôi cáu kỉnh:

- Không việc gì đến bà. Để tôi xua tụi nó lên lầu. Mà ở đây cũng chẳng có gì để cho tụi nó coi cả

- Tôi chỉ muốn giao cho mấy người món thuốc ta này thôi. Chỉ trong vòng tám tiếng là công hiệu. Qua ngày mai là ổn chuyện hết.

Mẹ tôi đáp:

- Vậy thì đưa đây.

Bà già lục trong túi sách lấy ra hai cái hộp gỗ nhỏ trên có chạm trổ một cách thô sơ hai hình con rồng vàng thủ một viên thuốc nhộng mầu đen, bên ngoài có gắn sáp hàn kín. Bà ta trịnh trọng đặt xuống sàn làm như chúng có giá lắm.

Ngước nhìn mẹ tôi, bà ta nói bằng một giọng có vẻ hơi lo lắng:

- Cô à! Chắc cô không ưa tôi nhắc lại câu hỏi này. Nhưng công việc của tôi bắt buộc phải quan tâm tới khách hàng. Vậy chứ có thật cái bầu chỉ mới có ba tháng không? Sao nó tổ bự như cái bầu sanh ba hay giống như bị báng vậy?

Rồi bà chỉ tay qua chỉ Loan:

- Cô này thì khác, uống thuốc của tôi thì chẳng có vấn đề gì hết. Nom cô ấy như thể chưa có bầu. Còn cô thì... tôi chẳng biết nữa.

Đứng dựa ở cửa, ông tôi góp lời:

- Con gái tôi có bầu bốn tháng rồi đó.

- Tôi biết mà. Cho nên tôi phải nói với cô, thuốc này không hiệu nghiệm với cô đâu.

Rồi bà ta lại lắc đầu:

- Không chừng nó lại sinh rắc rối nữa cơ đấy...

Mẹ tôi ngắt ngay lời:

- Bất kể là bà thấy như thế nào, tôi chẳng có gì để lựa chọn nữa, biết chưa! Tôi không thể đèo bồng thêm một đứa con nữa. Thôi cứ đưa cái thuốc chó đẻ đó cho tôi.

Bà già nhún vai:

- Tùy cô thôi! Mỗi người một hộp, trong có một viên thuốc mầu đen. Tối nay ăn cơm như thường lệ, đến khi đi ngủ thì đem ra uống. Chỉ sáng mai là cái bào thai bị trục ra. Chảy máu và đau đấy, nhưng đó là chuyên bình thường đừng có lo. Cần hỏi gì thêm nữa không?

Mẹ tôi hỏi:

- Chỉ có một viên thôi à? Bà có chắc là tôi chỉ cần uống có một viên thôi không? Tôi có thể uống hơn thế nữa không?

- Cô ấy à? Ờ, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng còn cái cô bé này thì một viên cũng quá đủ.

- Vậy đưa thêm cho tôi hai hộp nữa đi.

- Úi già, như thế thì nhiều quá.

- Mặc kệ, cứ đưa đây cho tôi.

Bà tám thở dài:

- Được. Cô muốn bao nhiêu cũng được nhưng phải trả thêm tiền.

- Có ngay. Nhưng bà phải nói cho tôi biết phản ứng thuốc như thế nào. Có nguy hiểm gì hơn không khi tôi uống thêm hai viên nữa?

Bà già gật đầu:

- Dĩ nhiên là có chứ.

- Vậy lạy trời, cái nguy hiểm ấy nó ra làm sao hả bà già chằn?

- Cô nghĩ sao? Thêm thuốc là thêm của độc, tức là chảy máu thêm, co quắp thêm chứ còn gì. Nhưng tại cô muốn như thế thì tôi làm theo ý cô. Cho nên hãy suy nghĩ kỹ trước khi uống. Tôi đâu có cản được quyết định của cô mà tôi cũng không bảo đảm rằng nó sẽ hiệu nghiệm. Suốt cuộc đời làm nghề này của tôi, chưa bao giờ tôi giao thuốc cho người có bầu quá ba tháng, không một ai hết, vì người ta chịu nghe tôi chứ đâu có như cô. Vậy thì đừng có hỏi là có chuyện gì xẩy ra đến cho cô nữa. Mà nếu có chuyện gì thì chẳng phải lỗi của tôi, tôi đã nói trước với cô có cả nhà nghe thấy mà. Bây giờ cô cứ khăng khăng đòi uống thì có bề gì hãy ráng chịu. Rõ chưa?

Bà ngoại tôi lên tiếng:

- Khuôn...

Mẹ tôi đáp ngay:

- Không việc gì đâu, má. Con biết việc con làm mà.

Ông tôi lên tiếng, mặt ông tràn ngập nét thất vọng:

- Thật à? Thật là con biết con đang làm gì à?

Bà già lại tiếp:

- Tất cả bẩy mươi đồng cho bốn hộp, tôi bớt cho cô mười đồng để cô lấy hên. Cầu thần thánh phù hộ.

Rồi bà đứng dậy, quơ lấy cái túi ôm vào ngực. Me tôi trao tiền và nói cám ơn.

Không một ai lên tiếng khi bà ta đi ra. Bốn hộp gỗ vẫn nằm trên sàn nhà với cái bao bên ngoài ghi bốn chữ bằng kim nhũ nguệch ngoạc: “Ô - KIM”, phía dưới còn một hàng chữ nhỏ xíu: “Chỉ xài cho đàn bà”. Mẹ tôi nói bằng một giọng quả quyết:

- Loan cầm lấy một hộp đi. Còn mấy hộp kia để lại cho tao.

Chị Loan trả lời:

- Thưa bà, vâng.

Mẹ tôi hỏi:

- Có muốn suy nghĩ lại thêm không? Nên nhớ là mày có toàn quyền giữ đứa bé nếu muốn, chứ chẳng cần phải làm theo tao. Tao thì có lý do riêng để làm.

- Em biết. Nhưng cũng như bà, em cũng có lý do riêng của mình. Em sẽ uống.

- Vậy thì tốt. Coi như chúng ta đồng hội đồng thuyền. Vậy cất hộp thuốc di rồi sửa soạn làm cơm.

Mẹ tôi thở dài trong khi chị Loan cầm cái hộp lên rồi biến đi sau cánh cửa. Ông bà ngoại cũng lặng lẽ rút về cái góc mọi khi vẫn ngồi. Khi mọi người đã rời chỗ, tôi mới lên tiếng:

- Mẹ ơi.

Mẹ tôi hơi giật mình trước khi nhìn thấy tôi. Rồi mắt bà nhướng lên chờ đợi câu tôi hỏi. Tôi tiếp:

- Chuyện gì thế hả mẹ. Mấy cái hộp gì thế?

- Chả dính dáng gì tới con hết.

Ngồi trên chiếc nệm, ông tôi chen vào:

- Sao lại thế. Con không thể giải thích cho nó biết chuyện con làm hay sao? Đừng có như vậy. Con phải nói cho nó nghe về chuyện này. Lựa lời mà nói chứ đừng có gạt nó ra như thế. Nó đâu có ngu.

- Ba! Ba đừng nên xía vào chuyện của con.

Bà trả lời ông tôi một cách giận dữ rồi quay sang tôi:

- Không có chuyện gì đâu con à. Mọi sự đều bình an. Mấy cái hộp này là để cho người lớn. Uống thuốc xong, mẹ sẽ khỏe hơn và nhẹ nhõm hơn, chẳng sao đâu hiểu chưa.

Tôi hỏi:

- Thế còn em bé. Nó có làm đau em bé không?

Mẹ tôi ngồi quì xuống sàn đất lạnh tưởng chừng như bà bị một luồng điện mạnh chạy qua làm cho bủn rủn khắp cả người. Rồi bà gượng dậy, quơ lấy hai vai tôi, nhấc bổng lên và dí vào sát bức tường sau lưng tôi. Bà cúi sát xuống mặt tôi, mắt ngang tầm mắt tôi và nghiến răng nói:

- Thằng ranh con, mày biết gì về những viên thuốc. Nghe đây, nghe cho kỹ. Chẳng có đứa em bé nào trong bụng mẹ hết. Ai cũng nghĩ là mẹ có bầu nhưng rút cục là nhầm hết. Những viên thuốc này uống vào là cốt để lấy sức khỏe mà nuôi cái lũ hay chõ mõm ăn hại là tụi bay đó. Nếu mà mày hở ra cho một ai biết thì tao giết. Rõ chưa? Và cầu Phật phù hộ, chớ có mở mồm hỏi han gì nữa nghe chưa! Bưng cái miệng lại. Tao không ưa cái thói như thế đâu.

Chẳng cất nên lời, tôi gật lấy gật để và cảm thấy bờ vai bị bà xiết cứng được lơi ra. Suốt đêm hôm ấy, dấu vết do móng tay của bà để lại vẫn còn hằn lên những vệt đỏ bầm.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:11 pm    Tiêu đề:

Chương Bảy

Bóng đêm chụp xuống chúng tôi như một kẻ trộm tinh vi. Nhà bị cúp điện. Cả thành phố chìm trong bóng tối. Từ tầng trên bước xuống, chị Loan mang theo một cây nến trên tay. Bóng của chị chập chờn trên nếp tường khi chị đi ngang qua tầng hầm.

Bữa ăn tối, chị làm một dĩa thịt gà hấp với măng và rau cải xào. Bà tôi không ra bàn ăn mà chỉ nằm bất động trên nệm, mình đắp một tấm mền mỏng. Ông tôi thì ăn uống một cách khó khăn, trệu trạo như chẳng ngon lành gì. Mọi người còn lại ăn uống thật nhanh trong im lặng. Lúc tráng miệng, chị Loan bưng ra một dĩa chè chuối nhưng lại thiếu món nước cốt dừa để cho thắm vị. Mặc dầu vậy, em tôi và tôi vẫn thấy ngon miệng như thường.

Sau bữa cơm tối, mẹ tôi chui vào phòng tắm đóng cửa lại còn chị Loan thì lui về nhà bếp ở tầng trên. Khi mẹ tôi trở ra, trông bà xanh rớt và có vẻ lo âu hơn thường lệ. Bà ngồi xệp xuống tấm nệm, tư lự cắn móng tay trong lúc chúng tôi cũng lo lắng sán lại gần bà. Nom thấy chúng tôi, Bà mỉm cười và giơ tay quơ lấy ngang lưng của em tôi, kéo nó vào lòng. Bà vuốt ve những sợi tóc mới nhuộm của nó, mắt nhắm lại mơ màng. Bà ngoại tôi xà tới, đối diện với cả ba người, hỏi một cách bâng quơ:

- Con uống bao nhiêu rồi?

Mẹ tôi đáp:

- Hết trọi trơn!

Bà tôi rên lên:

- Ôi trời!

Để làm cho mẹ tôi chú ý đến nó, thằng em tôi giơ tay đặt lên má của mẹ rồi nói:

- Mẹ à.

- Gì thế con?

- Bao giờ thì chúng con ra ngoài kia chơi được?

- Sắp, sắp rồi con.

- Còn mẹ, mẹ thấy thế nào.

- Mẹ không sao hết, còn con?

- Con cũng vậy. Cám ơn mẹ.

Sao hôm nay cu cậu lễ phép thế. Jimmy tiếp giọng đầy hy vọng.

- Con ngủ với mẹ đêm nay được không? Con chả muốn nằm một mình đâu.

- Nếu con muốn thì cũng được. Nhưng sao vậy? Giường của con cũng gần xịt giường của mẹ mà.

- Con chả biết nữa. Nhưng mỗi lần tỉnh ngủ thì con sợ. Cho con ngủ bên cạnh mẹ, được không mẹ?

Mẹ tôi trả lời giọng buồn tẻ, mắt nhắm lại, nom bà như người đang buồn ngủ:

- Sao cũng được.

Rồi nó hỏi tôi:

- Còn anh Kiên có muốn ngủ chung với mẹ và em không?

Nó nhìn thẳng vào tôi và chờ mẹ chấp thuận:

- Có được không mẹ?

Mẹ tôi trả lời hững hờ:

- Nếu nó thích.

- Chắc là thích rồi phải không anh Kiên?

Tôi gật đầu. Thật ra tôi cũng hãi hùng khi phải ngủ một mình, lúc tỉnh giấc trong đêm chỉ nghĩ đến chuyện không đâu.

Jimmy và tôi chiếm mỗi người một chỗ bên cạnh mẹ tôi, trên tấm nệm. Tôi choàng tay qua bụng mẹ và thấy bà ngủ thiếp đi. Rồi tôi lơ mơ nhìn bóng đêm trôi chậm chạp qua khung cửa sổ. Dưới sàn gần chỗ tôi nằm, ngọn đèn cầy vẫn còn cháy. Ánh sáng của nó chập chờn trong không khí tạo nên những hình ảnh quái dị trên bức tường giống như những quỉ thần dưới địa ngục có trong cuốn sách tô mầu mà trước đây các bà phước hay chuyền tay cho chúng tôi coi trong lớp giáo lý ngày chủ nhật.

Vào khoảng bốn giờ sáng thì tôi choàng thức dậy trong tiếng la thất thanh đầy vẻ đau đớn. Căn hầm tối đen. Tôi nhẩy dựng lên và nhìn quanh để tìm mẹ tôi nhưng chỉ thấy có một tia sáng nhỏ le lói qua cánh cửa đang đóng kín mít nơi phòng tắm. Bên cạnh tôi, em Jimmy vẫn ngủ vùi, mình co quắp, hai đầu gối kề vào hai má, miệng vẫn còn mút ngón tay. Tôi đảo mắt ra xung quanh. Mối sợ hãi của tôi dâng lên. Tôi vừa sắp bật khóc thì ông ngoại đã trờ tới bên cạnh. Ông ôm lấy tôi vỗ về. Trong bóng tối, hơi thở của ông thoang thoảng mùi kẹo Jolli Rancher. Tiếng ông thì thầm bên tai:

- Yên đi. Yên đi con. Mẹ sẽ không sao đâu. Đi vô ngủ với ông.

Tôi hỏi:

- Mẹ con làm sao vậy?

- Chỉ đau bụng thôi. Không sao.

Từ trong buồng tắm, tiếng kêu thét của mẹ tôi vang lên. Tôi nghe một tiếng động đổ xòa xuống sàn nhà như một chậu nước, tiếp theo là tiếng ngã sầm xuống đất. Thằng em tôi cựa mình, rồi mở choàng mắt ra, nó nhận thấy ngay là mẹ không còn nằm kế bên. Ông tôi với tay ôm nó vào lòng, thì thầm an ủi nó bằng những lời lẽ ông vừa nói với tôi. Trong vòng tay ôm ấp của ông, anh em tôi lắng nghe tiếng rên la phát ra từ phía sau cửa buồng tắm.

Rồi có tiếng bà ngoại cất lên, đầy vẻ lo sợ:

- Giúp bác đi Loan! Tao chịu hết nổi rồi, không có cách nào làm cho máu ngưng được.

Chị Loan đáp:

- Bà hãy để bà chủ nằm trên sàn. Xốc đứng lên như vậy chỉ tệ hơn mà thôi.

Mẹ tôi nói:

- Không nằm được đâu. Đau quá.

Rồi lại có tiếng ộc ra và vật gì đụng xuống sàn. Ông tôi hỏi to, giọng đầy lo lắng:

- Xẩy ra chuyện gì thế? Nó có làm sao không hở bà? Có cần tôi giúp gì không?

- Không cần. Ông trông chừng mấy đứa nhỏ đủ rồi. Trong này tôi lo được. Chỉ cần làm sao cầm lại được máu thôi.

Ông tôi nói:

- Sao lâu thế. Tôi đi kêu bác sĩ đây.

Bà tôi kêu lên:

- Cái gì? Ông điên rồi hả. Đang giờ giới nghiêm, ông muốn chết hay sao mà đòi đi ra ngoài giờ này. Cứ ở đấy với lũ nhỏ đi.

Chị Loan thất thanh:

- Ối trời ơi!

Bà tôi hỏi:

- Cái gì thế?

- Bụng cháu đang quặn lên, bắt đầu đau. Chắc là tới lượt cháu rồi. Bà giúp cháu với.

Cánh cửa buồng tắm bật mở, bà ngoại tôi ló đầu ra. Dưới ánh sáng của ngọn đèn cầy, trên tay bà đầy những vệt máu bầm lấp loáng. Bà nói với ông tôi:

- Ông giúp tôi khiêng con nó ra.

Ông tôi đứng dậy, quên cả cầm chiếc gậy, lảo đảo từ tấm nệm đi về phía nhà tắm. Một phút sau, bà tôi khiêng hai chân của mẹ. Thân hình mẹ tôi được quấn bằng những cái khăn lông mầu trắng nhưng đã sậm mầu vì đẫm máu. Ông bà tôi đặt mẹ tôi nằm xuống một cái nệm đối diện chỗ chúng tôi nằm. Mẹ xoay mình nằm nghiêng qua một bên và cuộn mình lại như cái bào thai, trong khi ấy bà tôi hối hả quay lại buồng tắm để giúp chị Loan. Mùi máu bốc lên khiến chúng tôi chóng mặt. Em tôi hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, mẹ có sao không?

Mẹ tôi tảng lờ. Bà vùi đầu giữa hai tay. Hai đầu gối co lên che lấy bụng. Ông tôi đứng ở phía dưới chân của bà. Ông hỏi:

- Con thấy thế nào?

Mẹ tôi không trả lời. Ông tôi hỏi sấn tới:

- Con có thấy khá hơn không? Cho ba biết đi.

Mẹ tôi vẫn bưng lấy đầu và đáp:

- Hình như đã ngưng chảy máu rồi, nhưng cái thai vẫn còn.

- Thôi cứ nghỉ ngơi đi, đừng quan tâm tới chuyện ấy. Ngày mai mình sẽ đi bác sĩ.

Bà trả lời:

- Chắc là vậy

Trong phòng tắm, chị Loan và bà tôi phải chật vật cả tiếng đồng hồ. Dù đau đớn nhưng chị không la hét. Thỉnh thoảng chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng thở hổn hển của chị và sau cùng là tiếng xối nước trong bồn cầu.

Suốt đêm hôm ấy mẹ tôi nằm im trên tấm nệm. Cơn co thắt giảm dần. Chúng tôi có thể nhìn thấy bà run rẩy sau lớp khăn bông, còn máu thì vẫn tiếp tục rỉ ra ở dưới thân mình. Mãi tới lúc sáng hẳn, ánh mặt trời tưng bừng chiếu vào tận giường bà mới choàng tỉnh dậy kêu lớn:

- Thuốc không công hiệu. Cái thai không hề hấn gì. Nó vừa mới đạp nè!

Khuôn mặt của ông ngoại thoáng nét nhẹ nhõm. Còn bà ngoại tôi thì quì mọp xuống, khấn khứa. Mẹ tôi lại hét lên một tiếng nữa, tay nắm lại và đấm lên bụng:

- Thế này là nghĩa lý gì? Con mụ già khốn kiếp với thứ thuốc dỏm này? Con mẹ mày chứ.

Bà đấm liên hồi vào bụng và gào lên với cái thai bên trong:

- Sao mày không thấy là tao không muốn có mày. Sao mày không thương chúng tao mà chết đi cho rồi.

Em tôi và tôi nhìn bà mà không thể thốt lên được một lời.

Suốt mấy ngày, mẹ tôi nằm bẹp trên giường. Bốn ngày trôi qua, cuối cùng bọn cộng sản tới gõ cửa. Ở dưới hầm, chúng tôi nhỏm người lên vì sợ hãi, ôm lấy nhau nín thở trong khi ông tôi tập tễnh đi lên cầu thang. Chúng tôi lắng tai trong lúc những người lính sải bước tiến vào phòng khách. Chúng tôi nghe họ nói với nhau bằng cung cách kỳ cục với cái giọng nặng nề của miền bắc và có tiếng ông tôi trả lời câu hỏi họ. Chẳng bao lâu sau, có tiếng ông tôi gọi. Bà tôi lên trước tiên, tay cầm tràng hạt bằng gỗ như thể đó là tấm bùa hộ mệnh. Chị Loan dìu mẹ tôi trong tay. Em tôi và tôi đi sau cùng.

Khi chúng tôi đã tề tựu đông đủ và mẹ tôi đã ngồi xuống ghế thì toán người đang nói dở câu chuyện, bỗng dừng lại chăm chú nhìn chúng tôi. Quần áo họ mặc đã cũ và nhầu nát, vốn trước kia có mầu xanh sậm nay ngả ra mầu nâu bùn. Người lính già nhất trong bọn trạc tuổi bốn mươi, tóc ngả mầu muối tiêu, xỉa ngón tay cáu bẩn gằn giọng hỏi ông tôi:

- Còn ai ở dưới kia không? Đã tập trung tất cả ở đây chưa?

- Thưa ông, tất cả đều ở đây hết rồi.

Ông ta ra lệnh cho một thuộc hạ:

- Đồng chí xuống dưới hầm coi xem hắn nói thật hay nói láo.

Rồi ông ta quay về phía chúng tôi hỏi:

- Tại sao mấy người lại chui rúc ở dưới đó mà không ra ngoài chào mừng ngày đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới sáng tươi? Vì lý do gì mấy người phải trốn nhủi như vậy?

Ông tôi trả lời:

- Chúng tôi chỉ toàn là phụ nữ, trẻ em với người già cả. Chúng tôi đâu có biết chuyện gì xẩy ra. Xin ông bỏ qua.

Ông ta lắc đầu:

- Đấy không phải là lý do chính đáng. Bây giờ là lúc liên hoan chào mừng chiến thắng, không phải là lúc trốn tránh.

Cặp mắt của ông ta lướt về phía chúng tôi, điểm từng mặt một, rồi ông hỏi:

- Nhà này có phải của ông không?

- Thưa không, chúng tôi đi thuê.

- Chủ nhà đâu?

- Tôi không rõ. Ông ta sống trong Chợ Lớn từ trước giải phóng. Có quá nhiều đổi thay từ bốn ngày nay, chúng tôi chả biết chắc cái gì nữa.

- Chưa đâu! Sẽ còn thay đổi nhiều vì chúng ta còn có nhiệm vụ càn quét tàn dư của chủ nghĩa tư bản. Nhưng hãy trả lời đi đã, nếu nhà này không phải của mấy người thì tại sao lại ở đây? Mấy người từ đâu tới? Có phải là bọn phản động chạy trốn Cách mạng không?

Ông ngoại tôi cố nuốt cục nghẹn trong cổ trước khi trả lời:

- Thưa ông chúng tôi là dân ở Nha Trang. Chúng tôi không trốn chạy. Chúng tôi ở đây là có lý do. Như ông thấy đó, đây là con gái của tôi. Nó đang có bầu và vì nó có biến chứng trong những lần mang thai trước nên chúng tôi phải đem nó vào Sài Gòn để nó có thể sanh nở tại nhà thương Từ Dũ. Chúng tôi chỉ vì cẩn thận thế thôi chứ không có ý định trốn tránh Cách mạng. Chẳng qua là chúng tôi vào không đúng lúc nên mới bị kẹt ở đây như thế này.

Viên chỉ huy ghi chép tất cả những lời khai báo của ông tôi rồi tiến lại chỗ mẹ tôi nhìn bà như dò xét. Mẹ tôi cố tránh cái nhìn soi mói của ông ta bằng cách cúi đầu xuống. Bà bị xuống cân quá nhiều trong mấy ngày qua khiến cho tôi nhìn thấy cả những lằn gân xanh nổi lên trên bàn tay gầy guộc của bà lúc này đang khoanh gọn gàng trên đùi.

- Chị này có làm sao không?

Mẹ tôi trả lời nhưng vẫn không ngước lên để tránh cái nhìn của ông ta:

- Cám ơn ông tôi không sao. Tôi chỉ bị mệt vì nóng quá thôi.

Ông ta hỏi tiếp:

- Chị di chuyển được không?

- Đi đâu vậy thưa ông?

Mẹ tôi ngẩng đầu lên nhìn ông ta, ánh mắt rực lên vẻ xót xa và một thoáng quyến rũ. Thông thường, chỉ với cái nhìn ấy là đàn ông phải cúi đầu và quì gối trước bà, nhưng với viên chỉ huy này hầu như chẳng có tác dụng gì. Ông ta trả lời bằng một giọng lạnh lùng:

- Trở lại thành phố cũ của chị. Mọi người phải rời đây trong vòng hai mươi bốn tiếng để giao trống căn nhà này. Đó là lệnh trên. Đất nước thống nhất rồi, mọi người phải trở về chính nhà của mình. Chị cũng thế. Chị phải quay về để khai báo với ủy ban Nhân dân ở đó.

Ông tôi hỏi:

- Chúng tôi trở về bằng cách nào bây giờ?

- Không biết và cũng chẳng cần biết. Tôi đâu có nhiệm vụ kiếm phương tiện chuyên chở cho mấy người. Dù vậy, trước sáng ngày mai, mọi người phải rời khỏi căn nhà này. Chúng tôi sẽ trở lại để kiểm soát. Nếu mọi người không tuân lệnh thì tôi sẽ bắt nhốt hết. Đối với tôi, trẻ con hay phụ nữ cũng chẳng có gì khác biệt.

Ông ta quay một vòng ra hiệu cho thuộc cấp mình. Cả toán đi ra, đóng sập cửa lại và hướng về nhà kế tiếp. Họ chưa kịp ra khỏi cổng thì bà tôi đã rên lên

- Ôi ông ơi, làm thế nào chúng ta có thể ra khỏi đây được?

Ông ngoại tôi lắc đầu, Chị Loan đứng sau mẹ tôi dặng hắng. Chị không còn là cô tớ gái bé nhỏ rụt rè e thẹn mỗi phút mỗi kiểm soát ý nghĩ trước khi mở miệng. Mấy ngày qua đã biến chị thành một phụ nữ trẻ tuổi, chín chắn và tháo vát. Chị nói mà không ngước mắt lên:

- Thưa ông, xin phép cho cháu được góp ý. Nếu nhà nước quẳng chúng ta ra đường tức là họ đã áp dụng phương pháp này cho những người khác. Vậy thì những người đó rời cư bằng cách nào? Chúng ta cứ đi hỏi vòng vòng xem họ làm thế nào thì chúng ta cũng làm như thế hay là nhập bọn cùng với họ.

Bà tôi hỏi:

- Nhưng đi đâu để mà lấy tin tức của họ chứ?

Chị trả lời ngắn gọn:

- Đi ra chợ!

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:11 pm    Tiêu đề:

Chương Tám

Hai cái chợ ở ven sông Sài Gòn đều tràn ngập những người bồn chồn và bối rối. Chợ ở kề ngay bên nhau, chỉ cách có một con đường nhỏ lúc nào cũng sũng bùn và hàng hóa ngổn ngạng Ngôi chợ thứ nhất bán các loại thực phẩm tươi từ rau quả cho đến gà vịt hay cá. Cái thứ nhì cung ứng các loại đồ khô cho khách mua buôn như gạo, đồ gia vị cùng với vải vóc, than, củi. Mặc dù sự căng thẳng bao trùm lên khắp chợ, nhưng sự mua bán vẫn diễn ra theo cung cách cũ đưới những con mắt giám sát của bộ đội. Mọi người thì thào trao đổi tin tức trong lúc mặc cả mua bán. Tiếng xầm xì của họ biến thành một thứ âm thanh giống như trong không khí tràn ngập tiếng ruồi bay.

Chị Loan chẳng mất bao nhiêu thời giờ đã móc nối được với mối đầu tiên. Ngay lối vào cổng chợ thứ nhì, chị tìm ra được một gia đình năm người cũng đang tìm cách trở về Cam Ranh, một thành phố ở gần Nha Trạng Những người này cũng không thể tìm được phương tiện di chuyển. Họ đã tính cuốc bộ trên bốn trăm cây số qua cả những đầm lầy nguy hiểm chết người hay những khu rừng đầy bẫy mìn còn sót lại từ thời kỳ chiến tranh. Nghe ý định của họ, chị Loan chỉ còn biết chúc họ may mắn và kéo chúng tôi vào sâu trong chợ hơn.

Cả buổi sáng hôm đó chúng tôi len lỏi qua đám đông để tìm kiếm xe đi. Mẹ tôi thì hết cả hơi, mặt xanh lè. Ông tôi thì thỉnh thoảng tụt lại phía sau vì cái xương chậu tật nguyền làm ông đau nhức mỗi khi cất bước. Mỗi lần chúng tôi ngừng lại trước một nhóm người để hỏi han tin tức thì trước hết cả đám nhìn chúng tôi như thể nhìn một lũ ngớ ngẩn và sau đó họ cũng nở một nụ cười giả tạo. Ngay như họ có biết một lối thoát thì cái biết của họ cũng bị che dấu sau nụ cười trước khi chính họ cũng chuồn khỏi đám động

Đúng cái lúc mà chúng tôi đã gần hết hy vọng, tình cờ chúng tôi tới trúng ngay cái chỗ bà cụ Tám bán thuốc ta, ở đó bầy biện đủ thứ như giỏ hoa khô, những loại rễ cây, những miếng gỗ bào từ các thân cây thuốc. Bà cụ Tám đang ngồi đằng sau cả hàng đống núi lá thuốc và xúm xít quanh bà ta là những khách hàng hỏi han cách điều trị. Giọng bà ta thì lớn lối hơn cả để gợi chú ý của những người qua lại:

- Chị còn muốn gì nữa, cái này là để trị nôn mửa. Đổ hai chén nước, nấu sôi cho rút xuống thành một chén. Cái này là để trị cả trĩ nội lẫn trĩ ngoại. Uống lúc ăn cơm, ngày hai lần. Còn cái này trị ho.

Chợt bắt gặp ánh mắt giận dữ của mẹ tôi, bà ta ra hiệu cho đám vây quanh im lặng. Rồi nhìn mẹ tôi, bà ta hỏi:

- Ờ... ờ... bồ tèo... mình gặp nhau ở đâu nhỉ... a, tôi nhớ ra rồi, bà trẻ hóc búa có cái bầu đây mà. Sao rồi, nom cô không khá lắm.

Mẹ tôi trả đũa ngay:

- Đoán thử coi! Nè! Mụ bán cho tôi toàn thuốc dỏm. Mụ chằn! May quá lại tóm được mụ ở đây. Trả lại tiền tôi đi!

Bà già đứng phắt dậy giữa đám lá và vỏ cây, xỉa ngón tay vào mặt mẹ tôi tác xác:

- Lấy tiền lại. Điên hả? Thuốc của tôi đâu có dỏm, Chỉ có nhà cô dỏm thôi. Có phải tôi đã nói biết bao nhiêu lần là cái bầu của cô thì khó mà hiệu quả, đúng không nào? Bộ mấy cái bụng bầu của các cô cũng là do tôi gây ra chắc?

Rồi bà ta nheo mắt nhìn mẹ tôi và chị Loan, nghi ngờ:

- Này hai chủ tớ chung nhau một thằng đàn ông hả? Đừng hòng dấu nổi mụ già này nhé. Mấy thằng đĩ đực mà không cuỗm cả hai cho đũa nó đủ đôi. Mà điều, tại sao mấy người còn quanh quẩn ở đây nhỉ, tôi nghĩ là mấy người phải cắp đít quay về nhà rồi ấy chứ!

Mẹ tôi giận sôi cả người lên. Trước đây chẳng bao giờ có ai lại dám nói với bà cái ngôn ngữ kiểu đó. Bà cảm thấy bẽ mặt khi đám đông quay lại xì xào. Đứng cạnh bà lặng lẽ như mặt hồ vắng gió, chị Loan lên tiếng trả lời:

- Chúng tôi chưa tìm được phương tiện quay trở về. Bà có biết cách nào không, bà Tám?

Bà già nhún vai:

- Dĩ nhiên là biết chứ. Chẳng có cái gì ở đây mà mụ này không biết. Mà điều tại sao tôi lại phải giúp cái thứ ngựa cái kiêu kỳ đó nhỉ? Nó làm tôi giận thấu xương ngay từ ngày đầu tiên tôi nhìn thấy cái bản mặt trù ụ ấy. Chẳng được cái con mẹ gì, chỉ có tức ứa gạn

Chị Loan cúi xuống bế cả hai chúng tôi lên, mỗi đứa một bên nách, rồi nói với mụ lang vườn:

- Thôi thì xin bà giúp mấy đứa nhỏ này đi, chúng nó tội tình gì đâu. Xin bà hãy để phước cho đời sau mà tìm cách cho chúng nó trở về.

Bà già nhìn chúng tôi. Cơn giận nguôi dần đi làm những nếp nhăn trên mặt của bà từ từ giãn ra. Lần này bà nói với một giọng ôn tồn hơn:

- Công dẫn mối là hai trăm. Tiền vé đi là năm trăm. Phải trao tiền mặt.

Mẹ tôi kêu lên ngạc nhiên:

- Những bẩy trăm! Bộ hút máu người không tanh hả? Tôi chỉ còn bốn trăm thôi. Bốn trăm cho tất cả, nếu không thì thôi.

Bà già xua tay về phía mẹ tôi:

- Này, ngựa vía, mụ này không có mặc cả với nhà cô.

Rồi chỉ mặt chị Loan:

- Tôi chỉ nói chuyện với cô bé biết điều này mà thôi.

Chị Loan nói:

- Bà Tám, bà có nghe cô chủ của tôi nói không? Chúng tôi chỉ còn có đúng bốn trăm đồng thôi.

Bà già vỗ vào bàn tay:

- Thôi được, vì cái lũ nhỏ này vậy. Mụ này sẽ chỉ cho mấy người cách đi ra khỏi đây, cửa hàng sẽ đóng vào lúc ba rưỡi. Đến gặp tôi tại đây, tiền bạc, khăn gói sẵn sàng. Mụ Tám này không có cái màn chờ đợi đâu đấy nhé!

Nói xong bà ta quay lại với đám khách hàng. Chúng tôi còn ở đó sững sờ. Rồi mẹ tôi ra hiệu cho chúng tôi trở về. Trên đường đi, tôi còn nghe tiếng bà già giao bán thuốc của mình:

- Còn chờ gì nữa hả ông? Còn bà này nữa. Thuốc này trị bá bệnh. Uống lúc đói, hai lần mỗi ngày, chỉ trong một ngày thôi thì sẽ thấy khỏe lại như tuổi hai mươi ngay.

Theo lời dặn của bà Tám, chúng tôi trở lại gian hàng của bà ta vào lúc ba giờ rưỡi, mang theo vài túi quần áo. Bà ta cũng đang chờ chúng tôi ở đó. Tất cả những món thuốc của bà đều được nhét trong hai cái sọt đan bằng tre. Mỗi sọt đều có quai dài để bà xỏ được cái đòn gánh qua kê một bên vai giữa cái đòn, bà ráng nâng gánh hàng lên khỏi mặt đất và gánh về phía chúng tôi. Bà ném cho chị Loan một cái túi nhỏ và ra dấu cho chúng tôi đi theo. Không quay lại nhìn, bà ta hỏi chi:

- Có mang tiền theo không đấy?

- Có chứ. Nhưng bà dẫn chúng tôi đi đâu đây? Còn cái túi khi nẫy là túi gì vậy?

Bà ta chỉ nói:

- Cứ giữ lấy đã. Còn bây giờ thì đi theo tôi tới chỗ có xe.

Chúng tôi cuốc bộ, hết sức vất vả vì mớ hành trang mang theo trong vòng một tiếng đồng hồ. Thành phố khuất dần ở phía sau. Càng đi về phía ngoại ô, những tòa buyn đinh lớn càng được thay thế bằng những nhà cất sơ sài bằng tôn. Dọc theo bờ sông bao quanh Sài Gòn, có nhiều dẫy nhà lụp xụp cất trên những cái cọc đóng nhô lên trên mặt nước. Từ ngoại vi của thành phố, chúng tôi xa dần những khu ổ chuột và cánh đồng lúa mênh mông hiện ra trước mắt chúng tôi tưởng như đến tận chân trời.

Khi tâm trí của tôi đã trở nên đờ đẫn thì bà Tám quyết định dừng chân. Ngay trước mặt chúng tôi là căn cứ quân sự của cộng sản, bao quanh là hàng rào kẽm gai và đồng cỏ trống. Chúng tôi nhốn nháo bước lùi xa mụ già. Một toán bộ đội ùa ra, có lẽ hầu hết chẳng có ai quá tuổi mười tám lấy được một ngày. Họ ghìm súng cảnh giác khi thấy chúng tôi tiến lại gần. Nhiều người trong toán họ nhận ra bà già. Có anh reo lên mừng rỡ:

- Má Tám ơi, má có khỏe không? Má có cái gì cho chúng con không?

Mẹ tôi quá sợ hãi để lên tiếng. Bà nắm lấy cánh tay tôi. Chị Loan hỏi bà già:

- Chuyện gì thế này? Chúng tôi có làm gì chống đối bà đâu?

Bà ta thì thào:

- Cứ bình tĩnh đi. Tôi đi kiếm xe cho mọi người đây mà. Bớt giọng xuống để một mình tôi lo.

Rồi bà quay lại phía những anh bộ đội cười vui vẻ:

- Má đem vài cái bánh bao nhân thịt cho các con đây.

Quay sang chị Loan, bà ra lệnh:

- Con đem đồ ăn lại cho các đồng chí ấy đi, cưng.

Chị Loan thì thào:

- Đồ ăn nào?

Bà ta thì thào lại:

- Thì cái bọc nhỏ tôi đưa lúc nãy đó, đưa cho họ.

Mấy người lính đỡ lấy cái túi chị Loan trao cho. Họ xé lớp bao bên ngoài thấm đầy dầu mỡ ra rồi ăn ngấu nghiến. Lúc bánh đã hết, họ nhìn bà Tám nhoẻn miệng cười trên răng còn dính mấy mẩu bánh trắng, hỏi bà Tám:

- Những ai đi với má thế?

- Toàn là những người tốt, bạn của má cả. Họ muốn nhờ xe đi Nha Trang. Có toán nào tối nay đi có thể cho họ theo không?

Một anh bộ đội sốt sắng cho tin:

- Có, thực ra thì có đấy. Với má Tám thì chuyện gì cũng xong cả. Đại đội ba-lẻ-sáu sẽ ra Huế vào lúc 8 giờ tối hôm nay. Xe có thể ngừng cho họ xuống Nha Trang vào khoảng chiều mai. Nhưng mà họ phải chờ ở bên ngoài, chúng con không thể mang họ vào theo căn cứ được, phải không, má?

- Đúng, đúng. Cám ơn các con. Chờ má chút để má dặn dò mấy người này cái đã.

- Được chứ, má.

Bà ta quay lại chúng tôi và giọng nhỏ lại:

- Thấy chưa tôi đã tìm được xe đi rồi. Mấy chú này tốt lắm, chả gây rối cho tôi bao giờ. Chờ ở ngay chỗ này, đứng chung vào với nhau để họ có thể nhìn thấy mấy người và chớ có đi đâu bất tử, sắp giới nghiêm rồi đó. Tiền đâu, đưa cho tôi!

Mẹ tôi hỏi:

- Vậy chứ bà đi đâu? Bà đâu có thể bỏ tụi tôi giữa chừng như thế này.

- Tôi không thể ở lại với mấy người được. Tôi cũng phải về nhà trước giờ giới nghiêm chớ. Tin tôi đi.

Mẹ tôi luồn tay vào trong áo lấy ra một xấp tiền dấu trong ngực. Bà Tám vồ ngay lấy không để cho những anh bộ đội nom thấy. Món tiền biến đi thật nhanh y như lúc nó xuất hiện vậy.

Mẹ tôi hỏi:

- Vé đâu?

- Làm gì có vé. Đừng lo. Mọi sự tôi sắp xếp xong hết cả rồi.

- Làm sao tôi tin được. Bà lại lừa bịp chúng tôi một lần nữa phải không?

Rồi bà cố nén:

- Trước đây bà nói là năm trăm đồng trả cho vụ vé. Nhưng bà lại dẫn chúng tôi tới đây, ngay cổng trại lính, trước mũi súng của họ rồi bảo chúng tôi ngồi chờ xe cho quá giờ giới nghiêm. Làm sao chúng tôi tin được bà trong tình trạng này kia chứ?

Bà già nhổ toẹt một búng đờm xuống đất:

- Tôi đã nói là khỏi lo. Mọi sự đã sắp xếp cả rồi. Mà tôi làm chuyện này chính là muốn giúp mọi người đấy chứ, sao cô dám buông ra với tôi những câu hỏi xấc xược đến như thế. Không biết tôi còn muốn giao dịch với cô nữa không đây? Có câm ngay cái mồm trước khi tôi nổi nóng lên bây giờ không nào.

Rồi bà nhìn mẹ tôi với vẻ khinh thị. Ông tôi chen vào. Coi như không có mẹ tôi ở đó:

- Làm thế nào bà quen được mấy anh bộ đội này?

- Quen với họ à? Rõ hỏi vớ vẩn! Tôi cho mấy người hay, tất cả bọn họ đều là con tôi hết đó. Tôi đã nuôi và chăm lo cho hàng trăm đứa trong cả chục năm trời nay, ngay trước mũi bọn tư bản mấy người đó.

Mụ cười đầy khinh bỉ và tiếp:

- Thấy đó cái bọn khố rách áo ôm như tụi tui thật ra rất gần gũi Việt cộng. Ông có thể nói tôi là một trong những người mẹ của chiến sĩ và cả đống những chàng trai ngon lành thế này đều là con của tôi. Thôi, việc của tôi đã xong, tôi phải về trước khi trời tối. Chúc đi đường bình an.

Bà ta quay lại phía những anh bộ đội vẫy tay chào. Dù đã có tuổi, bà gồng gánh nhanh nhẩu, chẳng có vấn đề gì. Cất cao giọng bà ngâm lên một bài thơ ca ngợi một anh hùng đã hy sinh trong chiến tranh, đồng thời tiến về phía thành phố, khuất dần trong bụi bậm của buổi chiều.

Mãi tới gần chín giờ tối chiếc xe nhà binh mới khởi sự rời khỏi doanh trại. Xin cảm ơn lời gởi gắm ân tình của bà Tám vì chúng tôi không gặp trở ngại nào lúc lên xe. Những người bộ đội đã kéo chúng tôi lên phía sau của chiếc xe vận tải khi sắp sửa rời Sài Gòn. Dễ có đến bốn chục người co cụm lại với nhau trong một khoảng không gian chật hẹp, tuy nhiên họ cũng hào hiệp để có thể dành cho gia đình chúng tôi hẳn một khoảng riêng trên băng ghế sau ở phía cuối xe. Chúng tôi nhích về phía của mình, cố gắng thu gọn lại được chừng nào tốt chừng đó. Tôi ngồi trên đùi của chị Loan, trong khi em tôi thì cuộn mình ở giữa ông bà ngoại. Cạnh đó là mẹ tôi ngồi ẩn mình trong góc tối, tay ôm ghì lấy bụng

Những anh bộ đội mỉm cười chào đón chúng tôi. Quân phục của họ dính đầy mồ hôi và những cáu bẩn, cứ y như thể là đã nhiều tháng qua chúng chưa hề được đem đi giặt. Nhiều người trong số họ ngồi bệt trên sàn xe vì chẳng còn chỗ trống nào trên ghế. Họ đảo mắt nhìn anh em tôi với vẻ tò mò. Tôi cũng nhìn lại họ và mỉm cười.

Cuộc hành trình đi tới Nha Trang mất hơn tám tiếng. Trên hai phần ba chặng đường, tôi đã ngủ lơ mơ trong tay một anh bộ đội trẻ. Có lúc anh vừa nghịch ngợm mái tóc xoăn của tôi vừa kể cho tôi nghe về gia đình của anh hiện còn ở ngoài Bắc. Anh ta cũng có một đứa em tật nguyền phải chống nạng mà đã hơn năm năm anh chưa hề gặp lại.

- Này chú em, chú ý nhớ tớ sẽ dạy cho chú vài điều.

Anh ta nói bằng một giọng nồng nhiệt khi liếc mắt về phía mẹ tôi như để xin một sự đồng tình. Mẹ tôi ngồi nhích thêm về phía sau mà không nhìn anh ta.

- Chú ý nhớ. Nghe tớ nhắc cho về năm điều Bác Hồ dạy, nhi đồng miền nam rồi cũng phải học. Chỉ có năm điều thôi, sẵn sàng chưa?

Lông mày của anh nhướng hết cả lên chứng tỏ anh ta đang hào hứng. Tôi hỏi:

- Bác Hồ là ai vậy?

Anh ta kéo nhích ngay tôi lại gần hơn, vẻ ngạc nhiên biểu lộ trên nét mặt. Rồi anh ta nói:

- Ơ! Cái thằng cu này! Bác Hồ là ai à? Bác Hồ là bác Hồ Chí Minh đấy, vị cứu tinh dân tộc, chủ tịch vĩ đại của chúng ta đấy. Danh tiếng của Bác loan truyền khắp năm châu mà chỉ với cái tên không thôi là cũng đủ để phá tan xiềng xích trong bao nhiêu năm đã đem dân tộc ta vào vòng nô lệ của Mỹ Ngụy. Sao mà chú mày lại có thể tối tăm đến thế, hả?

Mẹ tôi vội vã lầu bầu một điều gì đó như để xin lỗi cho cái sự ngu ngơ của tôi. Anh bộ đội gật đầu như thể không chấp nhất chuyện đó và tiếp tục bài giảng thuyết của mình:

- Điều thứ nhất là Yêu tổ quốc, yêu đồng bào...

Nằm trong cánh tay của anh ta, nghe giọng anh ta nói, tôi chợt nhớ đến một kỷ niệm tương tự mà tôi đã trải qua hồi còn ở tại bãi biển Nha Trang. Khi đó, người lính bên tôi lại là một anh lính Mỹ mà doanh trại đóng ngay ở gần nhà tôi. Một hôm, trong khi đang nô đùa với các bạn ở cùng lớp, chợt tôi nghe thấy một giọng người ngoại quốc mời gọi chúng tôi lại gần hơn. Ở bên kia hàng rào kẽm gai, tôi có thể nhìn thấy khuôn mặt đỏ rừ và mái tóc hung vàng, óng lên dưới ánh nắng, anh lính nắm trong tay đầy một nắm kẹo như để dụ khị chúng tôi lại gần. Mấy đứa nhỏ la lên “Kiên! Quay lại đi!” Không giống lũ chúng nó, tôi chẳng có tí gì sợ hãi nào đối với người ngoại quốc đang đứng trước mặt tôi đây. Đã từng được tham dự những buổi tiếp tân do mẹ tôi tổ chức, tôi có cả lô kinh nghiệm đối với những kẻ xa lạ và cũng hiểu đôi chút cái thứ ngôn ngữ ngồ ngộ của họ. Tôi bước thêm một bước nữa về phía hàng rào.

- Chào chú bạn bé nhỏ. Ăn kẹo nhé!

Người lính hỏi tôi bằng Anh ngữ. Tôi nhận thấy trong đôi mắt lãnh đạm của anh ta chợt ánh lên một tia mầu xám nhat.. Tôi gật đầu. Anh ta ra hiệu cho tôi lại gần hơn và tôi làm theo ý anh ta. Qua hàng dây kẽm gai, tôi nhận món quà tặng của anh.

- Này thằng bé, có biết thổi bong bóng bằng kẹo gum hay không?

Tôi lại gật đầu lần nữa. Anh ta chạy vòng qua hàng rào và ra khỏi doanh trại để đến với tôi. Lũ bạn tôi thì vẫn đứng từ phía xa để dòm ngó từng cử động của hai chúng tôi. Chẳng quan tâm đến sự rụt rè có thể là vì ác cảm của chúng nó, anh ta vẫy chúng lại và gợi ý với tôi:

- Chú nhỏ có muốn chia vài cái kẹo cho các bạn của mình không?

Tôi chỉ nhún vai đáp lại và anh ta cất tiêng cười rồi xoa bung tóc trên đầu tôi. Tôi dẫn anh ta lại gần đám bạn. Những mẩu kẹo làm tiêu tan nỗi e sợ của chúng. Thế là chúng tôi đã trải qua suốt cả một buổi chiều để vui chơi với người lính trên bãi cát trong khi sóng biển vẫn rì rào ở dưới chận

Trước khi chúng tôi chia tay vào cuối buổi chiều, anh ta hỏi:

- Ngày mai chúng mình có thể gặp lại nhau nữa hay không, chú nhỏ?

Tôi gật đầu rồi chạy đi, cố bắt kịp lũ bạn của tôi. Hôm sau, không thuyết phục nổi một bạn học nào, tôi trở lại bãi biển một mình. Người bạn mới của tôi đã đứng sẵn dưới bóng dừa, tay cầm một cái túi nhựa đầy nhóc những cái kẹo sô cô la bao bọc bằng giấy mầu sặc sỡ. Tôi chạy về phía anh ta. Anh ta nhấc bổng tôi lên, tung tôi lên cao rồi đón đỡ lúc tôi sắp rớt xuống đất.

Tôi dẫn anh về nhà và chỉ cho anh nhìn thấy ông bà ngoại của tôi. Khi mọi người gặp nhau ở ngưỡng cửa, anh tháo ngay cái nón sắt ra và cúi chào ông bà ngoại tôi theo cung cách của người Việt Nam tôn kính những vị già cả. Trong khi chúng tôi ngồi ở gần hồ bơi thì bà ngoại đã đi pha nước chanh cho chúng tôi uống. Trong hàng tiếng đồng hồ, anh lính nằm dài trên cỏ và dùng mảnh báo cũ gấp cho tôi những cái thuyền mà tôi đem thả trên mặt nước phẳng lờ của hồ bơi. Có một lúc tôi chợt thấy anh ngồi chống tay lên và nhìn chăm chăm vào khoảng không. Tôi khua tay ở ngay trước mặt anh ta rồi cất tiếng hỏi:

- Ông Mỹ! Ông có làm sao không?

- Không sao cả!

Anh ta trả lời, đôi mắt nheo lại dưới ánh nắng.

- Tôi vừa chỉ mới nhớ nhà đấy thôi. Chú có biết nhớ nhà là gì không? Tức là nhớ những người thân trong gia đình ấy mà.

- Gia đình à. Ờ, có chứ, tôi biết chứ. Ông có hình của gia đình không?

- Có ngay. Chú có muốn coi hình của gia đình tôi không?

Anh ta tươi hẳn mặt lên, quài tay về phía sau để moi cái bóp.

“My family” tôi nhắc lại từng lời của anh bằng một giọng ngọng nghịu trong lúc tay tôi cầm những tấm ảnh đã nhầu. Có một vài tấm bị ố nhờn vì thấm nhiều mồ hôi của anh. Anh chữa lại cái thứ tiếng Anh nghèo nàn của tôi:

- Không đúng đâu, My family, là gia đình tôi chứ có phải gia đình chú đâu. Not your family!

Thế rồi cứ từng tấm một, anh chỉ cho tôi thấy từng người thân yêu của anh ta. Anh cho biết anh cư ngụ ở tiểu bang Wisconsin. Với tôi, cái tên nghe xa lạ như mầu của đôi mắt của anh ta vậy. Cha mẹ của anh ta lúc chụp hình liếc nhìn về phía ống kính trông thật là dễ dãi và hiền lành. Anh cũng có một bà chị vừa mới lập gia đình xong. Tấm ảnh cưới cho thấy cô dâu xinh đẹp đứng bên cạnh anh chồng mặt tươi rói trên bậc thềm ở trước cửa nhà thờ. Bó hoa mầu trắng trên tay cô dâu trông rất phù hợp vói tấm áo choàng và chiếc khăn voan phủ lên mái tóc vàng. Trong hình cũng có em của anh ta, nom cũng trạc cỡ tuổi tôi.

- Chú mày làm tôi nhớ đến thằng em của mình quá, biết không.

Anh ta vừa nói vừa xoa lên đầu tôi. Tôi nói:

- Thế à. Vậy thì tốt.

- Ờ... ờ... nó tên là Todl. Nó ngoan lắm, giống như chú mày, rất gầy. Tôi nhớ nó quá.

Anh ta vừa nói vừa sờ lên mặt đứa em trong hình bằng những đầu ngón tay.

- Ngày hôm qua chúng mình gặp nhau ở bãi biển, nhớ không? Trước lúc đó tôi đã gọi điện thoại cho Todl vì hôm qua là sinh nhật của nó. Nhưng tôi không có dịp hát cho nó nghe bài chúc mừng sinh nhật qua điện thoại vì nó đang lên đường đi cắm trại mùa hè. Vào cái lúc đang buồn bã đi ra ngoài thì tôi thấy chú chạy chân đất trên bãi cát. Chú mày nom giống y chang một thằng Mỹ con đấy, có biết không. Cho nên tôi rất vui khi mình gặp nhau. Được trò chuyên với chú mày thì cũng như trò chuyên với thằng Todl vậy, chỉ có điều thì thằng cu này thì lắm mồm hơn.

Thấy tôi im lặng, anh ta chợt nói:

- Cám ơn chú bé nhé.

- Về cái gì vậy?

- Về mọi thứ. Về ly nước chanh của bà ngoại. Về sự chịu làm người bạn bé nhỏ của tôi. Về sự đã làm cho tôi thấy chốn này không còn xa lạ như những ngày trước đây nữa.

- Thế thì hay quá rồi. Vậy thì mình lại gặp nhau ngày mai nhé.

- Ồ, không thể được. Ngày mai thì tôi phải đi hành quân rồi. Tôi không thể quay lại trong vòng một tuần lễ kể từ thứ sáu này.

Tôi làm ngay một con tính bằng những đốt ngón tay của mình rồi nói:

- Một tuần kể từ thứ sáu này à. Thế là còn những tới mười ngày nữa.

- Đúng vậy. Nhưng chú có sẽ ra bãi biển chờ tôi không?

- Chắc chắn rồi, khỏi lo.

Tôi đã ghi dấu những ngày trôi qua bằng một nét vạch trên bức tường trong căn phòng của tôi. Đến ngày thứ mười thì tôi quay trở lại khu vực doanh trại, nhưng không bóng thấy anh đứng chờ ở dưới gốc dừa. Tôi ngồi cô đơn trong suốt cả buổi chiều trên bãi cát để chờ anh trở lại. Mãi đến khi mặt trời đã lặn khuất trên mặt biển và bà ngoại tôi réo gọi tôi về ăn cơm, cho tới lúc đó thì tôi nhận biết rõ một điều là anh đã không đến. Ngày hôm sau, tôi quay trở lại một lần nữa nhưng cũng chỉ để cho mình thêm thất vọng mà thôi.

Một tuần lễ sau vào giữa lúc chúng tôi đang chơi đi trốn tìm thì tôi thấy có một chiếc xe vận tải đỗ xịch ngay ở cổng trại lính. Trên xe là một đống chồng chất những túi vải pông sô mà hầu hết đều đã sẫm mầu lại vì những vệt máu đã khô. Một cảm giác gì đó bừng lên, khiến tôi muốn đến gần hơn và tôi bèn chạy như bay về phía chiếc xe vận tải. Vẻ mặt hăm hở của tôi đã làm cho những người lính Mỹ cho phép ngay cả tôi được leo lên chiếc xe tải. Như một người đang trong cơn mơ, tôi chụp ngay một túi đặc biệt nằm sâu trong cái đống chồng chất những bao pông sô đó. Tôi mở phăng cái dây khóa kéo và từ khoảng tối thui phía trong, một mái tóc vàng hoe quen thuộc từ trong túi chợt nhào bung ra. Trong trạng thái thẫn thờ, tôi bỗng ngạc nhiên tự hỏi mình là tại sao mình không đòi anh bạn nói cho mình biết tên của anh ta. Không còn đủ can đảm để kéo chiếc dây khóa cái túi bao đựng xác lại, tôi nhẩy vội ra khỏi chiếc xe và chạy bay về nhà. Khi đến ngưỡng cửa, tôi lại nhớ ra rằng ngay anh lính đó cũng chẳng biết tên của tôi.

Bây giờ, vài năm trời đã trôi qua. Những người Mỹ đã đi rồi. Gia đình của tôi thì đang trốn chạy trong cuộc sống đầy hiểm nguy, tràn ngập những nỗi bất ổn. Và ở đây, ngay bây giờ, lại có một người lính khác đang kể cho tôi nghe về những lời bác Hồ dạy:

- Này điều dạy thứ tư là Giữ gìn vệ sinh thật tốt, nhớ.

Nằm nửa thức nửa ngủ trong vòng tay của anh bộ đội, tôi ngước nhìn lên và thấy trên mặt của anh mang một cái vẻ y hệt khuôn mặt cô đơn mà tôi đã từng thấy đầy dẫy biết bao nhiêu lần trong những cuộc găp gỡ mỗi ngày.

Đó là cái nét vẻ chất chứa nỗi niềm nhớ nhà của những đứa trẻ lạc loài trong cơn hỗn loạn của chiến tranh, những đứa trẻ đã từng chứng kiến cái chết và những sự đổ vỡ hoang tàn, những đứa trẻ khao khát tấm lòng vị tha của tình người.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:12 pm    Tiêu đề:

Chương Chín

Gia đình tôi đến Nha trang vào lúc sáu giờ sáng. Chiếc xe vận tải ngừng lại chỉ để cho chúng tôi xuống. Nhưng chúng tôi cũng có đủ thời giờ chào giã từ các anh bộ đội trước khi họ tiếp tục cuôc hành trình. Chúng tôi đi bộ trở về nhà trong những nỗi lo âu. Thành phố Nha Trang hầu như đã mang một bộ mặt khác. Những lá cờ của chế độ mới phất phơ trước cửa mọi nhà. Ngoài đường không có một bóng người. Thành phố sạch sẽ nhưng không có sinh khí ngoại trừ những cái loa đặt ở khắp hang cùng ngõ hẻm đang loan truyền những đoạn trích trong bản hiến pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Về tới nhà, chúng tôi phải chứng kiến một sự tan hoang không thể hiểu nổi. Cánh cửa sắt dẫn vào nhà đã bị đẩy sập về phía sau, một vệt rác rưởi và bụi đất kéo dài vào tận cửa trước. Phân dơ bôi trét lên khắp mọi chỗ biến cái mầu be nhạt của căn nhà thành một lớp loang lổ mầu nâu lợt bẩn thỉu. Hầu hết các cửa sổ đều bị đập bể tan tành. Những mảnh kính vỡ văng la liệt khắp mọi nơi, trên cỏ, ngoài hiên sau, và trong cả cái hồ bơi dơ dáy. Cỏ dại mọc cao trong vườn có vẻ đe dọa muốn lấn tới sân trước. Tất cả những cây cảnh quí lạ đều hoặc là bị lấy cắp, hoặc là bị nhổ bật rễ, nằm chết khô héo trên sàn xi măng. Bức tường cao mà mẹ tôi yêu mến nay cũng đã sập xuống chỉ còn những viên gạch cuối cùng, kể luôn cả dàn dây leo dầy đặc phủ kín bức tường cũng chịu chung số phận bi thảm. Cứ mỗi bước, chúng tôi lại gặp thêm những điều bất ngờ thắt ruột. Các cánh cửa phía trước căn nhà bằng gỗ mun hiếm quí, chạm trổ tinh vi cũng bị tháo tung khỏi bản lề và bể ra thành từng mảnh.

Bên trong thì giống như đã bị cả ngàn vó ngựa của những kỵ sĩ giận dữ tràn qua, để lại những dấu vết tàn phá. Chúng tôi sững sờ bước qua hành lang, chân dẫm lên những mảnh vụn vỡ của những cây giá đèn và bình hoa. Căn nhà hoàn toàn vắng lặng, ngoại trừ tiếng chân lạo xạo của chúng tôi gây vang vọng từ phòng này qua phòng khác, hầu như chẳng có ai bên trong.

Tuy nhiên chẳng phải chỉ có một mình chúng tôi ở đây. Người làm bếp và hai chị giúp việc đã không chịu rời bỏ căn nhà này. Khi những tên hôi của ùa vào thì họ lẩn trốn trong khu nhà bếp, ngang với dãy nhà chính và cứ ẩn núp ở đó cho đến bây giờ. Nghe tiếng chúng tôi, họ chạy ùa ra và la hét lên vì vui mừng. Người nấu bếp là một bà già trạc tuổi bà ngoại tôi. Bà ta đã làm việc cho gia đình tôi trên cả chục năm nay. Chúng tôi độ chừng bà chẳng còn họ hàng con cháu gì vì chẳng bao giờ bà ta hé răng nói về gia đình của mình. Điều này có vẻ đúng vì chẳng bao giờ bà ta đi ra khỏi nhà, cũng không có ai tìm tới thăm. Bà ngoại tôi kể rằng có một hôm, bà ta lủi thủi xách cái va li nhỏ tìm tới nhà tôi để xin việc. Hồi đó ông ngoại tôi vẫn còn tại ngũ và bà ngoại thì đang cần một người làm công việc bếp núc. Bà ta thuộc loại ít nói, làm nhiều và nấu ăn rất ngon. Mẹ tôi bảo chúng tôi gọi bà chữ Ớ hay bà Ớ bởi vì bà hay có tật ngủ gục ngay bên bếp lò, miệng thì há hốc ra, ú ớ như là một chữ Ớ.

Hai người tớ gái đứng cạnh bà bếp xuất thân từ một gia đình đông đúc ở cách nhà tôi chừng vài khu phố. Cả hai trạc ngoài bốn mươi, chưa hề lập gia đình. Thay vì trở về nhà mỗi tối, họ ở lại ngay nhà tôi. Mẹ tôi thu xếp cho họ một phòng riêng biệt, sự hiếm hoi khó có ở các nhà khác. Từ lúc gặp lại chúng tôi, họ tíu tít, xoắn lấy chúng tôi. Họ luôn miệng bày tỏ với ông bà chúng tôi nỗi vui mừng vì cả nhà trở về nhà an toàn.

Bà Ớ bổ một trái dừa lấy nước rưới lên nồi cơm đang cạn nước trong khi tôi ngồi xuống sàn bếp lắng nghe hai chị người làm luôn miệng trò chuyện. Họ thuật cho cả nhà nghe mọi biến cố trong thành phố kể từ hôm chúng tôi ra đi. Bọn tù nhân xổng khỏi nhà lao cả mấy ngày trước khi quân Cộng sản tới. Chúng ùa vào phá phách căn nhà của chúng tôi nhiều lần. Sau đó thì bọn hôi của tới tìm chỗ cất dấu của cải. Bọn khác thì lại tới chỉ để lùng xục chúng tôi. Bà Ớ và hai chị người làm đã không còn hy vọng, chẳng còn nghĩ là chúng tôi sẽ quay về. Họ cho là chúng tôi đã di tản ra nước ngoài trước khi Sài Gòn sụp đổ rồi.

Ở Nha Trang, quân Cộng sản đã tiếp thu từ mấy tuần nay. Cuộc kiểm kê dân số đã được thực hiện, khởi sự từ những người tình nguyện khai báo. Qua các dữ kiện thu thập được, họ lập được một danh sách đầu tiên bao gồm các công chức và sĩ quan thuộc loại cao cấp trong chính quyền và quân đội cũ. Một hôm, vào nửa đêm, những người này bị xích tay và giải đi một nơi bí mật. Chẳng cần nói năng gì nhiều. Chính quyền mới chỉ thông báo cho vợ con họ hay rằng họ được gởi tới một trại cải tạo để được giác ngộ về tính ưu việt của chế độ mới.

Thành phố được phân chia thành những quận, phường khóm và tổ dân phố. Mỗi tổ dân phố có chừng mười lăm gia đình, và tổ trưởng là một người được chỉ định mà hầu hết đều xuất thân hoặc từ bên bộ đội hoặc những kẻ có thành tích nằm vùng. Nghĩa là cũng có tổ chức bầu cử theo nguyên tắc đấy nhưng chỉ là để hợp thức hóa cho những người được chỉ định trước.

Bà Ớ xới cơm có rắc nước dừa ra từng chén, đặt trên sàn bếp trước mỗi chúng tôi. Rồi lần đầu tiên bà mới cất tiếng, nói với mẹ tôi:

- Bà liệu mà ra trụ sở phường đăng ký đi, càng sớm càng tốt nếu bà không muốn có thêm rắc rối.

Mẹ tôi nhìn sững bà với một vẻ như dò hỏi:

- Rắc rối? Dì muốn nói là họ sẽ kiếm tôi à? Mà rắc rối là vì chuyện gì kia chứ?

Bà Ớ nhún vai, chỉ ngay vào hai anh em chúng tôi rồi nói:

- Thì cái lũ này này.

Rồi bà nhìn ra cửa sổ, mắt ngước lên ngụ ý cho chúng tôi thấy cái nhà cao rộng của chúng tôi thấp thoáng bóng dừa, rồi nói:

- Còn cái đó nữa kìa.

Mẹ tôi giữ im lặng, bà tiếp:

- Đem tất cả giấy tờ cá nhân đi, có mảnh nào đem đi mảnh đó. Họ muốn biết về bà nhiều chừng nào tốt chừng đó. Mà tin tôi đi, trước khi bà tới thì họ cũng biết tỏng về bà cũng như quá khứ của bà rồi.

- Ai là người chỉ huy ở vùng này? Tôi có thể tìm ông ta hay bà ta ở đâu?

- Đừng hỏi tôi. Bà nên đi tìm hiểu lấy và chuẩn bị sẵn sàng. Có vậy thôi. Họ ở cả ngoài trụ sở ủy ban đấy.

- Mà trụ sở ủy ban thì nằm ở đâu kia chứ?

Bà Ớ bỗng dằn giọng:

- Bà biết mà thưa bà chủ, nó ở ngay ngôi trường của ông Kiên nhà này đấy!

Mẹ tôi hất mặt lên, quay ngoắt về phía bà và nói:

- Thôi, xin đừng có gọi chúng tôi bằng cái tiếng bà chủ, cậu chủ nữa. Trong tháng vừa qua có biết bao nhiêu điều đã hết mất tiệt rồi. Bây giờ thì tôi cũng trơ thân xác như tất cả mọi người thôi. Nếu bà muốn tôi còn sống để nuôi con thì xin ngừng ngay cái giọng đó lại.

Nói xong bà đứng phắt ngay lên và đi ra khỏi bếp. Bà Ớ với theo:

- Ra ngoài phố mà nói với mọi người như thế đi. Lúc gặp ông phường trưởng thì cũng nói thế đi. Nếu không, ông ta cũng sẽ gọi là bà chủ đấy. Hồi nào đến giờ, bà cứ bảo mọi người phải tôn xưng bà như vậy mà.

Mẹ tôi chạy ra khỏi nhà và biến mất suốt cả ngày hôm đó. Đến đêm, ông bà tôi cứ canh chừng mãi cái đồng hồ, lòng đầy phiền muộn. Rồi quá sốt ruột, hai người đi ra tận cổng ngoài để ngóng về cả hai phía đầu và cuối phố. Còn ở trong nhà, tại phòng của mẹ tôi chị Loan cứ kể chuyện liên tục cho tôi và Jimmy nghe để qua thời giờ. Nhưng chúng tôi chỉ đòi mẹ. Sự lo sợ, bồn chồn càng lúc càng tăng, cuối cùng em Jimmy thút thít khóc. Rồi thì đến tôi hùa theo, thổn thức. Chị Loan ngồi cạnh giường ngó chúng tôi vừa khóc vừa chìm dần vào giấc ngủ.

Mãi tới tận quá trưa hôm sau mẹ tôi mới quay về, nom bà xanh rớt như tầu lá. Chẳng nói chẳng rằng, bà đi xộc vào phòng và đóng sập cửa lại. Ông bà tôi chạy với theo, gõ mãi lên cửa phòng. Nhưng vô ích! Mặc kệ những lời nài nỉ, mẹ tôi cứ ở riệt trong đó cả ngày hôm ấy. Mãi đến tối mịt, bà ngoại tôi sai tôi bưng khay đồ ăn lên lầu cho mẹ tôi.

Tôi tiến lại phía cửa buồng, một tay bưng khay đồ ăn, một tay gõ nhẹ vài tiếng lên cánh cửa. Sau một hồi im lặng nặng nề, tôi nghe thấy tiếng của bà vọng ra:

- Kiên đấy hả?

- Con đây mẹ. Con vô được không?

Tôi nghe thấy tiếng bước chân của bà bước xuống giường và ra mở cửa. Bà đứng trước mặt tôi hai mắt thâm quầng, mái tóc bù rối, bà nhìn tôi như một kẻ xa lạ rồi cầm lấy cái khay đồ ăn. Tôi bước vào và nghe tiếng cánh cửa khép lại ở phía sau.

Căn buồng thật bề bộn cứ như thể me tôi đem mọi thứ ra làm lộn phèo tất cả lên. Ở giữa giường, trên một cái khăn tay trắng, có cả một vốc toàn là đồ nữ trang lấp lánh phản chiếu ánh sáng. Mẹ tôi đặt khay đồ ăn lên bàn trang điểm rồi túm lấy bốn góc của cái khăn lên và thắt nút lại. Sau đó bà bế tôi đặt ngồi lên cái ghế trước tấm gương đã vỡ. Rồi bà quì ngay xuống đối diện với tôi. Mắt bà đăm đăm nhìn tôi, đôi mắt tối sầm như những viên ngọc huyền. Tôi cảm thấy như có một luồng điện chạy ở phía sau gáy. Bà nói:

- Kiên ơi, mẹ có quá nhiều điều để nói với con mà chưa biết bắt đầu từ đâu. Nhưng cũng có thể nói là từ nay trở đi, mẹ không cho phép con tự coi mình là một đứa con nít nữa.

- Vâng!

- Năm nay con lên mấy rồi hả Kiên?

- Còn một ngày nữa thì con lên tám, mẹ à.

Tôi mong bà vui lòng vì câu trả lời của tôi, nhưng bà chỉ đáp lại với vẻ hờ hững:

- Ờ nhỉ. Sinh nhật của con đến nơi rồi. Nhưng này Kiên nghe mẹ nói. Con là đứa con lớn nhất của mẹ, con phải giúp mẹ. Mẹ không thể làm gì một mình được nữa, hiểu không?

- Dạ con hiểu.

- Vậy con phải lớn mạnh lên. Mẹ sắp có em bé rồi nên mẹ cần con giúp đỡ. Kể từ nay, cấm con không được khóc khi gặp điều trái ý, không được làm mẹ phiền lòng nữa. Con phải săn sóc em con, mai mốt có thêm em bé thì con cũng phải lo cho nó nữa. Mẹ cần con giúp mẹ. Con có hứa với mẹ như thế không?

- Dạ, con hứa.

- Con hứa với mẹ những gì?

- Con hứa sẽ không khóc nữa, sẽ cứng cỏi hơn, sẽ trông nom Jimmy và em bé.

Bà ôm ghì lấy tôi một lúc lâu rồi nói tiếp:

- Con ngoan lắm. Nhưng mẹ muốn thêm hai điều nữa. Không phải không muốn mà mẹ cần con hiểu. Một là con không được nói cho ai nghe bất cứ điều gì mà con đã biết. Đừng nói gì hết, ngay cả khi con bị người ta dọa dẫm. Con có nhớ những cái xác chết trên đường phố mà mình đã trông thấy không? Nếu mà con hé răng ra một điều là mẹ cũng sẽ chết như họ, cả con, cả ông bà ngoại, cả em Jimmy và em bé cũng sẽ chết như thế nữa.

Tôi nhắc lại:

- Không nói cho ai biết cái gì hết. Nói ra thì người ta giết cả nhà.

- Đúng, đúng như vậy đó. Còn điều thứ hai là con hãy giữ cho mẹ cái này.

Bà nhét túm nữ trang vào trong túi quần của tôi:

- Mẹ chỉ còn có bấy nhiêu. Không có nó thì nhà mình cũng chết. Vậy đừng khoe ra với bất cứ ai, cũng đừng đánh mất nó. Con biết không?

- Tại sao mẹ không giấu đi, hả mẹ

- Mẹ giấu đi rồi đó. Giấu trong túi quần của con. Chỉ có con và mẹ biết thôi. Được không?

- Dạ được chứ. Con sẽ phải giữ trong bao lâu, hả mẹ?

- Có thể là rất lâu. Mẹ cũng không biết là bao lâu. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, mẹ sẽ gặp con tại đây, con sẽ giơ cái gói ra cho mẹ thấy, như thế là con không bỏ quên hoặc đánh rơi đâu đó, nhớ không?

- Dạ, thưa mẹ nhớ.

- Vậy thì tốt, con ngoan. Con hãy xuống kêu ông bà lên đây cho mẹ. Nếu chị Loan có hỏi mẹ con mình nói chuyện gì với nhau thì con sẽ trả lời ra sao?

- Con sẽ chẳng nói gì hết.

Bà thở ra một hơi dài rồi bảo tôi:

- Vậy mới là con trai của mẹ chứ. Thôi đi đi. Xuống kêu ông bà cho mẹ đi.

Tôi đã chẳng phải làm việc đó vì ông bà ngoại tôi vừa nghe cửa phòng mở đã vội lên tới. Tất cả mọi người đều quây quần bên giường của mẹ tôi để nghe bà kể lại những gì đã xẩy ra tại trụ sở ủy ban Nhân dân phường, mà ở đó, bà đã tới xin đăng ký cho cả gia đình.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:13 pm    Tiêu đề:

Chương Mười

Nha Trang - 11 tháng 5

Bà Ớ đã nói đúng. Ngôi trường tư mà tôi từng theo học cho tới hai tháng trước đây nay đã trở thành trụ sở của ủy ban Nhân dân Phường. Trong thời gian này, người Cộng sản cho phép các cha và các bà sơ được tạm trú tại nhà vị Viện trưởng, nhưng nhà thờ thì bị đóng cửa và trường lớp chuyển thành trụ sở hành chính của nhà nước.

Mẹ tôi bước vào văn phòng hiệu trưởng. Qua lớp kính đục, bà chỉ nhìn thấy bóng một người đang ngồi sau bàn giấy. Gần cửa ra vào có một cái bàn khác kê sát tường, một nữ công an mặc đồng phục ngồi ở đó ngăn ngay mẹ tôi lại, không cho vào xa hơn. Phải mất một lát mẹ tôi mới nhận ra người phụ nữ này là ai. Cách đây chỉ vài tháng mụ ta còn là người phu hốt rác. Mụ cũng đã từng len lỏi vào trong bếp của bà Ớ theo lối cửa sau để thu lượm những đồ ăn thừa đem về cho lũ con của mụ. Thấy mẹ tôi, mặt mụ thoáng hiện nét căm thù với cặp lông mày nhướng lên cụp xuống trên đôi mắt nhìn mẹ tôi từ đầu xuống chân. Mẹ tôi nói:

- Tôi tới đăng ký hộ khẩu cho gia đình.

- Nhà chị ở cái xó nào chui lên mà bây giờ mới thò mặt ra. Hạn đăng ký đã hết từ ba tuần nay rồi. Chị đã chui rúc ở đâu?

- Gia đình tôi bị kẹt ở Sài Gòn. Tôi đã cố gắng trở về càng sớm càng tốt mà.

- Nói láo! Đồ phản cách mạng! Tụi tôi thừa biết chị đã ở đâu, làm cái gì rồi.

Rồi mụ công an quơ một mảnh giấy trên mặt bàn và ném vào mẹ tôi:

- Muốn gặp ông Phường trưởng thì ngồi xuống đó rồi điền vào đơn này đi. Liệu chị có làm nổi việc này mà khỏi mất công tôi phải nhắc lại không đấy?

Mẹ tôi nói khẽ:

- Tôi hiểu, xin cảm ơn.

Ngay phía trước bàn giấy của mụ ta, đối diện với bức tường là một dẫy ghế đã có tới bẩy người chờ sẵn để được gặp ông Phường trưởng hiện đang một mình trong văn phòng. Khi sự chờ đợi ròng rã này bắt đầu khiến mẹ tôi muốn bỏ cuộc thì có tiếng gọi to từ sau cánh cửa ra. Mẹ tôi chợt lạnh cả xương sống bởi vì chính cái giọng này, cái giọng mà bà nghe đã quá quen, là giọng của người làm vườn cho bà ngày trước. Hắn ta gọi to:

- Đồng chí Sáu, có phải bà Khuôn ở ngoài đó không? Bảo bà ấy vô, tôi chờ!

Bên trong phòng, người làm vườn cho mẹ tôi, tên Trần, đang ngồi ngửa trên ghế, ghếch cả hai chân lên mặt bàn. Những vệt cáu bẩn đóng thành từng tảng trên kẽ ngón chân, sù sì bên cạnh những vết chai cứng. Mười ngón chân của hắn bị nấm ăn sau nhiều năm ngâm đưới sình đã trở thành mảng cứng đơ. Cách đây không lâu, công việc của hắn là trồng cây và chăm sóc các khóm hoa ở trước cửa nhà tôi. Mặc dù làm việc rất tận tâm, nhưng chẳng ai trong gia đình tôi đã có bao giờ trò chuyện với hắn, ngoại trừ mẹ tôi một đôi lần truyền lệnh cho hắn mà thôi.

Về nhiều khía cạnh thì cái tên Trần mới mẻ này cũng vẫn là cái ông làm vườn mà mẹ tôi đã biết. Cái điều bà nhận được ra ngay nơi hắn là những chiếc răng cửa hàm trên chĩa dài, xô lệch xuống hàm dưới như răng thỏ. Tuy nhiên mẹ tôi cũng thấy ở hắn có hai điều thay đổi lớn. Trước hết là nụ cười ngông nghênh bất tận hiện lên trên khuôn mặt. Sau nữa là cái áo thun rách bươm hồi trước nay đã được thay bằng chiếc áo đồng phục mầu đen láng coóng.

Khi mẹ tôi bước vào, hắn ta nói:

- Lâu ngày không gặp hả, bà Khuôn? Cây cối của bà dạo này ra sao rồi? Hoa hoét vẫn nở đấy chứ?

- Ô! Ông Trần...

Mẹ tôi lắp bắp tìm chữ:

- Tôi không... tôi không được báo trước... Ông không thể tưởng tượng được tôi đã ngỡ ngàng như thế nào khi gặp ông ở đây. Tôi xin lỗi...

Hắn ta xua tay:

- Khỏi cần xin lỗi về sự khiếm khuyết của bà, thưa bà. Được ngồi đây để thấy cái bản mặt của bà cũng đủ thỏa mãn cho tôi rồi. Sao? Vườn của bà ra sao? Cây cảnh ra sao?

Hắn lại nhắc thêm một lần nữa cái câu đã hỏi rồi, đồng thời quan sát gương mặt mẹ tôi với một sự chăm chú đầy lộ liễu. Bà đáp:

- Tôi chẳng còn cây cối nào nữa hết. Số thì bị lấy trộm.. Số thì bị bứng lên, nhưng thế cũng hay, tôi chẳng còn cần đến chúng nữa. Duy có một điều là tôi xin ông đừng có gọi tôi là bà này bà nọ nữa. Bây giờ tôi chỉ là một phụ nữ bình thường trong khi ông đã trở thành người có chức có quyền trong thành phố. Nếu ông cứ tiếp tục đùa giỡn tôi như thế, ông chỉ làm khó cho tôi thêm mà thôi.

- Thật ra quả là tôi có nhã ý với bà. Tôi đâu có ở đây để giễu cợt với bà. Mà bà có biết vì sao tôi cứ hỏi mãi về chuyện vườn tược không?

- Tôi thực sự không rõ, thưa ông Trần. Nhưng khu vườn quả là đẹp đẽ, tôi phải lấy làm biết ơn ông về công lao nặng nhọc cũng như tay nghề của ông đã chăm sóc nó. Nó quả là một tác phẩm nghệ thuật mà nhiều người đã được chiêm ngưỡng.

- Ha! thế mà tôi lại chẳng sung sướng gì! Tôi làm nô lệ cho gia đình nhà bà và cái đám tư bản kênh kiệu biết bao nhiêu năm nay. Tôi mặc xác nó có đẹp hay xấu. Tôi chỉ ghi nhớ cái nơi đáng nguyền rủa ấy là nó đã bắt tôi phải đổ mồ hôi, sôi máu mắt vì những kẻ hợm hĩnh, khoe của như chị. Này! Tôi nói cho nhà chị hay, sở dĩ tôi nhắc đến cái vườn là vì tôi muốn cho chị biết rằng chính tôi là kẻ đã đạp đổ từng gốc cây trong khu vườn của chị đấy.

Giọng của hắn ta cứ theo đà cơn giận dữ mà to lên mãi:

- Chị có biết rằng tôi thù chị với thứ công việc ấy như thế nào không? Tôi kinh tởm những cuộc hội họp, đàn đúm ở nhà chị, cái lối sống đồi trụy cũng như cái thói hợm hĩnh của chị ngày này qua ngày khác chỉ biết uốn éo trước gương và tô vẽ móng tay.

Hắn ta khạc nhổ xuống sàn:

- Tôi tiếc là khi tôi hủy hoại nhà chị, chị đã không có ở đấy để chứng kiến. Thật là khoái gì đâu, đã quá! Còn bây giờ, chị cần cái gì đây?

Mẹ tôi đắm mình trong ghế, cố gắng trấn tĩnh. Nhưng dù đã cố gắng hết sức mà giọng vẫn còn run run:

- Tôi thật không ngờ đã vô tình xúc phạm ông tới mức độ ấy. Tôi thực tình đã nghĩ ông thích công việc đó. Chẳng bao giờ tôi có ý đối sử bất công với ai. Vậy tôi thành thực xin lỗi...

- Câm mồm. Hãy dành nước mắt cá sấu cho kẻ khác. Nói đi, chị đến đây làm gì?

- Tôi tới đây xin đăng ký cho gia đình tôi vào phường khóm.

Hắn ta đứng ngay dậy, nhặt lấy cuốn sổ và cây bút ở mặt bàn và liệng chúng vào đùi mẹ tôi:

- Tốt thôi! Hãy mang cuốn vở này vào lớp học kế bên mà ngồi suy nghĩ kỹ càng trước khi viết ra bất cứ điều gì. Một khi đã khai báo thì phải có thái độ thành khẩn. Vậy hãy thành khẩn kê khai lý lịch của mình, dài chừng nào tốt chừng đó, phải đầy đủ chi tiết không sót một điều nào trong cuộc sống của chị. Tôi muốn mọi điều mà tôi đã chứng kiến trong bao nhiêu năm ở trong căn nhà đó phải được viết ra bằng chính những ngón tay lòe loẹt của chị. Rõ chưa?

- Thưa, rõ.

Thế là mẹ tôi đã phải dành ra hơn hai tiếng đồng hồ để ghi lại lý lịch của bà trong mười trang giấy kín. Khi bà đã hài lòng về nội dung, bà đã đứng dậy, đi trở lại văn phòng tên Trần. Ở phía ngoài, lại có thêm hai người nữa mới tới cộng thêm bẩy người ngồi sẵn để chờ hắn ta. Mụ công an đã đi khỏi bàn giấy từ bao giờ. Mẹ tôi gõ cửa phòng và hắn ta ra lệnh cho mẹ tôi bước vào. Bà chìa cho hắn bản khai lý lịch. Chẳng thèm liếc qua, hắn xé toạc xấp giấy làm hai, vừa lắc đầu vừa xỉa ngón tay vào mặt mẹ tôi, hai hàm răng nghiến lại:

- Chưa tốt! Viết lại!

Mẹ tôi cãi:

- Ông chưa ngó qua mà.

Vẫn là cái lắc đầu:

- Đã bảo chưa tốt. Viết lại.

Phải tới ba lần nhì nhằng viết đi viết lại kiểu như thế, mẹ tôi mới nhận thức được cái trò chơi cố ý làm khó dễ của hắn ta. Ngồi trong lớp học, bà đã viết đi viết lại về cuộc đời của mình, hết trang này qua trang khác, nhắc đi nhắc lại hoài. Mỗi khi hết giấy, tên Trần lại ném cho bà một xấp lấy ra từ trong ngăn bàn.

Sau khi đã xé bỏ những bản kê khai của mẹ tôi lần thứ tám thì hắn nhận ra rằng mẹ tôi đã bị dồn tới chỗ hết còn chỗ để cho ai trấn áp nữa, hắn mới cất lời:

- Chị không chịu học tập, phải không?

Mẹ tôi nhỏ nhẹ:

- Tôi không hiểu thực sự ông muốn tôi làm gì. Tôi đã ở đây suốt cả ngày để viết, không ăn uống gì, mà tôi thì lại đang có bầu. Lũ nhỏ đang chờ tôi ở nhà. Nếu ông không hài lòng về những gì ông đã đọc thì hãy để cho tôi về trông nom lũ con tôi. Như thế, tôi sẽ đi cho khuất mắt ông.

- Bộ chị cũng không hài lòng hả? Hay là chị muốn tôi dành cho chị và cả nhà chị một chỗ trong trại cải tạo, ở đó chắc chị sẵn sàng học tập hơn.

-Tôi khẩn khoản xin ông tha lỗi cho. Tôi chỉ có một điều mong mỏi là được đăng ký cư trú ở thành phố này. Chỉ có thế thôi, để cho gia đình tôi được coi là hợp pháp. Còn đối với quá khứ, tôi chẳng có thể làm thế nào để thay đổi được nữa. Nếu ông nghĩ là tôi đã có tội, thì cũng chẳng tại vì tôi chống phá các ông. Dưới chế độ cũ, tôi chẳng có địa vị mà cũng chẳng bao giờ chiến đấu chống người Cộng sản trong bất cứ trận chiến nào. Vậy tôi đâu có là kẻ thù của các ông.

Nhìn về phía mẹ tôi bằng cái nhìn như thể mẹ tôi chỉ là thứ giun dế, hắn ra lệnh bằng một giọng gầm gừ:

- Ngồi xuống. Nói cho chị biết, chị là đồ tư bản, vì thế chị là kẻ thù của chúng tôi.

Mẹ tôi cãi lại:

- Tôi đã từng là tư bản. Nhưng nay thì tôi tôi cũng đã mất hết cả rồi. Tôi trở thành kẻ nghèo rớt mùng tơi, một xu không dính túi như tất cả mọi người khác. Mà tôi cũng chẳng ngại bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

- Nói vậy chứ, thế còn cái biệt thự họ Nguyễn thì chị để đâu?

Mẹ tôi im lặng không trả lời hắn. Hắn ta ngồi ngửa mình trên ghế da mỉm cười:

- Nào, bây giờ chị còn nỏ mồm khoe là mình nghèo rớt mùng tơi, một xu không dính túi nữa không?

Mẹ tôi rền rĩ:

- Ông muốn tôi làm gì bây giờ?

- Tôi muốn chị nhận ra rằng khi nào chị còn giữ tài sản thì chị còn là kẻ thù của nhân dân. Chị phải nhớ cách mạng sẽ xây dựng đất nước trong đó mọi người đều được chung hưởng mọi thứ.

Hắn ghé sát vào mặt mẹ tôi, gần đến nỗi bà có thể ngửi thấy cả mùi ợ chua từ hơi thở của hắn, rồi nói tiếp:

- Chị đang đứng án ngữ trên con đường đi đến tương lai của đất nước này. Chúng tôi phải đánh đổ những con người như chị để tiến lên.

Mẹ tôi hỏi ngay:

- Ông muốn tịch thu căn nhà của tôi, phải không?

- Chị đâu phải có mỗi một căn nhà. Mà nếu chị nghĩ rằng chúng tôi cho chị nộp có mỗi căn nhà ấy trong đống tài sản của chị để chị chuộc lại tội lỗi thì quả là chị lầm lẫn đấy.

Cái tên Trần này nói không sai. Căn biệt thự chẳng phải là cái nhà duy nhất do mẹ tôi làm chủ. Nhiều năm trước đây, trước khi mẹ tôi cất căn nhà cho riêng bà, mẹ tôi và ông bà ngoại đã sống trong một căn nhà nhỏ xây trên đất của bác tôi. Nhà ấy có ba buồng, mặt tiền nhìn ra đường, có phòng khách rộng chừng ba chục mét vuông. Phía sau còn có một phòng rộng y như thế dành cho ông bà tôi làm phòng ngủ. Một cái kho nhỏ nữa phía sau được cải biến thành phòng ngủ của mẹ tôi. Khi cả nhà rời về biệt thự họ Nguyễn, Ông bà tôi hầu như mang theo tất cả đồ đạc nên chỗ cũ trở thành trống trơn. Cùng trên một lô đất với căn nhà cũ ấy là nhà của bác gái, chị ruột mẹ tôi, sống với ông chồng và bầy con mười bốn đứa. Cả hai căn xài chung một buồng tắm, nhà bếp và giếng nước. Trên giấy tờ, mẹ tôi làm chủ căn nhà đó. Căn kế bên do chồng của bác tôi đứng tên. Toàn bộ căn nhà này chỉ cách căn nhà cũ của tôi chừng năm cây số, được bao bọc bởi những cánh đồng lúa thôn quê. Và cái ý tưởng phải quay trở về quê sống chung với lũ gia cầm và họ hàng bên ngoại có vẻ như là cú đánh chí tử đối với bà. Tuy cảm thấy bất lực, nhưng bà cũng cãi lại tên Trần:

- Căn đó tôi xây lên là để cho cha mẹ tôi. Tôi chỉ đứng tên mà thôi.

- Nhà của chị hay của cha mẹ chị thì cũng là của chung mà thôi, khác nhau chỗ nào? Chúng tôi cần căn lớn để làm trụ sở thường trực.

- Thay vì lấy căn lớn, sao ông không lấy căn nhỏ?

Tên Trần đứng ngay dậy, đá cái ghế phía đằng sau:

- À! Coi đây, cái đồ ngụy quân ngụy quyền kiêu ngạo phản trắc cặn bã! Tôi đã cố tình tạo sự dễ dàng cho chị mà chị lại làm khó tôi. Chị không muốn bỏ căn nhà đó hả? Được! Để coi chị sống sót được bao lâu trong tù, xa con cái? Đồng chí Sáu, vào đây tôi nhờ tí!

Mụ công an xuất hiện ngay ngoài cửa, hai tay bên hông mặt nghiêm trọng:

- Có mặt, thưa đồng chí Trần.

- Đem tên phản cách mạng này vô trung tâm cải tạo, giam tại đó chờ đến phiên mụ ta ra tòa án nhân dân. Tôi phủi tay với nó rồi. Để cho các thẩm phán xét xử tội ác của nó theo đúng thủ tục thông thường đối với tội phạm. Chào! Chúc vui vẻ, ngủ ngon trong nhà tù!

Mẹ tôi chắp cả hai tay lại cầu khẩn:

- Tôi nói mà không có ý đó. Xin đừng bỏ tôi vô tù, thưa ông Trần. Việc ấy có thể bàn lại

Mụ công an chụp lấy cánh tay của mẹ tôi và xoay bà đi một vòng. Tên Trần bước ra khỏi bàn để nhìn đối diện vào mặt mẹ tôi. Vừa khua tay hắn vừa rít:

- Không còn bàn bạc gì nữa. Đã đến lúc phải đánh đổ tư bản, Khuôn, cả nước đang tiến lên phía trước.

Miệng nhếch một nụ cười, chân bước ra cửa, hắn ta bỏ mặc mẹ tôi và mụ công an ở phía sau. Khi ra tới ngoài, hắn nói lớn với mọi người trong phòng đợi

- Năm giờ rồi, văn phòng phải đóng cửa. Về hết đi, mai quay lại.

Mụ công an không có đến cả cái còng. Thay vào đó, mụ ta dùng dây thừng để trói mẹ tôi lại. Rồi mụ lôi mẹ tôi dọc theo con phố, bất kể mọi sự huyên náo ồn ào chỉ trỏ hai bên đường. Tại trung tâm cải huấn, sau khi xô mẹ tôi vào một phòng giam, mụ bàn giao cho một người trực. Nằm cô đơn trên sàn xi măng lạnh lẽo trong bóng tối, mẹ tôi lo lắng cho cuộc sống của bà và của chúng tôi ở nhà.

Sáng ra, mặc dù bà hoàn toàn bị qụy liệt, nhưng cái thai vẫn còn chuyển động trong bụng. Tên Trần quay trở lại gặp mẹ tôi vào buổi sáng. Vẫn nụ cười hôm qua như khắc trên mặt, hắn nhìn mẹ tôi qua chấn song cửa buồng giam và nhún vai trước nỗi đau khổ của bà. Mẹ tôi nài nỉ:

- Thả tôi ra. Ông cứ lấy căn nhà đó đi. Giấy tờ đâu, đưa tôi ký.

- Hơ! Tôi chẳng biết là còn muốn tịch thu căn nhà đó của chị nữa hay không?

Sự châm biếm của hắn ta cứa vào mẹ tôi như một nhát dao:

- Xin cho tôi ra. Tôi còn bổn phận với cha mẹ già và hai đứa con nhỏ. Họ chẳng làm điều gì sai trái chống ông hoặc chống nhà nước cả. Ông Trần ơi, xin hãy nghĩ đến họ, nghĩ tới đứa con còn trong bụng của tôi mà tha cho chúng tôi. Nếu tôi chết, cả nhà tôi sẽ chết theo cùng với tôi.

Tên Trần thọc tay vào túi, móc ra chùm chìa khóa. Trong lúc mở cánh cửa phòng giam, hắn ta rỉ tai vào mẹ tôi:

- Chị quyết định sáng suốt đó, chị Khuôn. Chị đã biết hy sinh có mỗi căn nhà để đổi lấy đời sống. Chị đi về đi, rồi cút khỏi cái thành phố này và lẩn mặt tôi luôn. Dắt díu cả nhà đi đâu thì đi mà làm lại cuộc đời, tới cái nơi mà ở nơi đó chẳng biết chị là ai mà căm thù chị như ở đây. Đi ngay ngày mai kẻo mà lại lãnh búa. Chị có hai mươi bốn giờ để chuẩn bị. Rõ chưa?

Rồi hắn quay về những người công an nói giọng uy quyền:

- Nghe đây, các đồng chí, tôi thả chị này vì chị ta đã tỏ ra hối cải về những tội ác của mình bằng cách hiến cho cách mạng toàn bộ tài sản. Như thế là nêu gương tốt cho mọi người và chứng tỏ cách mạng luôn khoan hồng và sáng suốt. Chúng ta đã cải tạo chị này từ một tên tư bản khát máu trở thành một một công dân lao động sản xuất, một con người không ích kỷ. Mong rằng chị ta tiếp tục phấn đấu để trở thành một công dân tốt hơn nữa của tổ quốc. Chúc mừng cho chị, chị Khuôn!

Mẹ tôi vùng lên chạy khỏi cái nơi ấy, nhanh chừng nào, tốt chừng ấy, và bà đã chạy không ngừng nghỉ cho tới khi về được đến nhà.

Ngày hôm sau là sinh nhật của tôi, nhưng cũng chỉ được coi là một ngày bình thường như mọi ngày, vì chẳng có cái gì làm cho nó trở thành khác. Chúng tôi trở về Nha Trang thế là cũng đã bẩy mươi hai tiếng đồng hồ, tức là cũng đã ba ngày rồi. Mọi người hình như quá bận rộn trong việc thu vén đồ đạc nên không chú ý đến tôi. Mà cũng chỉ mới có mười ngày kể từ khi Sài Gòn sụp đổ, thế mà tôi lại cảm thấy nhanh chóng biến thành một người lớn không biết từ lúc nào. Chúng tôi được thông báo là phải ra khỏi nhà đúng vào ngày 12 tháng 5.

Ngay sau khi đồ đạc được gói ghém xong, những chiếc va li được gài lại cẩn thận và mọi người đã sẵn sàng ra đi thì chuông của trước bỗng reo lên. Ông ngoại tôi nói một cách bình thản:

- Công an tới đó ra mở cửa cho họ vào.

Tôi chạy ra, nhấc tấm bạt che thay cho cánh của lên. Đứng trước tôi, chẳng phải một toán công an gì hết ráo mà lại là một nhân vật bơ phờ, dáng dấp đầy mệt mỏi. Mái tóc đã được cạo phần da đầu phía trên đã trở nên nhẵn bóng đưới nắng với hàm râu quai nón che kín gần nửa khuôn mặt. Hắn nhìn tôi mỉm cười:

- Ê! Kiên, Còn nhớ ai đây không?

Chẳng cần nhìn, chỉ nghe cái giọng là tôi cũng biết ai rồi.

- Tớ, Lâm đây! Thằng khờ! Má đâu rồi?

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:13 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Một

Dượng Lâm đứng chắn ở ngay lối ra vào và hỏi:

- Vô được không?

Tôi lùi lại. Dượng bước vô, mặt ngơ ngáo ngó quanh quan sát cái vườn ngổn ngang phía sau lưng và những mảnh vỡ rơi vương vãi trong phòng khách. Mặt dượng nghệch ra như không thể tin nổi, thảng thốt hỏi:

- Ôi trời! Xẩy ra chuyện gì thế này?

Hỏi thì hỏi vậy, dượng cũng thừa biết chuyện gì đã xẩy ra, nên tự trả lời:

- Lại chúng nó tới quậy phá phải không... mẹ của...

Dượng ngưng ngang vì bây giờ thì ông ta đã trông thấy mẹ tôi đang trừng mắt nhìn từ phía bên kia căn phòng. Khuôn mặt lem luốc của dượng đỏ ửng lên vì ngượng ngập, rồi dượng lắp bắp:

- Chào... chào... khỏe không...

Mẹ tôi cau mày nhìn sốc vào mặt ông ta, rồi không thèm trả lời, bà khoanh tay đứng dựa vào tường, vẻ mặt lạnh tanh trước sự bối rối của dượng. Ông ta đưa tay lên gãi gãi vào đầu, vẻ lúng túng, nói:

- Cô tưởng là sẽ không bao giờ gặp lại thằng tôi nữa phải không? Ừa! mà còn biết nói gì, tôi cũng đâu có thoát. Hẳn cô phải khoái tỉ lắm rằng tôi đã gặp hết rủi ro này đến xui xẻo khác kể từ ngày tôi bỏ rơi mấy người đấy nhỉ.

Rồi tặc lưỡi:

- Mẹ kiếp, khủng khiếp thiệt, suýt chết ngoài phi trường mấy lần đấy! Nhưng nhờ trời, chưa có sao. Đôi khi tôi cũng tự hỏi sao một thằng trời đánh như tôi mà lại may mắn thế. Hôm nay tôi quay lại là vì cho rằng biết đâu cô chẳng nghĩ tới tình xưa mà bỏ qua mọi chuyện. Với lại biết đâu sẽ chẳng có lúc cô cần tới tôi chớ.

Mẹ tôi im lặng vì chối tai. Giọng dượng Lâm xìu xuống:

- Hừ... cũng có thể là không...

Bây giờ thì mẹ tôi cất tiếng, bằng một giọng cố trấn tĩnh nhưng nét mặt thì đầy vẻ thù ghét:

- Cút ngay!

Ông ta gượng gạo bào chữa:

- Coi kìa! Tôi biết là cô đang nổi dóa, nhưng tôi không trách đâu. Xin hãy nghe tôi nói đã, chứ chưa gì mà đã phủi ra như thế. Ôi da, cả cái tháng vừa rồi tôi cứ như người đã xuống địa ngục biết bao nhiêu lần. Tôi không nghĩ rằng tôi còn có thể lãnh thêm búa bất kể từ cô hoặc ai khác. Nhưng tin tôi đi, thưa bà, tôi đã được bài học cay đắng về nhân quả, nghĩa là bất cứ điều gì sai trái mà tôi đã gây ra cho cô thì tôi đã phải trả giá, kèm luôn cả phần lời! Nào bị ăn cướp, nào bị đánh đập. Rồi đến cái lũ Cách mạng ba mươi của bọn Cộng sản lạc hậu kia lại còn nhốt tôi vào tù hai tuần liền vì chỉ mỗi cái tội ngủ ngoài công viên nữa chứ! Chắc ngoài tụi nó ra thì chẳng còn ai quan tâm đến sự sống chết của tôi. Để thoát khỏi cái cảnh ấy, có bao nhiêu tiền tôi đã phải móc hết ra rồi, bán luôn cả thẻ căn cước cũng như cái giấy thông hành. Đã ba bốn ngày nay tôi chẳng có hột gì vào bụng, chao ôi là mệt! Thôi, hãy cho tôi ở lại đây, ít ra cũng đôi ba ngày.

Mẹ tôi vẫn giữ im lặng trong khi dượng vẫn cứ tiếp tục lải nhải:

- Mà dù cô có muốn tống khứ tôi ra thì hãy cho tôi chút gì vào bụng và tắm táp cái đã... thôi đi mà...

Bà chưa kịp trả lời thì từ bên ngoài có tiếng xe vận tải ồn ào. Như thế là tên Trần đã tới với đám công an. Qua khung cửa sổ, chúng tôi nhìn họ đậu xe bất kể chắn cả lối ra vào rồi hối hả chạy vô theo con đường dài dơ dáy xuyên qua khu vườn. Vừa thoạt thấy mẹ tôi đứng bên trong, tên Trần đã cười toe toét, vẻ sỗ sàng. Mái tóc của hắn ướt nhèm, chải tém về phía sau nom giống như một cái đuôi vịt. Vai hắn đeo lủng lẳng một cái sà cột bằng nylon mầu đen theo đúng mốt của những cán bộ thời bấy giờ. Hắn ra hiệu cho nhân viên đi theo mình vào nhà. Mẹ tôi quay về phía dượng Lâm:

- Anh muốn ở lại phải không? Vậy báo cho anh một tin chớp nhoáng: tôi không còn là người có quyền quyết định việc đó nữa. Anh phải hỏi ông ta trước.

Dượng Lâm bối rối:

- Ông nào? Ai vậy?

Mẹ tôi nhún vai:

- Nhìn đi rồi biết!

Dượng nhìn ra đám đông, vẻ bối rối:

- Chuyện gì thế này? Sao lại có công an đến nhà? Cô đã làm gì động trời vậy, Khuôn?

Mẹ tôi bước ra chào tên Trần ngay khi hắn ta đặt chân lên tới mép thềm đá:

- Chào ông. Ông tới thật đúng lúc. Chúng tôi vừa mới xếp dọn xong. Ông có còn nhớ anh Lâm này không?

Quay về phía dượng, bà tiếp:

- Còn anh Lâm, chắc anh chả cần tôi giới thiệu về ông Trần đây. Nhưng có một điều mà anh đáng được biết, đó là kể từ hôm nay, ông Trần, vị chủ tịch phường của chúng ta, sẽ là chủ ngôi nhà mới này. Vậy thì, nếu tôi là anh thì tôi sẽ thận trọng tỏ thái độ cung kính đối với ông ấy ngay bây giờ đấy.

Dượng Lâm nhướng đôi lông mày lên như muốn hỏi, nhưng lại thôi. Còn tên Trần thì phá ra cười khi nhận ra dượng. Hắn bước lại gần, chộp bàn tay phải của dượng lên, lắc lắc:

- Đừng mang cái vẻ quá ngạc nhiên như thế. Tôi có khác đi bao nhiêu đâu. Mà cứ nhìn con mắt của anh thì tôi cứ tưởng mình thay đổi nhiều lắm rồi. Nhưng mà chính anh kìa, có thay đổi đấy. Trời, suýt nữa thì tôi cũng không nhìn ra anh nữa ấy chứ. Biết nói gì đây...

Rồi hắn nhún vai đổi giọng nghiêm chỉnh:

- Kể ra mắt anh cũng tinh vi khi còn nhận ra cái tên làm vườn này. Chính tôi lúc trước vẫn từng tưới những giỏ phong lan cho anh và ngủ sau cánh cửa bếp nhà anh. Chỉ có khác một điều bây giờ tôi là người chủ mới, giống như ngạn ngữ có câu: “Sông có khúc, người có lúc”. Bây giờ đã tới cái lúc của tôi rồi!

Hít vào một hơi dài, hắn tiếp tục:

- Nào, cả hai vị. Đừng có thảm sầu quá. Anh vẫn còn ở với chị ấy đấy chứ?

Chỉ tay về phía mẹ tôi, hắn nháy mắt với dượng:

- Bây giờ chị ấy không còn là bà lớn Nguyễn chủ nhà băng, hét ra lửa, mửa ra khói nữa đúng không?

Dượng Lâm cố giữ điềm tĩnh, nhưng tên Trần không để ý tới dượng. Quay về phía mẹ tôi, hắn quài tay ra phía sau móc ở trong sà cột ra một sấp giấy:

- Tôi đã lấy đại cái bằng khoán sở hữu chủ căn nhà của chị từ sở nhà đất rồi đấy. Chị phải biết đó không phải là chuyện dễ đâu nhé. Kiếm được nó chẳng khác gì đáy bể mò kim. Nhưng tôi cũng mò ra được. Tôi cần chị ký vào, kèm theo cả dấu tay nữa, đó là điều ta làm ngay được. Mấy cái chuyện lẻ tẻ còn lại, để đó tôi lo sau. Nào, chị đứng qua bên đây để tôi chỉ cho chỗ phải ký vào.

Mẹ tôi bước qua phía bên hắn và nói:

- Tôi sẽ ký bất cứ cái gì ông muốn, nhưng còn hộ khẩu của gia đình tôi thì sao? Tôi phải có cái đó thì mới rời khỏi nơi đây được.

Hắn gật đầu:

- Chắc chắn rồi. Tôi biết nỗi lo lắng của chị. Chẳng ai được coi là hợp pháp nếu không có sự chấp thuận của tôi. Mà điều đừng lo. Tôi đã mang đủ giấy tờ đây rồi. Ta sẽ hoàn tất mọi thứ ngay trong buổi sáng hôm nay.

Rồi hắn ta rút ra một tập hồ sơ dầy, bìa mầu xanh. Ở trang đầu tiên thấy có dòng chữ đánh máy bằng kiểu chữ đậm, mầu đen: “Sổ Hộ Khẩu - Tổ số 4 - Hộ Khẩu số 125091 - Chủ Hộ Khẩu: Nguyễn Thị Khuôn”.

Hắn dò ngón tay cục mịch lên trang giấy giải thích:

- Con số 125091 là số của gia đình chị. Chúng tôi không muốn dùng chữ gia đình, nó đầy tính chất tư hữu, quá xa lìa tập thể. Cho nên chuyển thành hộ, giống như sinh vật học những tế bào riêng rẽ tập hợp thành một cơ thể vậy. Tôi khuyên chị một điều là sống chết chị cũng phải giữ lấy cái giấy này. Bây giờ thì nó chính là căn cước của chị đấy. Dù đi đâu, ở đâu chị cũng phải mang nó theo, cho đến khi các vị lãnh đạo thiết lập một hệ thống khác hoàn hảo hơn. Mặt khác, tên tuổi của mọi người trong gia đình chị đều nằm hết trong đây. Vậy mọi người phải luôn luôn ở cùng nhau. Khi tới đăng ký ở chỗ mới, chớ có điền thêm tên của ai vào mà cũng không được rút tên của ai ra. Sau sáu giờ chiều mỗi ngày là có lệnh giới nghiêm, mọi người phải ở hết trong nhà, vì sẽ có thể nhiều đêm trong một tuần lễ, nhà chị bị khám xét mà không cần báo trước. Đó là luật! Tới lúc đó, các đồng chí công an sẽ chiếu theo tờ này và đếm từng đầu người một trong hộ. Nếu họ phát hiện ra có thêm người thì cả chủ nhà lẫn người dư ra là đều bị tống vào trại tù. Hiểu rõ tất cả chưa? Được rồi, bây giờ thì tôi cần chị đọc chầm chậm cho tôi nghe cái địa chỉ nơi sắp tới của chị.

Trong khi mẹ tôi đánh vần cho tên Trần cái địa chỉ mới thì chị Loan và mọi người bước vào im lặng quan sát sự việc đang xẩy ra. Gã Trần hỏi mẹ tôi:

- Hộ của chị có bao nhiêu nhân khẩu?

- Thưa ông, có kể đứa bé trong bụng của tôi không?

Hắn nhướng mày lên:

- Đừng vớ vẩn. Bao nhiêu người trong hộ của chị, chỉ kể những người già, người lớn và con nít. Quên cái bầu đi. Khi tới lúc thì chị sẽ khai nó ở nhà hộ sanh.

Mẹ tôi trả lời:

- Vậy sáu người. Hai cụ già, hai phụ nữ và hai đứa con trai.

Dượng Lâm từ nãy vẫn đứng ở một góc như bị bỏ quên, bây giờ mới chen vào:

- Bẩy chớ! Kể cả tôi là một người đàn ông trong nhà. Đừng có quên tôi chớ!

Tên Trần ném cho dượng một cái nhìn hăm dọa, quát:

- Tôi có cái vẻ gì là đang nói chuyện với nhà anh không?

Mặt của dượng đỏ lên, nhưng dượng không trả lời. Gã Trần nói tiếp:

- Chủ của cái hộ này không nhắc nhở gì với tôi về một nhân khẩu đàn ông hết. Vậy là tôi đồ chừng anh đã tự ý nhét đại tên anh vào hộ khẩu nhà này. Đúng vậy không?

Dượng Lâm cố nở một nụ cười:

- Thưa ông, tôi đã sống ở đây từ hơn nửa thập kỷ nay. Tôi có đủ tư cách là một thành viên trong gia đình, như bất cứ ai đang hiện diện, dĩ nhiên là ngoại trừ ông.

- Anh có cưới chị ấy hả?

- Không, nhưng tôi là bố đứa nhỏ trong bụng cô ấy.

Đến lượt mặt mẹ tôi đỏ bừng lên khi gã Trần quay về phía bà:

- Nghe này, chị Khuôn. Tôi không thể lý sự gì với cái tên điếm đực này. Tôi để tùy ý chị. Vậy thì sáu hay là bẩy đây?

Mẹ tôi trả lời một cách quả quyết:

- Hộ của tôi chỉ có sáu người thôi!

Bà định nói thêm gì đó nhưng tên Trần đã ngoắc cái ngón tay sần sùi vì chai cứng ra hiệu ngưng. Lông mày của hắn nhíu lại như để suy nghĩ rồi hắn nói:

- Gượm đã! Cái tên hài hước nửa mùa này cũng có điểm xài được. Hộ này chẳng có ai là đàn ông ngoại trừ ông già của chị cũng có thể mút mùa trong trại cải tạo vì những tội ác của ông ta. Mà ngay như nhà nước có khoan hồng vì ông ta bệnh hoạn, yếu đuối thì cũng không đủ lực lượng lao động cho hộ này. Vậy nếu tôi thêm cái tên đĩ đực này vào hộ khẩu của chị thì năng xuất lao đông nhà chị sẽ tăng gấp đôi. Ý kiến hay đấy, chị nghĩ sao? Ờ, có thể nhất thời chị không đồng ý với tôi, nhưng mai mốt rồi chị sẽ phải cám ơn tôi.

Như thế coi như hắn ta đã quyết định. Chẳng để cho mẹ tôi có dịp phản đối, hắn ta quẹt xuống sổ hộ khẩu gia đình tôi thành bẩy người. Ngay sau khi mẹ tôi ký tên vào cái bằng khoán nhà đất, gã Trần giao cho bà xấp hồ sơ đăng ký. Sắp xếp những giấy tờ còn lại cho vào túi sà cột, hắn quay sang chú ý tới chị Loan. Như một nông gia đánh giá một con bê, hắn lặng ngắm chị một lúc khá lâu và khi lên tiếng, giọng hắn không mang một vẻ gì gọi là thù hận:

- Loan! Năm nay cô mười tám phải không?

Chị Loan đáp:

- Dạ phải.

- Tốt! Tốt! Đây là cuốn cẩm nang chính trị mà tôi muốn cô đọc. Trong đó nói về một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong bao gồm những người trẻ như cô. Tôi khuyên cô hãy đọc để có thể tìm hiểu thêm về chuyện đó, tới lúc nào cô quyết định gia nhập, hoặc muốn biết thêm chi tiết thì, hoặc là hỏi các cấp lãnh đạo địa phương, hay là hỏi tôi. Chúng tôi rất hoan nghênh và sẵn sàng trả lời mọi thắc mắc của cô. Thực tế là, tôi quan sát cô lớn lên ở trong gia đình này và tôi đã thấy cô đã trở thành một thiếu nữ giỏi giang. Đất nước đã thay đổi rồi, cô sẽ có cơ hội tiến xa hơn vì bây giờ là thời điểm những kẻ nghèo như chúng ta phải đứng lên để nhận lãnh trách nhiệm về vận mệnh của mình. Hứa với tôi là cô sẽ đọc hết cuốn này. Hãy giúp đỡ cho bản thân mình và cho đất nước, thay vì cứ quanh quẩn ở đây với cái mớ đang hấp hối này. Chẳng có luật lệ nào buôc. cô phải chết theo bọn tư bản mà trước kia cô đã từng phục vụ. Cái thời của bọn bóc lột cô đã qua rồi, cô hiểu chưa?

Rồi hắn rúi cuốn sách vào tay chị Loan. Lúc hắn bước qua trước mặt mẹ tôi, hắn ta huýt sáo giòn tan, cái đầu bóng nhẵn gật gù lên xuống theo nhịp điệu. Ở phòng bên, những người công an khởi sự khuân vác những đồ đạc của chúng tôi ra xe. Chừng non một tiếng sau, chúng tôi cùng yên vị trên chiếc xe tải và chiếc xe chuyển bánh. Tôi ngồi ở phía sau, mắt chăm chú nhìn qua cửa xe để ghi nhận lần chót quang cảnh cũ. Qua bức tường vỡ và giàn dây leo đã sụp đổ, căn nhà còn đó nhưng mang vẻ trống rỗng và hoang tàn dưới ánh mặt trời chói lọi. Trong tâm tưởng của tôi, những hình ảnh của kỷ niệm cũ trôi qua như trong một giấc mơ. Tôi vẫn như thấy mình đang chạy từ phòng này qua phòng khác, cười giỡn với chị Loan đang đuổi theo phía sau. Mái tóc mới gội của chị bay tung lên như mây, tỏa ra mùi thơm như mùi gió biển. Tôi cũng hồi tưởng những lại những buổi liên hoan bất tận của mẹ tôi, ở đó, mọi người khiêu vũ bên cạnh hồ bơi, dưới ánh sáng mờ ảo đượm nhiều mùi hương lan tỏa trong không khí. Hình bóng của mẹ tôi như còn đó, ngồi trước bàn trang điểm thoa phấn lên bàn tay, suối tóc xỏa xuống hai bờ vai.

Trong lúc những tư tưởng ấy làm tôi sao lãng, thì ở ngay bên cạnh tôi trong xe, mẹ tôi hai tay ôm lấy bụng, theo đuổi những ý nghĩ riêng của bà. Liệu cảm xúc của bà có giống như của tôi hay không? Phía bên kia là em Jimmy, nom nó có vẻ như chẳng biết gì về những chuyện đang xẩy ra. Nó cười với tất cả mọi người, phô ra hai cái răng cửa sún và nhìn ra đường phố với sự say mê, vô tư lự.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:14 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Hai

Sau nửa tiếng đồng hồ gập ghềnh trên con đường mấp mô, chiếc xe vận tải ngừng lại. Đây là lần đầu tiên Jimmy và tôi trông thấy nơi cư trú mới của chúng tôi.

Nhà của bác tôi nhìn ra một con phố đầy bụi bậm phía bên kia một khu vườn rộng, được xây cất từ hai mươi năm trước, có mái đỏ và những cây cột mầu trắng, kiến trúc theo kiểu Âu Á một cách kỳ cục. Các cửa sổ đều có cánh cửa mầu xanh mở ra phía ngoài, nhưng lớp sơn quá cũ nên bị rạn nứt lung tung để lộ ra cả phần gỗ mục bên trong. Nhà chỉ có một tầng trệt, nhưng cao, gồm sáu phòng nhỏ, tường quét vôi trắng mốc meo nhiều chỗ.

Khởi sự, căn nhà được tính xây cho một gia đình ít người, nhưng rồi nhân số trong gia đình bác tôi cứ gia tăng mãi, thành ra phải chen chúc nhau. Đã có lần bác dượng tôi phải nhờ mẹ tôi trợ giúp để cất thêm một căn trệt nữa phía sau căn nhà chính. Cũng vì thấy bác tôi nghèo quá, mẹ tôi không đan tâm nên bà phải giúp thêm tiền.

Căn nhà gỗ mới cất sau này nằm ở giữa nhà bếp và buồng tắm, cũng thêm được ba buồng nữa. Hai người con gái lớn, Ánh Nguyệt và Tuyết, thì ở trong căn buồng sát với nhà bếp. Còn hai buồng kia thì dành cho lũ con trai gồm ba người lần lượt tên là Lễ, Thận và Nghĩa.

Nơi cư trú mới của gia đình tôi ở phía tay trái căn nhà của bác tôi.... Thoạt trông nó có vẻ hoang sơ và quá nhỏ hẹp. Nếu đem nhét toàn bộ khu này vào trong cái garage nơi nhà cũ của mẹ tôi, thì vẫn còn dư chỗ cho một cái xe nữa. Căn nhà này cũng quét vôi mầu trắng, nhưng nước vôi có vẻ mới hơn. Mới nhìn, nó trông giống như một cái hộp diêm khổng lồ hình chữ nhật, mái lợp tôn múi, không có cột. Phía sau nhà, bên kia giếng nước là căn bếp của bác tôi.

Bác tôi, bác dượng tôi và tất cả con cái trong nhà đều chạy ùa ra đón chúng tôi ở ngoài cổng. Ai nấy đều tươi cười chào hỏi và xăng xái giúp ông bà ngoại tôi khuân đồ đạc vào trong nhà. Chẳng có mấy món đồ tránh khỏi hư hại từ biệt thự họ Nguyễn, nhưng ông bà ngoại và mẹ tôi thì cứ gom được chừng nào hay chừng ấy. Trong những thứ vớt vát lại được, vật cực kỳ có giá trị là cái hương án để thờ ông cậu của tôi, làm bằng gỗ mun, chạm trổ tinh vi và cân nặng dễ có tới trên một trăm ký lô.

Hồi sinh thời, ông cậu trẻ tuổi của tôi là của quí của cả nhà vì cậu là người con trai duy nhất trong số mười bốn người con còn sống sót qua được cái tuổi mười tám. Đến đúng mười chín tuổi thì cậu gia nhập hải quân. Năm hai mươi mốt thì cậu chết đuối trong khi đang bơi vào một buổi sáng kia tại căn cứ. Cái tin cậu mất làm ông tôi muốn quỵ. Ấy thế mà trùng hợp thay, tôi lại được sinh ra trong thành phố vào đúng ngày hôm đó. Bị giằng xé giữa hung tin và hỉ tín, ông tôi coi ngày sinh của tôi như một cái điềm và ông tin là linh hồn của cậu tôi đã vào đầu thai thành ra tôi. Cũng vì thế mà tôi trở thành đứa cháu cưng của ông.

Hương án được kê trang trọng nhất nơi căn phòng sinh hoạt gia đình mà bây giờ trở thành phòng của ông bà tôi, với cái giường ngủ được kê sát cửa sổ, cách chừng một mét là cái máy khâu. Buồng bên cạnh có ba giường ngủ dành cho ba người là chị Loan, Jimmy và tôi, ngay cạnh giường của tôi có một cái tủ đứng kê sát tường, lúc nào cũng khóa im ỉm. Mẹ tôi giữ chìa khóa cái tủ ấy. Trong buồng cũng còn có một cái hộc có nhiều ngăn kéo đựng quần áo. Căn buồng cuối cùng thì ở phía sau nhà, rộng chừng hơn tám mét vuông vừa đủ kê cái giường của mẹ tôi và dượng Lâm và một cái bàn phấn nhỏ.

Trong khi chúng tôi kê dọn thì bác gái tôi ngồi trên một cái thùng các-tông phì phèo điếu thuốc cuộn bằng tay. Bác vừa đu đưa hai ống chân trong chiếc quần vải nylon mầu đen vừa ngó mẹ tôi soạn giường ngủ cho em Jimmy ở phía bên kia. Mấy đứa con của bác ngồi sát cạnh bên mẹ. Mặt chúng nhem nhuốc, mắt thao láo nhìn chúng tôi.

Vừa hắng giọng, bác vừa cất tiếng hỏi mẹ tôi:

- Đấy có phải là toàn bộ các thứ mà họ cho cô mang đi đó không? Còn lại bao nhiêu thì mất hết hả?

Mẹ tôi gật đầu trong khi bác tôi nhìn bà hậm hực. Bác nhắc lại:

- Mất tất cả ư?

Mẹ tôi lại gật đầu. Bác tôi tiếp:

- Không thể tin nổi nhưng mà thật quá tệ... Giá cô nhờ tôi giữ cho vài thứ trước khi chạy vãi đái ra quần thì có hơn không? Nhưng bởi vì cô không làm như thế, chắc cô cũng không màng tới việc tôi lấy một vài món đồ khi cô đang còn ở Sài Gòn. Này nhé, tôi mà không lấy cũng có đứa khác nó hốt, vậy tại sao không thể là tôi, chị ruột cô, đúng không? Chẳng biết là cô nghĩ gì nhưng chắc chắn không có chuyện tôi trả lại cô rồi đó!

Mẹ tôi hỏi:

- Chị lấy được những món gì?

Bác tôi nhún vai:

- Chỉ bậy bạ vài thứ thôi. Phần lớn là cho lũ nhỏ. Tôi cũng chả nhớ đích xác là những món gì. Mà tại sao cô lại thắc mắc kia chứ?

- Chị có tìm thấy món nữ trang nào của tôi không?

Bác tôi cáu kỉnh:

- Dĩ nhiên là không rồi. Tôi còn chả biết cô dấu diếm những thứ gì trong nhà. Mà này, cô chớ vu cáo cho tôi cái tội lấy cắp những món nữ trang quí giá của cô mà không xong với tôi bây giờ đâu.

- Tôi đâu có buộc tội chị. Tôi chỉ lịch sự hỏi thôi.

- Tôi chả cần lịch sự. Tôi cũng chả khuân tài sản của cô về nhà tôi. Có chăng là bây giờ tôi mang thêm cái xui xẻo vì phải sống ngay ở kế bên nhà cô nữa kìa.

Mẹ tôi chẳng nói năng gì thêm nữa. Một sự im lặng nặng nề bao trùm cho đến khi bác tôi lại cất tiếng:

- Điều quan trong hơn cả là bây giờ cô tính sẽ làm cái gì đây?

- Tôi cũng chả biết nữa. Cứ bắt đầu bằng tay trắng thôi.

- Tôi e rằng cô cũng phải tính cái gì cho phù hợp chứ, cô em, cô đâu còn trẻ ở tuổi đôi mươi nữa, đã thế, tôi chẳng muốn làm buồn lòng cô, nhưng bây giờ lũ con pha giống của cô chắc chắn sẽ gây phiền cho cô đấy.

Mẹ tôi ngưng ngay cái việc làm giường cho em Jimmy và quay phắt về phía bác, hạ thấp giọng

- Xin chị giữ gìn lời nói khi đề cập đến lũ nhỏ nhà tôi. Hãy để tôi lo, đó không phải mối quan tâm của chị. Và cũng xin chị đừng bao giờ còn xài cái thứ ngôn ngữ ấy trước mặt con tôi.

Bác tôi lì lợm:

- Tại sao không? Nếu cô không tập cho chúng nó đối diện với thực tế thì rồi cũng có lắm đứa sẽ vạch ra cho chúng nó thấy. Tới khi đó ấy à, úi dà, ở đó mà đòi họ nói năng ngọt ngào.

Chợt Jimmy lên tiếng hỏi:

- Pha giống là cái gì hở mẹ?

Mẹ tôi chưa kịp trả lời thì một đứa anh họ của tôi trạc mười bẩy tuổi, mặt đầy mụn, đỏ rừ và đòng đòng mồ hôi vì nóng, đã nhanh nhẩu đáp:

- Thằng pha giống là một thằng con lang chạ, mẹ nó sinh ra sau khi ngủ với một người ngoại quốc như mày đó.

Hắn vừa nói vừa dí sát mặt vào thằng em tôi như thách đố. Mắt hắn lé, hai cái tròng đen long lên sòng sọc một cách giận dữ ở hai bên sống mũi.

Mẹ tôi quát:

- Đủ rồi! Sao chị ngồi đực ra đấy để cho thằng con chị nói với tụi này bằng cái giọng đó!

Bác tôi lại nhún vai một lần nữa. Đôi mắt của bác lại hấp him qua làn khói thuốc:

- Thì tôi dạy con cái tôi tự do phát biểu ý kiến. Chúng nó đâu có ngu phải không?

Rồi bác cau mày:

- Nhìn coi, ai mới là kẻ phải đáng kêu ca. Ngay cả cô, dì ruột của chúng nó, cô cũng quen thói đối xử với chúng nó như một lũ bẩn thỉu. Thành thực mà nói, tôi chả ưa gì cái giọng của cô. Cô chẳng còn có thể lên giọng với tụi này như là cô đang còn giầu có. Đổi đời rồi mà!

Mẹ tôi cắm cúi xắp xếp cái giường mà chẳng thể thốt thêm một lời. Bác tôi lại tiếp:

- Có thể cô đã quen cái thói hầm hè với tôi, nhưng tôi chẳng thể làm thế với cô. Bề gì cô cũng là người em độc nhất của tôi. Vì thế, tôi hoan nghênh cô tới đây ở. Dẫu vậy, tôi thực tình muốn nói thẳng với cô một điều. Có thể cô nghĩ rằng muốn sống thế nào thì sống, theo ý của mình. Nhưng thật sự là khi đã sống bên cạnh nhau thì chẳng có dễ dàng như thế đâu. Mọi chuyện mà cô sẽ làm thì đều liên hệ đến chúng tôi. À, còn thêm một điều nữa, là tôi yêu cầu cô phải hủy bỏ bất cứ cái gì của cô còn dính dáng tới quá khứ, bởi vì cô chẳng biết được rồi đây chuyện gì sẽ tới với cô! Dĩ nhiên là những gì giống như hai cái ti vi tổ chảng này đây...

Bác chỉ tay về phía hai anh em chúng tôi rồi tiếp:

- Cô không thể đem chúng nó dấu đi đâu được. Nhưng còn hình ảnh này, những địa chỉ liên lạc, còn giữ là còn nguy hiểm đấy. Công an có thể ập vào ngay trong đêm tối, lục soát tất tần tật khắp cả khu. Nghĩ kỹ đi! Thôi, tôi để cho cô thu dọn. Nào, mình về đi, tụi bay.

Bác đứng dậy, búng điếu thuốc lá còn cháy dở qua cửa sổ rồi khạc theo một bãi đờm. Lũ con của bác nối đuôi theo sau bác trên đường về. Chị Loan xin phép ra tiệm mua đồ. Ông bà ngoại tôi nghỉ ngơi ở trong buồng. Mẹ tôi thì kiệt quệ nằm sượt trên giường của em Jimmy.

Ngay lúc đó, dượng Lâm bước vào, với vẻ mát mẻ của người vừa mới tắm rửa thoải mái xong. Râu ria của dượng cạo nhẵn, da dẻ sạch sẽ. Tên vai còn khoác cái khăn tắm, dượng ném mớ quần áo dơ vào một góc, rồi lồm cồm bò lại gần chỗ mẹ tôi cười cầu tài. Mẹ tôi nhỏm phắt ngay dậy và nhìn dượng trừng trừng. Dượng nài nỉ:

- Tha lỗi cho anh đi. Anh xin em đấy.

Dượng giơ tay lên sờ vào chân mẹ tôi và ép môi lên làn da của bà. Nhanh như một con mèo hoang, mẹ tôi nhảy dựng lên và đạp ngay vào giữa mặt của dượng. Dượng ngã bật ngửa, phải chống người lên hai cùi chỏ, rồi từ từ đứng dậy vừa sửa lại cái khăn tắm xô lệch trên vai trong lúc mẹ tôi ngồi lại trên giường em Jimmy. Hai bàn tay nắm chặt lại, miệng khạc xuống sàn mấy tia máu, dượng nói:

- Đồ ngựa hoang! Không vì đứa con trong bụng thì tao đã đánh cho bỏ mẹ.

Mẹ tôi đứng ngay dậy, ưỡn bụng, kéo áo để chường cái bầu ra rồi rít lên:

- Muốn đánh hả? Có giỏi thì đánh đi! Đánh ngay vào đây này. Giúp tôi dứt bỏ được cái của nợ này của anh.

Dượng xỉa tay về phía bà:

- Tao cóc cần mày. Nhưng tên tao đã có trong sổ đăng ký, tao sẽ cứ ở đây bất kể mày có muốn hay không muốn. Nhưng nói cho mày hay, khôn hồn thì tập sống chung với tao, cái thứ đàn bà thối tha.

Dượng đá cái ghế chắn lối đi rồi bước ra.

Đêm hôm đó, sau khi mẹ tôi khóa chặt cửa buồng lại, dượng trèo vào giường của chị Loan. Từ trong bóng tối chỗ tôi nằm, tôi có thể nghe thấy sự lặng lẽ chống cự của chị như muốn đẩy dượng ra. Sau một hồi thở dốc, họ trao đổi lời nói với nhau. Tôi nghe thấy giọng dượng to lên, giận dữ:

- Cô làm cái gì? Tôi không thể tin được. Lại cái con gà mái mệ ấy nó xúi dục phải không?

Chỉ có sự im lặng, dượng tiếp tục nói nhưng lần này giọng nói có vẻ dịu đi và đầy vẻ hối tiếc:

- Sao mà em lại có thể vứt bỏ đứa con trong bụng ấy của anh được

Chị Loan thì thầm:

- Buông tôi ra. Đây đâu có phải là quyết định của bà chủ. Có thể bà ấy gợi ý, nhưng chọn lựa là do tôi. Tôi làm thế vì chính tôi. Chỉ có như thế thì tôi mới dứt được anh ra mà thôi.

Tiếng một cái tát vang lên trong bóng tối. Ngay sau đó tôi nghe thấy tiếng chị Loan nhẩy ra khỏi giường và giọng của chị xoáy vào trong bóng đêm:

- Nếu còn đánh tôi nữa, tôi sẽ đi báo cáo cho nhà nước biết. Còn dám theo vào giường tôi một lần nữa, thề có trời, tôi sẽ cắt tiết anh bằng cách nào để cho anh đau đớn nhất.

Tiếng bước chân của chị tiến về phía giường của tôi. Tôi cảm thấy khoảng mùng phía trên tôi được gạt ra và ngay sau đó là thân thể ấm áp của chị sà xuống bên tôi. Vừa run rẩy ôm ghì lấy tôi, chị vừa thút thít khóc. Còn dượng Lâm thì quay về phía giường của chị, nằm ườn cho tới sáng.

Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, thì chị Loan đã đi ra chợ một mình rồi. Chị đi miết đến độ cũng chẳng về ăn cơm chiều. Còn mẹ tôi và dượng Lâm thì cố tránh mặt nhau như tránh bệnh dịch. Nằm trên giường của chị Loan gần suốt cả ngày, dượng cuộn tròn trong tấm khăn trải giường đọc truyện kiếm hiệp. Mẹ tôi thì rút vào buồng, ngồi sắp xếp lại những lọ sơn móng tay của bà.

Jimmy và tôi thì thám hiểm ở bên ngoài và ngó lũ anh họ của tôi đang vầy trong đất cát. Mới đầu bọn con trai ấy giả bộ lờ chúng tôi đi, nhưng trong chốc lát chúng chạy lại sờ soạng chúng tôi, soi mói như là chúng đang quan sát một cặp đồ chơi treo trên cây giáng sinh.

Tôi biết được rằng người con trai lớn của bác tôi tên là Lễ, cỡ tuổi dượng Lâm. Anh ta đẹp trai và còn độc thân. Thú tiêu khiển của anh ta là ngồi chơi đàn guitare ở ngưỡng cửa trước nhà. Mấy cô gái trong xóm hay qua nhà chơi để nghe những bản nhạc tình của anh ta. Trong khi anh phập phừng với cây đàn, một vài cô trong đám còn hát theo. Mẹ anh thường ngồi ở gần đó ngó lại và biểu lộ ánh mắt hãnh diện.

Người con trai thứ nhì tên Thuận, là niềm vui và tự hào của bác tôi, vì anh ta đã tốt nghiệp chuyên viên ngành điện trường cao đẳng. Anh sống với cô vợ mới cưới tên Lan ở căn nhà gỗ phía xa nhất, cạnh nhà tắm. Mỗi lần tôi bước ngang qua buồng của anh, tôi đều thấy anh dí đôi mắt đeo kính thật dầy vào mấy dụng cụ trang bị về âm thanh to kềnh. Hiếm có khi nào thấy anh tỏ ra thích thú với cái gì khác hơn là lụi hụi làm việc trên bàn giấy. Sau ngày cưới, và cũng do ý kiến của bác tôi, chị Lan đã nghỉ dạy học để trở thành một cô vợ biết phục tùng.

Người con trai thứ ba, anh Nghĩa, là hình ảnh của ông bác tôi, y hệt như bố, anh ta dễ nóng nẩy và bề ngoài không có cái vẻ không thoải mái. Ngay cả má của anh cũng phải sợ anh. Sau hai năm nhì nhằng ở trường cao đẳng, anh bỏ học ở cái tuổi hai mươi bốn, chẳng có nghề ngỗng gì, cũng chẳng có tình yêu đành quay về nhà ăn bám. Nghĩa ở chung với người anh mình trong căn nhà thứ nhì.

Hai cô con gái kế tiếp tên là Ánh Nguyệt và Tuyết, cũng đeo đẳng đại học cho tới khi Sài Gòn sụp đổ vào mùa hè. Họ chui rúc trong một căn phòng mà trước đây là một phần phụ thuộc vào nhà bếp. Mặc dù hai cô chỉ mới chỉ ngoài hai mươi, nhưng cũng đã bị coi như là ế chồng, cam chịu cuộc sống độc thân. Cái nghèo cộng với học lực cao là sự kết hợp lãng nhách cản đường các chàng trai theo đuổi để tiến tới hôn nhân với họ.

Đám con kế tiếp của bác tôi là một bầy năm đứa, tuổi từ mười mười bốn đến mười chín cứ quấn quít bên nhau như một bầy sáo. Chính họ là cái đám nhòm ngó anh em tôi đầy vẻ ngạc nhiên. Với những bàn tay sần sùi, móng tay thì cáu đất, họ vò lên tóc và véo vào má chúng tôi. Người con thứ sáu của bác tôi tên Trí, được biết như một người e dè và có lễ độ. Kế tới là Tín, người lùn nhất và chắc nịch nhất. Chính hắn là cái tên mắt lé mà trước đây đã nói em Jimmy là thứ pha giống. Hắn ta mới kiếm được việc làm ở xưởng sản xuất những bao đựng gạo, nhưng cái trách nhiệm mới đó cũng không giúp hắn tránh được cái thói cư xử như con nít.

Tín nhảy chồm lên lưng tôi, quả quyết rằng tôi phải cõng hắn như một phần của sự ra mắt với gia đình hắn. Sức nặng của hắn đè bẹp tôi xuống nền đất bẩn. Mỗi lần tôi cố gượng dậy thì hắn lại nhún người để xô chúi mặt tôi xuống đất. Lũ anh em nhà hắn cười phá lên, khoái chí, một lát sau, Tín nhận ra là tôi yếu quá không cõng nổi hắn, hắn liền ra một cái lệnh khác. Hắn bắt tôi phải bò từ dầu vườn này qua đầu kia, chui qua những cái chân dạng háng của ba đứa em hắn. Trong khi tôi phải bò thì bọn nó đứng lù lù trên tôi, khạc nhổ phun phì phì lên lưng tôi và chọc vào sườn tôi bằng que để thúc dục tôi phải bò nhanh hơn.

Em tôi cũng phải chịu chung số phân như tôi ở gần đó. Nhưng ngay khi bị lãnh một roi, Jimmy òa lên khóc, kêu réo ông bà ngoại, sợ ông bà tôi, bọn kia đành phải buông tha nó ra.

Dưới tàn cây chôm chôm sum suê cành và những quả chĩu đỏ, thằng em tôi đứng với bốn đứa con gái nhỏ. Đứa lớn nhất trong bọn tên Hồng thì cũng trạc tuổi tôi. Cạnh Hồng là hai đứa sinh đôi tên Vân và Phong, còn đứa ít tuổi nhất tên Hào thì cùng tuổi với Jimmy. Đúng ra sinh nhật của hai đứa chỉ cách nhau có hai ngày.

Bên trong nhà, mẹ tôi không nhìn thấy chúng tôi chạy vào từ bên ngoài, trông như hai con búp bê rách mướp, quần áo tả tơi, người đầy vết bầm. Bà ngoại tôi phải lôi hai đứa ra rửa ráy ở ngoài giếng nước trong khi lũ anh họ tôi đứng bao quanh nhòm ngó mà không cất lên tiếng nào. Sau lần đó, Ông ngoại tôi dẫn hai đứa đi xin học lớp hè ở một ngôi trường cách nhà vài dẫy phố. Tôi được xếp vào lớp Ba C, cùng với Hồng và Hạnh. Còn em tôi thì học lớp Một A, cùng với hai đứa sinh đôi và chị Hào.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:15 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Ba

Cô giáo vừa nhìn bâng quơ về đám học trò qua đôi gọng kiếng mỏng manh rồi hỏi:

- Có em nào nhắc lại được năm điều bác Hồ dạy không?

Mái tóc của cô là một mớ vừa quăn vừa rối, xõa xuống che gần hết khuôn mặt trừ ra có cái chóp mũi bóng nhẫy cùng hai cái vành môi đỏ và mỏng. Nước da của cô nom nhờn và điểm những mụn đỏ nhỏ xíu. Ngồi thẳng người trên một cái ghế gỗ sau bàn giấy, thân hình của cô nom ốm nhách trong bộ đồng phục rộng thùng thình. Trên tấm bảng đen, cô viết tên của mình bằng phấn trắng, như sau: “Cô San”. Đó là buổi học đầu tiên của lớp hè nhưng mặt trời đã hun nhiệt độ trong lớp học lên bằng cái nóng như nung nấu.

Ngồi ở cuối lớp, tôi ngập ngừng giơ tay. Nhiều cặp mắt đen lay láy hướng về phía tôi với vẻ tò mò. Tôi ngạc nhiên, không ngờ chẳng có ai biết được câu trả lời.

Cô giáo lên tiếng: “Được”. Tôi nhận thấy một bên tròng mắt của cô chạy ngược lên mí mắt khi cô nhìn thẳng về phía tôi. Đó là cái nhìn vô cảm của một con ngươi trắng toát hình trái hạnh nhân.

Tôi đứng thẳng lên và đọc năm điều mà anh bộ đội miền bắc đã dạy tôi hôm nào trên chuyến xe nhà binh:

- Yêu tổ quốc, yêu đồng bào

Học tập tốt, lao động tốt

Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt

Giữ gìn vệ sinh thật tốt

Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.

Cô giáo vỗ hai tay vào nhau khen: “Giỏi quá”. Mấy giọt mồ hôi từ trán tôi nhễu xuống mặt bàn, biến mất một cách nhanh chóng vào lớp gỗ sần sùi. Cô hỏi

- Tên em là gì?

Tôi chưa kịp trả lời thì đâu đó trong lớp có tiếng xì xào “Tên là Mỹ lai” làm cho cả lớp chợt phá lên cười.

- Im lặng!

Cô ra lệnh cho cả lớp rồi hướng bên mắt lành lặn của cô về phía có tiếng cười rộ, phê bình:

- Bạn cùng lớp với nhau mà ăn nói những lời lẽ như vậy à? Các trò phải lấy làm xấu hổ về chuyện ấy chứ.

Trong khi nhìn những vết mồ hôi loang lổ trên mặt bàn, tôi quyết định rằng cô San là một trong những người tốt nhất mà tôi được thấy trong cái thành phố đổi mới này.

Mặc dù bị giễu cợt, hôm đó tôi nhận được một cái khăn quàng đỏ và tôi là thằng con trai đầu tiên trong trường nhận cái vinh dự này. Cô giáo nói tôi được đeo khăn quàng đỏ vì tôi xứng đáng là cháu ngoan của bác Hồ. Tôi phải đeo chiếc khăn này trên vai mỗi ngày cho đến khi nó ngả mầu bạc phếch. Đến lúc đó, tôi sẽ trở thành một công dân hoàn hảo mà tổ quốc mong chờ.

Mãi tới bữa cơm tối tối hôm đó, ông bà ngoại tôi mới nhận ra sự vắng mặt của chị Loan, bèn cuống cuồng đi tìm. Nhưng đến quá giờ giới nghiêm chị mới trở về, trên tay ôm một hộp carton mà chị đặt ở ngoài cửa trước khi bước vô nhà.

Ông tôi đang ngồi trên chiếc ghế đu đưa, trầm ngâm với một cuốn sách nói về Thiền Phật giáo. Chị bước lại và quì xuống trước mặt ông làm ông phải bỏ sách xuống, nhìn chị. Cặp kiếng trễ hẳn xuống sống mũi của ông. Chị mân mê lớp vải mềm của quần ông và nói:

- Thưa ông, con xin phép được thưa chuyện với ông ạ.

Ông tôi gật đầu:

- Được chứ, có chuyện gì thế, con?

Chị nhỏ nhẹ:

- Thưa ông, con có ý định là sẽ phải từ giã ông để ra đi.

Mọi người trong phòng thốt nhìn chị với đầy vẻ ngạc nhiên, nhưng chẳng ai cất lên lời. Ai cũng chờ đợi phản ứng của ông ngoại tôi. Ông gấp cuốn sách lại và đặt nó xuống sàn, rồi nói bằng một giọng buồn bã không nhuốm vẻ ngạc nhiên:

- Con định đi đâu vậy?

- Thưa ông, mấy hôm trước, ông Trần có đưa cho con một cuốn cẩm nang nói về một tổ chức gọi là Thanh Niên Xung Phong. Điều này làm con suy nghĩ đến tương lai của con. Cho nên, sáng nay con đã lên phường để gặp mấy đồng chí ở đó để tìm hiểu thêm về tổ chức này. Con nhận thấy mục đích chính của họ là ghi danh tất cả những người trẻ trên cả nước để trợ giúp cho những lực lượng quân sự. Trên căn bản thì họ được coi như là một bộ phận hỗ trợ của quân đội. Mặc dù hiện nay chiến tranh đã chấm dứt nhưng đất nước còn cần đến nhiều nỗ lực để thu dọn những đổ vỡ do chiến tranh gây ra. Con vốn là một kẻ hầu hạ, dọn dẹp, cho nên con nghĩ cái công việc dọn dẹp này thích hợp với con và con đã ghi tên gia nhập rồi. Cũng không lâu lắm đâu, chỉ bỏ ra ba năm ngắn ngủi của đời con nhưng đến khi hoàn tất thì lý lịch của con sẽ trở nên tốt đẹp vì khi đó sẽ được nhà nước chứng thực hẳn hoi.

Từ ngoài cửa dượng Lâm xen vào:

- Ôi trời ơi! Cái con này nó điên rồi.

Rồi dượng lại tiến một bước nữa lại phía chị Loan:

- Phải rồi, mày điên thực rồi, Loan.

Rồi dượng quay về phía ông tôi:

- Nó không thể làm cái chuyện ấy được. Ngăn nó lại, bác ơi. Ngăn nó đừng làm cái chuyện dại dột ấy.

Chị Loan cứ lờ đi, làm như chỉ nói chuyện với ông tôi, coi như không nghe thấy lời của dượng:

- Con đã gia nhập cái tổ chức ấy rồi, mặc dù không có phép của ông là vì gấp gáp quá. Sáng mai thì con đã ra đi rồi. Họ cho phép mọi người về nhà tối hôm nay để sửa soạn đồ đạc và từ giã người thân. Con thì chẳng còn ai thân thích nữa sau khi cha con đã mất đi. Con chỉ còn có ông mà thôi. Thưa ông, dù rằng ông chưa bao giờ thừa nhận chuyện này với con, nhưng con biết ông vẫn tự trách mình về cái sự rủi ro xẩy ra cho cha của con. Cả hai người đã trúng cùng một viên đạn nhưng chỉ có cha con là chết thôi, ông thì còn đó. Nhưng dù cho chuyện đã xẩy ra như thế thì đã sao? Ông đã cư xử quá tốt với con ngay từ khi con mới bước chân vào nhà này. Con xin ông đừng ân hận gì nữa. Ông chẳng mắc nợ gì với cha con hay là với con hết. Cha con chết vì cái số của ông mà thôi. Vả lại con cũng cảm tạ ông từ đáy lòng con. Thưa ông, thôi, con muốn nói lời từ biệt ông bây giờ vì ba giờ sáng mai con đã đi rồi. Cám ơn ông đã yêu quí con trong suốt bao nhiêu năm trời nay. Sau khi hoàn tất nhiệm vụ, con sẽ quay trở lại gặp ông.

Ông tôi nắm chặt lấy tay chị Loan và chớp mắt liên hồi:

- Ông hiểu, cháu gái ơi. Hứa với ông là hãy giữ gìn sức khỏe và tránh xa mọi sự rắc rối nhé.

- Thưa ông vâng, con sẽ nhớ.

Hai người ôm lấy nhau trong khoảng khắc ngắn ngủi, câm lặng. Rồi chị Loan quay về phía bà ngoại tôi mỉm cười. Những ngón tay của chị rờ rẫm nhẹ nhàng lên làn da mặt nhăn nheo của bà. Chị nói:

- Bà giữ gìn sức khỏe nghe bà. Con thương bà lắm.

Bà tôi hỏi:

- Họ có cho con biết là đi đâu không? Nhà có được viết thư cho con không?

- Bà ơi, con cũng chả biết tương lai sẽ ra sao. Con chỉ được thông báo là sẽ đi bộ để tiến về phía Huế. Trên dọc đường đi, chúng con sẽ giúp dân cất nhà, phá rừng để lấy thêm đất trồng trọt và dọn dẹp những tàn tích của chiến tranh. Điều này cũng khá cam go và con e rằng sẽ có lúc con chẳng có địa chỉ nhất định đâu, bà ạ. Nhưng con sẽ viết thư thăm hỏi đều hai ông bà.

Bà ngoại tôi cười mỉm:

- Nghe cứ như là con đã sắp xếp tất cả mọi thứ rồi. Nhưng với sức lực của con thì chẳng lo gì. Con lại là người tốt lành. Ráng mau mau trở về nhé.

Chị Loan quay về phía mẹ tôi lúc đó đang đứng ở giữa phòng. Chị cúi đầu xuống sàn nhà để tránh cái nhìn chăm chú của mẹ tôi, nhưng bà đã phá vỡ cái ngột ngạt giữa hai người:

- Nói thẳng thừng ra thì tôi chẳng bao giờ yêu cầu cô ra khỏi nhà. Tôi muốn cô biết rõ điều đó.

- Em biết chứ, thưa bà. Mà chính em cũng chả muốn bỏ đi đâu, đặc biệt là bây giờ, bà lại sắp sửa sanh. Nhưng em có lý do phải đi. Xin bà giữ gìn sức khỏe.

Một tia sáng thoáng hiện trong đôi mắt u tối của mẹ tôi khi bà nhìn trừng trừng về phía dượng Lâm:

- Cô đừng vì cái tên Lâm đó mà bỏ đi nhé.

Chị Loan quay về phía dượng và trầm giọng:

- Chào ông Lâm. Hãy săn sóc bà chủ của tôi và đối xử tử tế với bả vì bả cũng mang đứa con của ông trong bụng. Tôi nói cho ông biết, nếu mà ông xử tồi tệ với bả thì ông phải trả giá khi tôi trở về. Tôi thề độc đó! Đừng có tưởng tôi giỡn chơi. Giữa tôi với ông lẽ ra chẳng nên dính líu đến nhau ngay từ đầu. Trước đây thì tôi không thể có gì lựa chọn, nhưng vì hiện tại và tương lai, tôi quyết định ra đi để cho ông được ở lại

Dượng không trả lời mà chỉ nhếch mép cười gằn

Chị Loan quay lại nhìn anh em tôi. Chị quì gối xuống, giang rộng cánh tay và ra dấu cho anh em tôi tiến lại phía chị. Chị rờ những vết bầm trêm mặt tôi và thì thầm:

- Coi kìa. Em làm sao thế này. Đánh nhau hả? Chị mới rời em có một ngày mà em đã ra nông nỗi này. Nghe chị này. Chị không còn ở bên em để coi sóc em nữa. Vậy em phải tự lo cho mình và Jimmy, lại còn phải phụ giúp mẹ khi em bé ra đời, nhất là đừng có quên chị, nghe em.

- Không đâu, chị Loan. Em không bao giờ quên chị đâu.

Chị mỉm cười:

- Chị biết mà, cưng. Chị có quà mừng sinh nhật cho em đây nè. Món này sẽ giúp cho em thực tập trước khi em bé sinh ra. Có muốn coi không?

Tôi gật đầu. Chị chạy ra ngoài. Khi quay lại, trên tay chi mang theo một thùng carton. Chị hạ tay xuống ngang tầm mắt của tôi. Cái thùng không đậy nắp. Jimmy và tôi nhìn thấy một con chó nhỏ nằm úp vào một góc, giương đôi mắt to, đen lay láy nhìn lên chúng tôi. Mình của nó được bao phủ bằng bộ lông ngắn, mầu hơi nâu. Tai nó cụp, cái mũi ướt nhẻm loang loáng trên cái mõm ngắn củn trông như một cái nút áo còn mới toanh. Con chó nhìn chúng tôi, rên lên ư ử. Tôi khoái quá hôn như mưa lên mặt chị Loan.

Chị thì thầm:

- Sờ thử nó coi, Kiên! Con chó này là của em đó.

Tôi lùa tay vào trong hộp và sờ lên con chó nhỏ. Bộ lông của nó mượt như nhung. Rồi tôi bế nó lên, ôm sát vào lòng và cảm thấy trái tim nó đập thình thịch. Nó ngẩng đầu liếm lên mũi tôi. Một cử động nhỏ nhoi, nhưng mà tình cảm thân thuộc đã được tạo ra giữa tôi và nó. Tôi cúi sát xuống nó, để cho làn áo vải mỏng của bộ pyjama của tôi áp vào mặt nó, một cảm giác êm ả thấm vào trong tôi.

Chị Loan nói:

- Nó mới chỉ được hai tháng thôi, Kiên.

Giọng của chị nghe thoảng như rất xa vì tôi còn tập trung sự chú ý vào con vật bé bỏng mà tôi đang bồng trên tay. Chị tiếp:

- Chị vừa có tin vui, vừa có tin buồn cho em đấy. Tin vui là nó đã thôi bú mẹ nó, nên là từ ngày mai em có thể cho nó ăn đồ ăn được rồi. Tin buồn là con chó này có bẩm tật từ lúc sinh ra. Như em thấy đấy, chân trước của nó bị vẹo đi nên nó chỉ có đi được bằng có ba chân thôi. Chị lựa con này cho em vì con này cần nhiều tới sự săn sóc mà điều này lại giúp em tập cho quen đi để sau này còn săn sóc em bé. À mà này, em nghĩ cho nó một cái tên thật hay, nghe!

Quay về phía em tôi chị tiếp:

- Jimmy, chị không quên quà của em đâu. Con chó nhỏ cũng là một phần của em đó. Em hãy phụ với anh Kiên trông nom cho nó nhé. Em còn bé quá để có riêng một mình một con chó. Vậy bây giờ hãy tập chơi chung với nhau đã nhé.

Jimmy gật đầu, đôi mắt của nó cứ dán vào con chó. Rồi chị Loan hỏi mẹ tôi:

- Thưa bà, các em bé có thể giữ con chó được không? Em rất ân hận là đã không hỏi bà trước nhưng thực tình là em mong muốn để lại một cái gì cho các bé để tụi nó nhớ đến em trước khi ra đi.

Mẹ tôi gật đầu với vẻ ngần ngại. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, tôi nói với chị Loan:

- Em nghĩ ra tên cho nó rồi. Em muốn đặt cho nó là Lulu.

Chị đáp:

- Ừ, tên LuLu hay đấy. Em kiếm ở đâu ra vậy?

- Tại nom nó giống cô LuLu...

- A... Cái cô ca sĩ người nước Anh ấy à?

- Vâng em rất thích những bài hát của cô ấy.

- Được rồi. Vậy là LuLu. Biết đâu một ngày kia LuLu sẽ tập tru lên bài To sir with love để kiếm sống không chừng.

Mọi người cười rộ lên, ngoại trừ mẹ tôi.

Đêm hôm đó, LuLu ngủ trong hộp giấy, ngay bên cạnh tôi. Thân hình của nó cuộn lại thành hình bán nguyệt, mũi của nó rúc vào mấy cái chân. Sáng hôm sau, khi tôi thức dậy thì chị Chị Loan đã đi rồi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:15 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Bốn

Mỗi ngày vào khoảng năm giờ sáng, những người lớn trong xóm tôi đều phải ra tập họp để chào cờ trong lúc cái loa cộng cộng phát ra bài hát quốc ca. Sau đó thì tới phiên những viên chức Cộng sản chủ tọa các buổi mít tinh được tổ chức đây đó ở nhiều địa điểm khác nhau trong vùng. Nội dung chính của những buổi này thường là những bài học về Các Mác, đọc thơ văn chủ nghĩa Cộng sản hay là để xét nét về từng hành vi của mỗi cá nhân đối với chủ nghĩa Cộng sản. Một đôi khi, thay vì họp mặt để thực thi “Nền giáo dục mới” như thộng lệ thì nhân dân trong thành phố lại được phân thành từng nhóm, đi qua cửa mọi nhà để quét dọn rác rưởi cho đến khi đường phố trở nên sạch bóng. Riêng như hôm nay, như đã được thộng báo, là ngày kiểm thảo. Vì mẹ tôi là dân mới tới nên bà sẽ là mục tiêu của cuộc thảo luận. Đứng trước đám đông đầy nhóc những khuôn mặt ngái ngủ, mẹ tôi được hướng dẫn để tự đọc một bản kiểm thảo, nhưng không phải là loại tự giới thiệu thộng thường, mà là phải thành khẩn thú nhận những tội chống phá cách mạng và Đảng Cộng sản trong quá khứ. Một mình trên sân khấu, tay cầm micro, mẹ tôi cố gắng kể lướt một số sự kiện chính xẩy ra trong cuộc đời, chấp nhận tội lỗi và sự ngu xuẩn mà bà đã phạm phải trong thời Cộng Hòa và ca ngợi sự giác ngộ cách mạng mà bà đã học được, với một cung cách thành khẩn vừa đủ để thoát khỏi rắc rối. Nhờ những lần tiếp xúc với tên Trần nên bà biết được khá nhiều từ ngữ Cộng sản. Bây giờ bà đem vận dụng chúng vào bài nói của mình. Mắt bà nhìn thẳng vào từng người trong đám đông, chỉ trừ ra có dượng Lâm. Ông ta ngồi chung với đám đàn ông và cố thu mình lại chừng nào tốt chừng đó.

Khi mẹ tôi dứt lời, ông phường trưởng bước lên bục gỗ. Không giống như tên Trần là người leo lên được địa vị bằng sự dò thám mọi người, ông này là một sĩ quan cao cấp trong quân đội Việt cộng, trạc tuổi ngoài năm mươi, tóc thưa và bạc, có nụ cười lôi cuốn. Ông ta đã trải mười năm vừa qua trong rừng trường sơn và đã lặn lội trên đường mòn Hồ Chí Minh. Người ta đồn rằng ông ta hiện đang chờ đợi để đoàn tụ với vợ con từ ngoài bắc vào.

Cầm chiếc micro trong tay, ông ta nói:

- Cám ơn chị Khuôn đã nói về mình. Vậy có ai nêu ý kiến gì không? Đây là lúc để chúng ta góp ý xây dựng. Nếu không có gì trở ngại thì chúng ta bắt đầu. Tôi xin nhắc với đồng bào rằng hễ cứ ai có một lần phát biểu ý kiến là sẽ được cộng một điểm trong công tác lao động đấy.

Một người đàn ông đứng dậy. Mẹ tôi nhận ra ông vốn là khách hàng quen thuộc của mình tại ngân hàng của bà hồi trước giải phóng. Bà rùng mình nhớ lại khuôn mặt giận dữ của cái đám hàng trăm khách hàng trực diện với bà cách đây không lâu. Vì là nam giới, nếu kiếm được đủ ba mươi điểm thì ông sẽ được một ngày lao động trong rừng. Mặc dù thế, ông ta vẫn cẩn thận, hiểu rằng mẹ tôi cũng có thể gây hại ngược mình, vì bà biết rõ quá khứ làm ăn của ông.

Ông ta hắng giong rồi nói:

- Chị báo cáo rất thành khẩn, như được kể ra từ đáy lòng. Nhưng chị có bỏ sót chi tiết nào không? Tôi muốn được nghe rõ hơn về đời sống riêng tư của chị. Chị có con cái gì không? Bao nhiêu đứa? Chị đã từng lập gia đình chưa?

Viên trưởng phường nhìn mẹ tôi, chờ đợi câu trả lời. Mẹ tôi lên tiếng, tay xoa lên bụng qua lần áo choàng:

- Thành thực mà nói, tôi chưa hề lập gia đình. Tôi đã có hai con trai và một đứa nữa sắp ra đời.

Bỗng có một giọng nữa cất lên:

- Hãy nói về những đứa con trai của chị đi.

Đó là giọng của một người đàn bà sống trên một thửa ruộng cách nhà tôi chừng vài con đường. Bà ta là vợ của anh làm nghề đồ tể trong xóm.

Mẹ tôi đáp:

- Chị cần biết về chúng nó để làm gì? Chúng nó đều còn con nít cả mà.

Vợ anh đồ tể đứng hẳn dậy, ngắm nghía mẹ tôi từ đầu xuống chân rồi thốt lên:

- Tôi đã để ý chị từ khi chị mới dọn đến khu này kìa. Tôi không cần biết chúng nó bao nhiêu tuổi. Nhưng tôi cần biết chúng nó thuộc về giống người gì? Có phải là con lai hay không? Nếu phải thì rõ ra là có vấn đề rồi.

Mẹ tôi nuốt nước miếng, đáp:

- Đúng, chúng nó là con lai.

- Vậy thì chị có chúng nó bằng cách nào? Bộ chị đặt hàng o- đơ từ bên Mỹ hả?

- Chị có con cách nào thì tôi cũng có con cách ấy, là qua ăn nằm với nhau, dĩ nhiên!

Câu trả lời của bà làm mọi người phá lên cười. Ông trưởng phường liền cảnh cáo ngay mẹ tôi.

- Chị hãy coi chừng. Đây không phải là hộp đêm muốn nói gì là nói đâu!

Vợ anh đồ tể đỏ bừng mặt lên, nhưng mụ ta không chịu buộng tha, vẫn gằn giọng dữ dằn:

- Dưới chế độ đế quốc, khi một người có được những đứa con pha giống thì chỉ bằng có hai cách: Một là xin làm con nuôi, hai là đi làm điếm. Chị vừa mới thú nhận rằng bằng cái lối đ... ấy mà chị đã có hai đứa. Vậy thì chị đúng là một con điếm rồi còn gì.

Mụ ta chấm dứt một cách đắc thắng và vênh váo nhìn quanh đám đông. Mẹ tôi lại nuốt nước miếng một lần nữa, bà biết rằng đã tới cái tình thế này thì phải chuẩn bị tinh thần trước những kẻ xa lạ này mà thôi. Họ đã muốn dán cho bà một thứ nhãn hiệu để sau này họ có thể cột cho bà bất kể tôi gì mà họ muốn để chống lại bà. Vậy thì hai thứ tệ mạt: Một con điếm hạ tiện với một con tư bản kiêu căng, cái nào ít tai hại hơn? Trong cái chế độ mới này, dính líu tới tư bản thì coi như là trọng tội hơn rồi. Mười lăm giây đồng hồ đã trôi qua mà vẫn chưa thể cất lời. Cả đám động chú mục vào bà. Cuối cùng bà gật đầu và nói:

- Chị nói đúng. Chính tôi là một con điếm đấy. Và tôi rất lấy làm nhục nhã vì chuyện này.

Vợ anh đồ tể liền phê phán:

- Nếu thực tình thấy nhục nhã thì chị chẳng đã bô bô thú nhận trước mặt tất cả mọi người. Tôi nghĩ rằng nếu chị muốn tìm cách để giải phóng mình thoát khỏi cái của nợ đó thì chị cứ phá thai đi, dễ quá mà!

Tay trưởng phường lên tiếng ngay:

- Chị này tên gì? Nói cho tôi biết để tôi ghi cho chị một điểm.

Từ trên sân khấu, mẹ tôi chỉ tay về phía đám đông và nói vào micro:

- Nếu chị đi hỏi cái anh đàn ông đang ngồi ở chỗ kia kìa chị sẽ rõ anh ta chính là kẻ có trách nhiệm với cái thai này. Nó đâu có phải là giống má của một tên ngoại quốc, mà tôi ngủ với anh ta cũng không phải vì tiền. Vậy tôi có thể giữ lại cái thai khốn kiếp này không?

Chẳng có ai lên tiếng trả lời và mọi người bây giờ dồn sự chú ý vào dượng Lâm. Tay trưởng phường liền nói với Lâm:

- Anh kia, đến lượt anh rồi, lên đây và báo cáo cho chúng tôi nghe câu chuyện của đời anh.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:16 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Lăm

Ở chỗ họp trở về, mẹ tôi tỏ thái độ bứt rứt, cáu kỉnh. Dượng Lâm thì thiểu não như một quả bóng bị xì hơi. Mặt bà lộ vẻ giận dữ khi nhìn thấy Jimmy và tôi đang nằm lết trên sàn với con chó. Bà la chúng tôi:

- Đem ngay cái con quái này đi cho khuất mắt tao. Bỏ nó ra ngoài sân.

Ông ngoại tôi bênh:

- Nó còn bé quá làm sao ở bên ngoài được.

- Thây kệ! Đem ra ngoài!

Tôi bế con Lulu lên tay và em tôi cũng vội vã theo tôi đi mau cho khỏi tầm mắt của bà. Tại sân trước, hai đứa tôi đi tới đi lui còn Lulu thì nhẩy cà nhắc lẩn quẩn quanh chân của chúng tôi. Một lát sau Tín dẫn theo lũ em chận chúng tôi lại. Hắn chỉ vào con chó và hỏi:

- Mày có cái quỷ gì vậy?

Tôi đáp:

- Quà của chị Loan cho đấy. Nó tên là Lulu.

- Đưa tao coi.

Nói rồi hắn đẩy tôi qua một bên và xốc con chó lên. Lulu kêu lên một tiếng “ẳng” khi nó bị bàn tay của hắn xiết chặt vào khoảng bụng.

- Đừng có mạnh tay quá, nó đau. Chân nó bị tật.

Vừa năn nỉ tôi vừa cậy ngón tay của hắn ra để lấy lại con chó. Hắn giơ con chó lên cao hơn để tôi không với tới. Lũ em rộ lên cười khi thấy tôi kiễng lên để với theo. Tín quay về phía chúng nó, vừa đu đưa con chó vừa cười. Rồi hắn la lên:

- Ê! Nhân và Hiếu. Chúng mày chạy lại đằng kia để tao quẳng cho tụi mày con chó què này nhé.

Tôi la lên chói lói để gọi mẹ tôi. Thằng em tôi thì bắt đầu òa lên khóc. Tôi nhìn con chó trong tay hắn mà lòng thầm lo, không biết mẹ tôi có nghe tiếng kêu cứu của tôi không. Bỗng nhiên cánh cửa bật mở và có giọng nghiêm khắc của ông tôi hét lên:

- Tín! Trả lại cho thằng Kiên con chó, mau!

Tín khựng ngay lại giữa đà đu đưa con chó. Tôi bèn chạy lại phía hắn giật nó ra khỏi bàn tay giữ chặt của hắn. Bác tôi và bác trai chạy xồ ra cửa nhà. Từ khung cửa, mẹ tôi cũng vừa xuất hiện với vẻ bực bội. Bác gái nhìn thằng con của mình rồi chống tay lên hông, trên môi vẫn còn tòng teng điếu thuốc cẩm lệ. Bà nói với tôi:

- Có cái quái gì mà mày phải tru tréo lên như đàn bà vậy? Chỉ vì một con chó mà phải rùm beng lên. Còn ba nữa, ba không việc gì phải la hét với chúng nó để bênh thằng này. Chúng nó đều là cháu của ba cả, chẳng việc gì mà ba phải về phe của đứa nào. Nếu ba không bằng lòng với lũ con nhà này chơi với đứa cháu quý tử của ba thì ba cứ nói. Không cần phải la lối chúng nó.

Mẹ tôi bước lại phía tôi, ném nột cái nhìn nghiêm khắc làm tôi díu cả người lại. Bất thình lình, bà giang tay tát lên mặt tôi một cái thật mạnh khiến tôi thấy nổ đom đóm mắt. Rồi bà rít lên:

- Lại chuyện về con chó! Tại sao vậy Kiên? Tại sao mày không hòa thuận được với tụi nó. Tại sao mày cứ bầy chuyện ra để làm khổ cho tao thế này.

Bà tiếp tục gào:

- Mày có biết rằng tao đã phải chịu bao nhiêu là thứ phiền phức đến độ căng thẳng thần kinh không? Có bao giờ mày nghĩ đến lúc tao chịu hết nổi, tao tung hê hết không?

Ông tôi quát mẹ tôi:

- Nó có lỗi gì mà mày đánh nó? Nó đang chơi với em nó. Đừng có giận cá chém thớt. Để cho nó yên.

Mẹ tôi tiến lại phía tên anh họ của tôi và xoa lên đầu hắn nhẹ nhàng, nói:

- Cháu đừng để ý đến ông. Ông già rồi, mà ông chẳng có ý la cháu đâu. Thôi, tha lỗi cho em nó đi. Chúng nó chỉ là những thằng đầu đường xó chợ. Có thể cháu không nghe dì, nhưng cứ tin đi, cái lũ gà chết này không thể làm hại cháu và gia đình cháu đâu. Đừng ghét bỏ chúng mà làm gì.

Bác tôi kéo thằng con ra khỏi bàn tay vuốt ve của mẹ tôi, đẩy hắn vô nhà, ném cho mẹ tôi thêm một cái trừng mắt trước khi khuất theo. Mẹ tôi nhìn vào tận mặt tôi, nói thêm một câu trước khi bà đi vào nhà:

- Mày có giỏi thì gây thêm chuyện nữa đi!

Tôi ngồi phệt xuống đất, ôm lấy con chó và trong khoảng khắc quên đi cái đau đớn gây ra bởi cái tát của mẹ tôi. Jimmy cũng quì xuống đất, nhìn tôi lo lắng. Một giọt nước mắt còn đọng lại trên mi của nó, nhưng nó đã bắt đầu cười toe toét. Lulu hếch cái mõm lên, lưỡi của nó liếm lên cái vạch đỏ còn hằn trên má tôi. Ở ngưỡng cửa, ông ngoại tôi lắc đầu. Ông ngồi ở đó, trên bậc cấp và canh chừng cho chúng tôi đến hết buổi sáng.

Chiều hôm đó, khi ngủ giấc trưa dậy, tôi không thấy Lulu đâu cả. Tôi phóng ra khỏi giường đinh ninh sẽ tìm thấy nó đang chơi với Jimmy. Nhưng Jimmy vẫn còn đang ngủ trên giường của nó. Tôi tìm tòi khắp căn buồng mà vẫn không thấy tăm hơi của Lulu đâu. Mẹ tôi đứng ở cửa nhìn tôi lặng lẽ. Sự xục sạo của tôi có lẽ làm bà giật mình chỉ ít phút sau thì bà chậm rãi nói với tôi:

- Nếu mày có ý đi tìm con chó của mày thì thôi đi. Mẹ đem nó cho người ta rồi.

Tôi dò xét khuôn mặt của bà để tìm một câu giải thích:

- Mẹ nói như vậy nghĩa là gì?

Măc dù hỏi thế, nhưng tôi đã hiểu ra ngay và lắp bắp:

- Tại sao thế, mẹ ơi. Con đâu có gây rắc rối gì nữa đâu. Tại sao mẹ lại làm như thế? Mẹ cho người ta là ai vậy?

Tuy bà không trả lời, nhưng đã có kẻ khác thay thế cho bà. Từ phía bên ngoài, vọng lại một tiếng rên rỉ quen thuộc - tiếng con chó của tôi. Tôi phóng ra phía cửa sổ và nhìn thấy lũ anh họ của tôi đang chơi trong vườn nhà họ. Tín đang ở giữa đám em, tay xách gáy con chó lủng lẳng. Bốn cẳng của nó chới với trong không khí. Tôi la thất thanh:

- Đừng!

Nước mắt của tôi trào ra. Lồng ngực của tôi thắt lại. Tín cười hô hố. Hắn đưa con chó lại gần mặt hắn hơn, bất kể nó sủa, gọi to:

- Coi này! Thằng lai! Con chó của mày bây giờ thuộc về tao rồi.

Chân tôi khuỵu xuống khi tôi quay lại cầu cứu mẹ tôi:

- Mẹ ơi, lấy lại con chó đi. Con xin mẹ. Con sẽ làm bất cứ điều gì mẹ muốn, chỉ cần lấy lại nó thôi.

Mẹ tôi trả lời:

- Tránh cái cửa sổ đó ra. Con chó thuộc về người khác rồi.

Ngoài vườn, cái giọng chua ngoa của bà bác tôi nói to với lũ con:

- Tao chẳng hiểu sao tụi bay lại đi dành cái con chó què quặt ấy làm gì. Nó có đi đứng ngay ngắn gì được đâu

Tín trả lời mẹ:

- Ơ, xài nó làm banh đem đá được rồi!

Đứng ở cửa sổ, tôi nghe rõ từng câu nói của hắn như từng nhát dao cứa vào da thịt. Mẹ hắn cười lớn:

- Thôi dẹp đi!

Tôi kinh hoảng nhìn về phía mẹ tôi như thể bà là niềm hy vọng cuối cùng, và khóc nức nở:

- Mẹ ơi, đừng để chúng nó giết con chó của con.

Mẹ tôi quát:

- Câm mồm. Mày đã mất biết bao nhiêu thứ hơn thế nữa mà có bao giờ thấy mày giở một giọt nước mắt đâu. Vậy tại sao bây giờ lại khóc? Vì cái gì chớ? Vì cái con chó khốn kiếp ấy hả? Mày bước ra khỏi cái cửa sổ đó ngay lập tức. Hãy cứng rắn lên!

Nói xong bà quay lưng về phía tôi. Ở bên ngoài. Tín ném con chó lên cao. Thân hình bé nhỏ của nó lộn trên không. Nhưng trước khi nó rớt xuống đất, hắn nhắm kỹ và sút một cú đá chuyền nó qua vườn về phía một trong lũ em của hắn. Con chó nhỏ hết còn kêu được một tiếng nào. Cú đá của Tín đã ép không khí ra khỏi buồng phổi của nó. Rớt rãi văng lên cao thành một vệt trắng trắng tung tóe như vệt sơn.

Tôi phóng ra khỏi cửa, đẩy mẹ tôi sang một bên. Tâm trí tôi chẳng còn quan tâm đến bất cứ chuyện gì ngoại trừ con Lulu. Mẹ tôi túm lấy cánh tay tôi, kéo lại. Bà kêu lên và đồng thời cũng bật khóc:

- Mày đứng lại!

Ông bà ngoại tôi xuất hiện ngay cửa buồng. Ông nói:

- Mày coi kìa. Tại sao mày lại hại con ruột mày đến thế?

Mẹ tôi vừa chùi nước mắt bằng mu bàn tay của mình vừa sụt sịt:

- Ba đừng xía vào chuyện của con. Ba lầm rồi. Con đâu có hại nó. Con chỉ dạy cho nó cứng rắn hơn thôi. Ba với con có quan điểm khác biệt nhau, vậy con xin ba cứ để mặc tụi con.

Phía bên ngoài, tiếng bịch bịch do cái xác của con Lulu bị dùng làm trái banh để đá đi đá lại đã giảm và xa dần cho đến khi nó bị tan loãng trong tiếng cười của lũ anh họ. Tôi quỵ xuống sàn, kiệt quệ.

Sau khi mọi người đã ra khỏi căn phòng, tôi vẫn còn nằm dài trên sàn. Đầu óc tôi trống rỗng. Hình ảnh của một cánh đồng xanh muớt, yên tịnh, không có người, không có hương vị và không một tiếng động chiếm lấy tâm trí tôi. Trong cánh đồng này, tôi chạy chân trần trên thảm cỏ xanh và ánh nắng ấm áp bao phủ lên khắp thân mình. Rồi thì Jimmy lôi tôi trở về thực tế. Nó ân cần nói:

- Anh Kiên, dậy đi. Mẹ gọi. Tới giờ ăn tối rồi.

Dưới lưng tôi, thảm cỏ xanh rờn từ từ biến mất, chỉ còn cái thềm nhà cứng ngắc. Jimmy kéo mạnh tôi lên để giúp tôi đứng dậy. Tôi lại nhớ tới con Lulu, cái mũi nó ướt nhèm, hơi thở nó ấm áp và cái lưỡi mềm mại của nó mỗi lần nó liếm mặt tôi. Nỗi căm giận lại nổi lên trong lòng làm tôi đứng phắt dậy, nước mắt tuôn rơi. Tôi vớ ngay lấy cái đèn dầu để gần bàn và bước ra ngoài để đi ra vườn.

Jimmy chạy theo bên cạnh, níu lấy cánh tay tôi:

- Anh Kiên, anh đi đâu đấy. Quay lại đi. Mẹ đang nổi cáu lên rồi đó.

Tôi trả lời:

- Để mặc tao, Jimmy. Tao cóc cần.

- Thế anh làm gì vậy? Anh đi đâu vậy?

- Tao đi tìm con chó của tao.

- Nó chết rồi, anh Kiên ơi. Em đã nhìn thấy anh Tín ném xác nó vào đống rác

Tôi quay phắt lại và chộp lấy bả vai của nó:

- Ở đâu? Đống rác nào?

Nó chỉ ngay về một chỗ ngoài vườn, một cái góc tối tăm chất đầy lá rụng mà bác dượng của tôi vẫn trữ lại để ủ làm phân bón. Phía trên là một tàng cây ổi lớn với những nhánh cây đen trùi trũi khúc khuỷu vươn lên bầu trời. Dàn dây leo ở phía hàng rào cũng đã mọc thành một mảng lưới mầu xanh, kín mít. Trong bóng tối, cây cối đã biến thành con quái vật trá hình với những cánh tay quều quào và những cái chân có màng trấn giữ mặt đất. Tuy sợ, nhưng tôi vẫn cả gan tiến lại gần. Phía sau, thằng em tôi nhảy dựng lên khi nghe tiếng réo gọi của mẹ tôi từ trong nhà. Tôi bảo nó:

- Jimmy, quay vào nhà đi. Đừng có vì anh mà lại gặp chuyện rắc rối.

Nó đáp:

- Em không muốn về một mình đâu. Em đi với anh.

- Mẹ sẽ đánh đòn cho nếu mày không nghe lời anh.

Jimmy cắn vào môi dưới, nhưng nghĩ thế nào nó quyết định ở lại với tôi. Tôi tiến sâu hơn vào trong khu vườn. Ở chỗ hai đứa đứng, tôi có thể nhìn thấy bóng dáng mẹ tôi hiện rõ trên khung cửa sổ. Bà chần chừ, nhưng không ép chúng tôi phải trở vào trong nhà.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:17 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Sáu

Trời đêm mát mẻ. Khu vườn đã được bác trai tôi tưới ướt đẫm, hơi ẩm tỏa lên chan hòa bầu không khí. Từ giữa những vòm cây, có tiếng cánh chim cựa quậy trong giấc ngủ, khua động màn đêm. Đối với Jimmy và tôi, tiếng động vang dội ấy như tiếng thở hổn hển của con quái vật đang ẩn núp đâu đó. Chúng tôi nắm tay nhau dò dẫm đi sâu vào trong bóng tối. Chiếc đèn dầu leo lét ở phía trước chỉ đủ soi tỏ vài bước trên mặt đất. Tôi có thể nghe thấy tiếng cãi cọ của lũ anh họ tôi từ bàn ăn vọng ra và tiếng bà bác tôi cố bắt họ giữ im lặng.

Khi chúng tôi bước tới đống lá khô, tôi mò mẫm tìm cái xác của con chó trong lúc em tôi đứng cạnh bên tôi, hai tay bưng cây đèn dầu. Chẳng mấy chốc mà tôi tìm thấy Lulu, một nửa thân xác bị vùi trong đống lá. Dưới ánh sáng chập chờn, nó nằm nghiêng, cái mõm há hốc. Dù đã chết, mặt nó vẫn còn giữ vẻ thảng thốt. Một bên mắt của nó bị dập nát, nhầy nhụa, sậm mầu máu. Máu cũng ứa ra từ hốc mắt bên kia, rỉ xuống thân mình nó, như một vệt sơn đen. Cái cẳng tật nguyền vắt ngang mõm như thể nó đã cố gắng tự vệ trước sự tấn công của lũ anh họ tôi. Thân thể nó ướt nhẹp bởi một thứ nước khó phân biệt, có thể là nước tiểu của nó, hay là cái đống mà nó đã ọe ra, hoặc là cũng có thể do nước mà bác tôi tưới vườn.

Tôi dùng cả hai tay để mang nó lên bất chấp mấy ngón tay dính nhầy nhụa. Nụ hôn của thần chết đã làm cho thân thể nó cứng lại. Tôi ghì nó trong vòng tay, hy vọng hơi ấm của tôi có thể làm cho nó sống lại. Quên bẵng cả sự hiện diện của đứa em, tôi bật lên khóc mùi mẫn. Ẵm Lulu trong đôi tay, tôi đi về sân cỏ phía trước nhà tôi. Tôi lựa một chỗ để chôn Lulu, một khoảnh đất dưới tàn cây mai trông ra đường phố.

Em tôi lầm lũi đi theo mà không nói tiếng nào. Ngay khi tôi cầm cái xẻng con để xới lớp đất mềm lên, nó cũng lấy một cái thuổng để giúp tôi. Bất thình lình, có một tiếng động phát ra từ phía sau bụi cây, khiến hai anh em tôi giật bắn mình. Tôi rít lên hãi hùng:

- Ai đó?

Từ phía sau bức tường ngăn đôi nhà tôi với bên hàng xóm hiên ra một thằng bé trạc tuổi tôi, hai tay đút trong túi quần. Trong bóng tối, tôi có thể nhìn thấy dáng mặt của nó đang liếc nhìn chúng tôi với vẻ tò mò.

- Không có ai hết!

Vừa nói nó vừa bước ra chỗ sáng để tôi có thể trông thấy. Tóc nó đen và dài thoòng che phủ gần khắp khuôn mặt. Cái áo thung quá khổ trùm lên thân hình gầy gò của nó và chùng xuống tới đầu gối nom giống như một cái áo đầm. Nó đi chân đất. Nghếch cái đầu qua một bên, thằng nhỏ cất tiếng hỏi:

- Hai đứa mày đang làm cái gì thế?

Em tôi đáp:

- Làm đám tang cho con chó của anh Kiên.

- Vậy hả, tao giúp một tay được không?

Jimmy nhìn tôi. Tôi gật đầu đồng ý. Thằng bé trông có vẻ thân thiện, vả lại tôi đang cần một đứa bạn. Tôi nói với em tôi:

- Ra mở cổng cho nó qua đi.

Thằng nhỏ quơ hai tay lên ra dấu từ chối, nói:

- Khỏi cần. Tao trèo qua tường được.

Nó tiếp tục thật thà khai:

- Trước khi gia đình mày dọn tới, tao đã trèo qua nhà bác mày cả triệu lần, thường là để ăn trộm ổi.

Nó bắt đầu trèo qua tường cao, thành thạo như một con khỉ. Mình nó trườn qua lớp kẽm gai ở phía bên trên, đung đưa trong không khí một lát trước khi nhẩy xuống phía bên tôi. Lúc nó đứng dậy, phủi những cọng cỏ bám trên quần áo, tôi mới hỏi:

- Sao mày biết cái ông đó là bác của tao?

- Quanh đây không có nhà nào mà giữ được bí mật. Ngoài ra, tao còn cả dòm sang nữa. Tao đã chứng kiến mấy thằng khốn kia giết con chó của mày.

Nghe nhắc đến Lulu, tôi lại muốn khóc. Tôi không góp ý vào những lời bình luận của nó, tiếp tục đào đất. Thằng nhỏ cầm lấy cái xẻng trên tay em tôi và bắt đầu xới lớp cỏ lên. Cũng giống như khi leo trèo, nó đào nhanh nhẹn hơn tôi rất nhiều. Trong khi đó, cái nhìn chăm chăm của nó đang thầm lặng quan sát chúng tôi. Đôi mắt hình trái hạnh sáng rực lên trên khuôn mặt của nó. Tôi cất tiếng hỏi:

- Tên mày là gì?

- Tao tên là Duy. Còn mày là Kiên phải không? Tao đã nghe cô giáo San kêu tên mày ở trong lớp. Không biết mày có nhớ là đã nhìn thấy tao không, nhưng chúng mình học cùng lớp đấy. Tao ngồi ở ngay chỗ cửa sổ.

Lại một lần nữa tôi tảng lờ không đáp và nó vẫn tiếp tục nói:

- Dù sao tao cũng mừng được biết mày.

- Tao cũng thế. À, đây là Jimmy, em tao.

Jimmy ngước lên, nhe răng ra cười. Duy nhoài người lại gần tôi hơn và thì thào:

- Đối với con của một tay tư bản, mày kể ra cũng biết quá nhiều về Cộng sản đấy. Mà mày học ở đâu ra những điều Hồ chủ tịch dậy nhi đồng thế? Mà thôi! Đừng nói! Tao không muốn biết đâu.

Nó ngừng lại, rồi đổi sang một giọng tình cảm hơn:

- Đừng có buồn về lũ anh họ của mày. Chúng nó chỉ là một đám hay ăn hiếp người thôi. Quanh đây cũng chẳng có ai ưa cái gia đình bà bác của mày. Ba tao nói bọn họ chỉ là một lũ hạ cấp bợ đỡ mà thôi. Một ngày nào đó, tao và anh em tao sẽ kiếm dịp đá đít tụi nó cho mà coi. Còn mày thì khác hẳn tụi nó nên tao thích. Thỉnh thoảng, nếu thích thì mày và em của mày có thể qua nhà tao chơi. Tao có một con chó vui lắm. Mày qua chơi thì biết.

Em tôi hỏi:

- Chó của anh tên là gì?

- Ngốc!

Em tôi cười và nhắc lại:

- Ngốc! Cái tên nghe tức cười quá!

Duy đáp:

- Một cái tên tức cười cho một con chó tức cười!

Tới lúc đó thì cái lỗ đã được đào vừa đủ sâu để chôn Lulu. Tôi đặt cái xẻng qua một bên và ngồi xuống đất, ngay cạnh nó. Tôi vuốt lên nó lần chót trước khi đặt nó vào lòng đất xốp. Chúng tôi lặng lẽ ngắm nhìn những lớp đất dần dà bao phủ lên tấm thân nhỏ bé của nó, chút một, cho đến khi không còn nhìn thấy nó nữa. Duy đặt lại lớp cỏ phủ lên phần đất trên mộ của nó. Tôi thầm thì:

- Cảm ơn nha.

Duy đập đập hai bàn chân, nói:

- Tao phải về thôi. Sắp tới giờ giới nghiêm rồi.

Tôi hỏi:

- Mày không quơ vài trái ổi à

- Thôi đêm nay thì khỏi. Có kẻ rình chúng mình đấy. Chuồn thôi! Chào! Ngày mai gặp lại ở trường. À Kiên này, bây giờ mày biết là chúng mình học cùng lớp, vậy tốt hơn, hãy đi la cà với tao còn hơn là cứ lủi thủi một mình quanh sân trường. Được không?

Nó nói một cách vội vã, chưa kịp nghe tôi trả lời thì đã trườn qua bức tường và biến mất trong bóng đêm.

Khi tôi và Jimmy về gần tới cửa sau, một tiếng thì thào rất nhỏ vang lên từ chân tường nhà ông bác của tôi làm chúng tôi dừng lại. Một cái bóng dựa vào cột nhà vẫy tay, ra hiệu cho chúng tôi lại gần. Tôi nhận ra ngay dáng dấp người con gái lớn nhất của bác tôi, chị Ánh Nguyệt. Đã có kinh nghiệm về sự man rợ của lũ anh họ, nên tôi muốn bỏ đi. Nhưng sự tò mò cuối cùng đã thắng, và tôi ra lệnh cho Jimmy:

- Mày vô nhà trước đi. Anh sẽ về liền.

Trước khi nó kịp phản đối, tôi đã đẩy nó qua cửa sau và chạy về phía chị Nguyệt. Chị ngồi bệt xuống đất, hai chân co lên sát ngực để cho cằm có thể dựa vào hai đầu gối. Ánh sáng chiếu từ khung cửa sổ vừa đủ khiến cho thân hình gầy gò của chị khỏi trộn lẫn vào bóng tối bao quanh... Chị ho húng hắng, hai tay chị che lấy miệng một cách lịch sự. Tôi tiến đến trước mặt chị và cất tiếng hỏi:

- Chị muốn gì?

Chị đáp, môi run run vì trời lạnh:

- Không có gì, chỉ coi em thôi. Kiên, chị thấy em chôn con chó. Chắc em hận mấy đứa em chị lắm. Chị muốn thay cho lũ chúng nó mà xin lỗi em. Hồi chiều, tụi nó tệ quá đỗi.

Tôi chẳng biết trả lời chị ra sao. Chị vỗ nhẹ vào nền đất và mời tôi:

- Em ngồi xuống đi.

Tôi ngồi xuống theo lời mời của chị. Chị lại hỏi:

- Kiên, em có biết tên chị là gì không?

Tôi gật đầu

- Ánh Nguyệt.

- Đúng rồi, nhưng em có biết tiếng Mỹ thì gọi là gì không?

Tôi lắc đầu còn chị thì mỉm cười. Bàn tay của chị vuốt lên đầu tôi:

- Dịch ra tiếng Mỹ là Moonlight. Nghe xuôi lỗ tai quá hả?

Tôi đồng ý:

- Vâng, rất xuôi tai.

- Vậy kể từ nay em gọi chị là chị Moonlight đi nhé, như hồi chị còn ở trong trường các bạn chị cũng gọi như thế.

Chị co tay lại che miệng, giọng nói lúng búng như thể đang có đồ ăn đầy mồm:

- Vừa rồi chị thấy có một thằng bé. Nó đi đâu rồi?

- Nó về nhà rồi.

- Tại sao hôm nay nó không ăn trộm ổi vậy?

Tôi lắc đầu:

- Nó nói là có kẻ nào đó đang rình nó. Có thể là nó đang ám chỉ chị đó, chị Nguyệt.

Chị chỉnh lại tôi:

- Moonlight chứ!

Tôi nhắc lại:

- Chị Moonlight.

- Nó có nhắc gì về mấy đứa anh trai nhà nó không?

Tôi quyết định nói thẳng ra với chị:

- Dạ có. Nó nói là một ngày nào đó, anh em nhà nó sẽ nện cho lũ em nhà chị một trận vì mọi người đều nghĩ là lũ em chị chỉ là một lũ chuyên môn đi bắt nạt người khác.

Chị phá lên cười và vuốt tóc tôi:

- Có giỡn không đấy? Có thật nó nói như vậy không? Tụi nó sức mấy mà đánh nhau. Hai bên đã từng là hàng xóm của nhau bao nhiêu năm rồi, chị chưa từng thấy lũ con trai nhà bên ấy gây gổ với bên này bao giờ.

Tôi hỏi:

- Tại sao không?

Chị bỗng nhiên đổi giọng ra vẻ người lớn:

- Tại vì... Ồ, thôi, dẹp chuyện đó đi. Em còn quá bé để hiểu được vấn đề.

Tôi nói một cách tự hào:

- Chị cứ thử nói đi, em hiểu thiếu gì chuyện.

- Ồ, có thiệt không đó? Cũng có thể em hiểu đấy, nhưng em có giữ kín được bí mật không?

Tôi gật đầu, bồn chồn chờ đợi. Chị cảnh giác tôi:

- Coi chừng đó, em mà tiết lộ cho ai về điều mà chị sắp nói ra thì lũ em của chị sẽ không tha kiếm đó. Và chị đoán chắc với em là khi đó em sẽ đoàn tụ với con Lulu sớm.

Tôi trả lời chị:

- Chị Moonlight, em xin hứa là sẽ không nói với ai hết, kể cả Jimmy.

Chị bắt đầu kể:

- Thôi được, như thế này. Câu chuyện liên quan đến anh cả thằng bé ấy và chị. Anh này và chị quen nhau từ lâu. Tên ảnh là Tống Ty.

Chị nghiêng đầu, tì cằm lên hai đầu gối, hai tay bó lấy mắt cá chân. Ngước mắt lên nhìn trời cao, chị tiếp tục thì thầm:

- Chị và ảnh lớn lên cùng với nhau, và bẩy năm trước đây, anh Ty bắt đầu tỏ tình với chị. Đó là một điều bí mật. Tuyệt đối gia đình chị không thể biết việc này, em hiểu chứ?

Tôi hỏi:

- Tại sao vậy? Mọi người không thích chị hẹn hò với anh ấy ư?

Chị đáp:

- Không phải, vấn đề có đôi chút phức tạp hơn là như thế. Trước khi Sài Gòn sụp đổ, gia đình của ảnh không muốn cho anh ấy lấy chị vì họ giầu, còn bên chị thì nghèo. Anh Ty lại là con trai trưởng nên ba má anh muốn anh kết hôn với một người mạnh khỏe và mắn con. Còn chị thì vừa ốm yếu lại vừa bị lao phổi. Nhiều lý do để cha mẹ anh chống lại mối liên hệ giữa hai người. Bây giờ, những người Cộng sản tịch thu hết của cải của họ thì đến lượt gia đình của chị lại coi khinh bên ấy.

Chị ngừng lại, chìm đắm trong ý nghĩ của chị. Tôi hỏi:

- Vậy chị làm cách nào bây giờ?

Chị cọ nhẹ gương mặt vào lớp quần lụa trong dáng lắc đầu, đáp:

- Chị cũng chẳng biết nữa. Sự thực là, cha của anh ấy là một sĩ quan cao cấp trong quân đội Cộng Hòa. Ai cũng cho là họ có lý lịch xấu, giống như nhà em vậy. Ba chị thì không muốn chị dính líu tới thành phần có tội như ảnh. Sự việc cả thành phố biết là có liên hệ với gia đình em đã đủ tệ hại rồi. Cho nên, cũng thông cảm về chuyện chị bị cấm gặp anh ấy.

Tôi hỏi:

- Nhưng gia đình em thì có vấn đề gì kia chứ?

Chị Moonlight trả lời ngay:

- Không có gì hết.

Rồi chị thêm:

- Trừ một điều là chính các em đã khiến cho họ nhớ lại quá khứ. Đó là cái bề ngoài lạc lõng của em và Jimmy, với lại cái cung cách mà mẹ em kiếm tiền thông qua sự liên hệ với người ngoại quốc. Mọi người trong gia đình của em đều là dân tư bản.

Tôi cãi lại:

- Thì ba chị cũng vậy. Ông ấy cũng ở trong quân đội Cộng Hòa mà.

- Đúng. Nhưng nhà nước biết rằng ba chị chỉ là thứ đi quân dịch cấp thấp và chỉ làm việc trong văn phòng thôi. Ông ấy không giết một ai ngoài mặt trận, nên có khác chứ. So sánh với hầu hết mọi người trong xóm, nhà chị được gọi là giai cấp lao động thấp kém nhất miền nam.

Chị nhìn tôi qua đôi hàng lông mi:

- Nghe này, chị đâu có đặt ra luật lệ, đừng có mất công cãi cọ với chị. Ngoài ra, tại sao mình lại chống nhau chứ? Nếu phải đảo ngược vị thế, thì gia đình em cũng đối xử với gia đình chị như vậy thôi. Đời là thế mà, Kiên. Mình hãy làm bạn với nhau vì chị muốn Kiên giúp chị.

- Giúp chị à? Giúp gì?

- Em quen Tống Duy. Nếu em la cà với nó thì sẽ có lúc em gặp anh nó dễ dàng. Lúc đó, em có thể chuyển cho anh Ty lời nhắn của chị được không? Nếu chị có thể nhờ được một đứa em trai hay em gái của chị thì chị chẳng làm phiền đến em. Nhưng chị biết là chúng nó sẽ từ chối.

Tôi hỏi chị với một sự bồn chồn:

- Chị nhắn tin gì vậy?

- Ngay bây giờ thì chị cũng chưa có tin gì. Có thể là vài hàng chữ, hoặc vài món quà, đại loại là như thế. Chị cũng chưa rõ hẳn. Nhưng khi đã có rồi thì em có chịu giúp chị không?

Chị nhìn tôi, mắt đầy hy vọng. Nhưng cùng một lúc, tôi phát hiện trên gương mặt của chị có cái gì khang khác, - một vẻ tuyệt vọng. Tôi đành phải hứa với chị cái điều mà chị cần nghe. Chị nhoài qua ôm lấy tôi, mái tóc của chị xòa xuống mặt tôi:

- Tốt! Cảm ơn em. Em đúng là con chim xanh bé nhỏ, thân yêu của chị. Chị sẽ cố hết sức để cho lũ em thô bỉ của chị sẽ không làm phiền tới em và Jimmy nữa.

Tôi đứng nhìn chị khuất vào sau cánh cửa nặng nề rồi mới trở về nhà. Ở trên sàn, cạnh cây đèn dầu là một phần cơm nhỏ mà bà ngoại đã để cho tôi. Mẹ tôi thì đã khóa cửa nằm một mình trong buồng nhưng chưa ngủ. Tôi nghe tiếng sụt sịt của bà sau cánh cửa hình như bà đang bị cảm lạnh. Jimmy thì đang nằm trên giường chăm chú nhìn tôi. Tôi chui vào tấm nệm trải giường, bỏ mặc phần ăn tối trên sàn. Chỉ một thoáng là tôi đã ngủ say.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:17 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Bảy

Mùa hè năm 1975 ấy mưa nhiều hơn nên đất không kịp thấm. Khắp nơi trong thành phố đều có những vũng nước đọng tạo điều kiện cho ký sinh trùng nẩy nở khiến cho bệnh tật tràn lan với một tốc độ nhanh chóng. Bệnh sốt rét, bệnh kiết lỵ và bệnh lao thi nhau hoành hành. Trong cố gắng kiềm chế, nhà nước cộng sản thiết lập một hệ thống y tế huấn luyện cho mọi người để họ có thể tự săn sóc chính họ. Cứ mỗi tuần ba lần, một nhóm y tá lại kê bàn ra bên ngoài cổng phường, phân phát cho mỗi người một liều thuốc ký ninh để ngăn ngừa bệnh sốt rét. May mắn thay, xóm tôi chưa thấy xẩy ra bất cứ một thứ dịch bệnh nào.

Tháng tám chậm chạp trôi qua trong khi thành phố điều chỉnh theo sự sắp xếp mới. Một hôm bác trai tôi hối hả chạy vào nhà tôi. Vì sự sai lầm trong quá khứ mà bác bị giam trong trại tập trung mất một tuần lễ. May mắn thay, ông tôi lại được bãi miễn cái loại gian khổ ấy vì sự tàn tật của mình. Vào cái hôm mà bác tôi được thả ra, ông tới nhà tôi để cảnh giác mẹ tôi về những tin tức thâu lượm được trong trại giam.

Trên khắp thành phố, người Cộng sản đã thi hành một chiến lược mới để triệt hạ chủ nghĩa tư bản, khởi sự từ dân giầu có cư ngụ ở khu phố tầu, sau lan tới các phú hộ ở miền quê. Đó là một kế hoạch khá giản dị. Mỗi ngày, cán bộ của nhà nước chỉ định đại một khu vực dùng làm mục tiêu. Tại mỗi nơi này, họ lục soát tất cả mọi nhà và đặc biệt họ chuyên chú tới tất cả những người có máu mặt trong vùng. Muc tiêu chính là để tìm ra của cải bị cất dấu hoặc những bằng cớ chứng tỏ rằng đương sự đã phạm trọng tội trong quá khứ. Trong khi nhân viên nhà nước lục soát đồ đạc, của cải thì mọi người trong nhà bị dồn hết vào một góc. Bất cứ vật gì có giá trị đều bị tịch thu hoặc bị phá hủy tức thì. Nếu gia chủ bị phát giác là có dính líu tới quá khứ một cách nặng nề, tùy theo mức độ tội phạm, đương sự sẽ bị giải tới trại giam tù cải tạo hay chờ bị đưa ra tòa án xét xử. Ngay cả bọn con nít cũng không tránh khỏi cuộc lục vấn vì có nhiều trường hợp cha mẹ chúng đã khôn ngoan cất dấu của cải nơi con cái.

Với sự trợ giúp của các anh em họ tôi, Mẹ tôi đã làm một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng đồ tế nhuyễn, của riêng tây, lựa ra những món kỷ niệm có liên quan đến quá khứ vàng son của bà, nhất là những cái có dính dáng đến cha tôi và cha của Jimmy. Bà đem dấu tất cả vào một cái hộp đựng giầy, nhét thêm vào đó một nửa số nữ trang. Nửa số còn lại thì vẫn còn được cất dấu trong túi quần của tôi. Chờ lúc đêm xuống, bà đem hộp giầy ra chôn ở sân cỏ phía trước.

Tại nhà bên cạnh, gia đình của Duy không có may mắn như thế. Bọn Cộng sản đã lục lọi từng xó xỉnh, đào bới lung tung. Lúc trở ra, họ còng tay ba của Duy mang đi, trên một chiếc xe vận tải nhà binh. Mẹ của Duy chạy theo chồng rền rĩ khóc than như một con thú bị thương trong khi chiếc xe vẫn lầm lũi chạy trên con đường đất bụi, nhả đám khói đen đặc vào mặt bà. Giữa lúc tôi đang đứng bên cạnh bà tôi trên sân cỏ phía trước để coi quang cảnh nhốn nháo ở nhà hàng xóm thì chị Moonlight đến đứng ngay sau lưng tôi. Chị trỏ tay về anh Tống Ty và thì thào vào tai tôi:

- Kiên à, em đưa cái này cho anh ấy giùm chị nhé, Chị dúi vào tay tôi một tờ giấy nhỏ. Tôi hỏi lại

- Bây giờ à? Đưa giữa vào lúc như thế này sao?

- Phải rồi. Ngay bây giờ

Nói xong chị đứng dậy bỏ đi trước khi bố mẹ của chị kịp nhìn thấy. Tôi tiến về phía cửa nhà bên cạnh và đảo mắt tìm anh Ty trong đám lố nhố của gia đình anh. Anh đứng ngay bên cạnh bà mẹ, cánh tay ôm lấy ngang lưng của bà để cho bà đừng khỏi xỉu. Bà khóc ngất trên vai của anh bất kể sự tò mò nhòm ngó của mọi người qua lại. Trước cảnh tan hoang, anh Ty tỏ ra cứng rắn và vững vàng. Anh không nhận ra tôi lúc tôi luồn tới gần anh. Còn Duy thì ngưng khóc và nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên.

- Xin lỗi nhé, Duy!

Duy không trả lời tôi. Đứng lẫn trong đám anh em hoảng hốt thất thần của Duy, tôi cảm thấy lạc lõng khi họ kéo nhau vào nhà. Lúc anh Ty đi qua trước mặt tôi, tôi nhét vào tay anh mảnh giấy của chị Moonlight. Trước khi anh kịp bước đi thì tôi đã thì thào vào tai anh:

- Của chị Ánh Nguyệt đấy.

Anh nói cảm ơn và tôi chạy về nhà. Tới sân trước, tôi thấy chị Ánh Nguyệt đang đứng ở đó, nháy mắt với tôi và mỉm cười.

Sau khi chờ đợi cả mấy tuần lễ coi người Cộng sản có biện pháp gì mẹ tôi nhận ra rằng, sau khi đã lấy được căn biệt thự thì họ chẳng còn coi chúng tôi như một sự đe dọa ghê gớm nữa. Thấy an tâm, mẹ tôi đi thu lượm lại những món đồ đã chôn. Nhưng bà thất đảm khi thấy cái hộp đã chôn nay biến mất. Sau năm tiếng đồng hồ xới tung cả đám cỏ lên, bà cho rằng cái hộp đã bị cuốn trôi ra biển vì có dòng nước ngầm ở dưới. Tình trạng này cũng thường xẩy ra khi người ta đem chôn đồ vật mà lại đào quá sâu.

Mấy tháng cuối cùng trước khi mẹ tôi sanh nở, không khí trong gia đình càng lúc càng nặng nề, khó thở. Vì cả gia đình tôi chẳng ai có công ăn việc làm nên tất cả phải sống nhờ vào việc bán dần các món nữ trang của bà. Chuyên thai nghén cũng không được suông sẻ như bà trông đợi. Ở tháng cuối cùng bà gặp trục trặc hai lần. Lần băng huyết thứ nhì lại còn kèm theo những đợt quặn đau rút khiến cho bà nghĩ rằng đứa bé sẽ bị đẻ non. Trong lúc rối trí, bà hối hả chạy tới bệnh viện, nhưng ở đấy cho biết là chưa có triệu chứng đẻ. Thế là bà lại hối tiếc vì đã tốn tiền chi phí cho bệnh viện trong lúc tiền bạc eo hẹp.

Cũng vào thời gian đó, dượng Lâm bị ông trưởng phường gọi đi làm lao động tập thể trong mười lăm ngày, mà thực chất là là sự khổ sai cưỡng bách trong một khu rừng cách thành phố năm mươi cây số. Lâm đã từ chối không đi. Vì sợ rắc rối, mẹ tôi đã thuê một người anh họ của tôi đi thay. Thật ra, sự đánh tráo như thế này thường thường là xuông lọt. Nhưng, trong cái ngày xui xẻo đó, tay trưởng phường tình cờ phát giác ra sự thay thế gian trá này khi ông dự định đưa Lâm lên làm tổ trưởng lao động. Và ông ta nhận ngay ra đó là anh Lễ chứ không phải là dượng Lâm.

Dù cho dượng Lâm đã thoát được chuyện này, không có rắc rối gì quan trọng xẩy ra, nhưng sự mâu thuẫn giữa gia đình tôi và ông ba Quì, viên trưởng phường, đã tới một ngã rẽ mới. Theo ông ta, thì nếu gia đình tôi có khả năng thuê mướn được kẻ thay thế thì có nghĩa là chúng tôi còn giữ được của cải mà không khai với nhà nước. Tình trạng này khiến cho mẹ tôi và dượng Lâm càng xa cách nhau hơn, đến nỗi chẳng ai nói với ai một lời. Một vài người trong xóm còn cho rằng mẹ tôi và dượng Lâm chẳng còn có vẻ là một cặp bồ bịch nữa.

Cứ mỗi ngày qua đi, mẹ tôi lại tỏ ra khó chịu và bứt rứt. Những cơn mưa dầm và cái bụng bầu càng ngày càng to đã khiến cho bà mất hết kiên nhẫn, ngay cả đối với những chuyện vụn vặt. Vào một buổi tối, giờ cơm, chúng tôi ngồi trên sàn ăn cơm với cá mặn do bà ngoại tôi nấu. Kể từ khi chị Loan đi khỏi, bà ngoại tôi thay thế làm công việc vặt trong nhà như bếp núc, dọn dẹp, giặt giũ. Nếu không bị hành bởi bệnh tê thấp, bà tôi đã có thể là một đầu bếp giỏi. Nhưng, cũng như tối hôm đó, hầu như tất cả mọi bữa, chúng tôi đều chỉ có cơm với cá khô mà thôi.

Mẹ tôi đang ngồi im lặng ăn, bất thình lình ở phía đối diện, dượng Lâm cau mày nói:

- Nhìn tôi đây này.

Mẹ tôi vẫn tiếp tục ăn coi như chẳng nghe thấy gì. Trong khi ấy, Jimmy lấm lét nhìn hai người. Tôi nắm lấy tay nó và biết rằng nó sắp khóc. Sự im lặng của mẹ tôi khiến dượng muốn điên lên, tay ông ta đập xuống sàn, to tiếng hơn:

- Tại sao cô không nhìn tôi? Tôi chịu hết nổi cái thói bỉ mặt này nữa rồi.

Vẫn thế, cách trả lời độc nhất của mẹ tôi là tăng thêm sự ghẻ lạnh. Dượng quát:

- Đừng có giỡn mặt với tao, con đĩ thối.

Trong cơn giận dữ, lời xỉ nhục của dượng vọt ra nghe khàn cả giọng. Rồi dượng ném cả nửa bát cơm đang ăn vào mẹ tôi rồi bỏ ra ngoài châm thuốc lá. Những hạt cơm bắn tung tóe lên tóc, lên cả mặt mẹ tôi mà bà cũng không buồn phủi đi. Bên cạnh tôi, Jimmy bắt đầu lên tiếng khóc.

Khuya đêm ấy, dượng Lâm luồn vào trong giường của tôi. Đang nằm sấp, tôi không biết rõ có dượng mãi cho đến khi tôi bị sức nặng của dượng đè lên mới choàng dậy. Hắn ta dùng tay bịt mồm tôi lại để tôi khỏi la lên. Tôi choáng váng tỉnh giấc mà không biết có chuyện gì đã xẩy ra. Bên tai tôi, giọng của hắn thì thào:

- Mày mà kêu tao bẻ gẫy cổ.

Thoạt tiên tôi chắc là mình đang ở trong một cơn ác mộng, và tôi cố vùng vẫy để thức dậy. Nhưng bàn tay của dượng đè chặt lên mặt tôi và đem tôi trở về thực tế. Tôi cố giẫy giụa để thoát ra khỏi sự ghì cứng của hắn và cố hớp chút không khí. Nhưng tôi không có đủ sức mạnh để thoát ra khỏi, tôi cảm thấy nghẹt thở. Chắc là tôi chết quá. Tôi thầm van xin và cảm thấy óc căng phồng lên như một quả bóng đầy hơi, sắp phát nổ. Tôi nghĩ đến Lulu và thầm hỏi rằng trước khi chết, con chó của tôi có cùng một cảm giác hãi hùng như thế này hay không. Yếu dần, tôi không còn vùng vẫy được nữa. Ngay khi tôi ngừng cựa quậy thì dượng lơi những ngón tay ra, không ghì lên mặt tôi nữa, khiến chút không khí có thể ùa vào trong phổi của tôi. Tôi hăm hở hớp lấy sự sống, đến nỗi phát nghẹn vì đờm của chính mình. Dượng gằn giọng, thì thào:

- Nghe đây và nghe cho kỹ, thằng nhóc. Sau này mày lớn lên, nếu muốn trách ai đã gây ra chuyện này thì hãy trách mẹ mày. Mụ đã gây sự trước, ngay khi mụ giết đứa con chưa chào đời của tao.

Giọng của dượng tuy gần mà nghe xa văng vẳng. Tuy nhiên tôi cũng hiểu được ông ta nói cái gì, những lời lẽ ấy nhiễu vào tâm hồn tôi như những giọt mực. Ở bên ngoài, trời đã về khuya, có ánh trăng chiếu qua khung cửa sổ soi rõ mọi vật trong phòng, kể cả những ngón tay như những móng vuốt bấu sâu quanh cổ tôi. Dượng một tay kéo cái quần pyjama của tôi xuống, và cởi cả quần của dượng, còn tay kia thì vẫn giữ cứng lấy tôi. Tôi vừa sợ hãi vừa cảm thấy nhục nhã nhưng cũng vẫn chẳng hiểu dượng toan tính làm cái gì. Trong cơn bối rối và hoảng loạn, tôi cảm thấy người tê cứng lại. Rồi bất chợt một cơn đau điếng như một làn sóng ùa vào cơ thể của tôi trong khi dượng hầm hừ và nhún nhẩy trên mình tôi. Tôi muốn gào lên mà không thể được. Tôi cũng không còn khóc được nữa, tất cả trong tôi chỉ còn là một sự trống rỗng cứ mỗi phút lại tăng trưởng hơn, lạnh lùng hơn.

Trước khi rời khỏi thân mình tôi, dượng dứ dứ nắm tay lên mặt tôi và nói:

- Giữ kín chuyện này giữa tao với mày thôi, nhóc, lần sau thì tao có thể nhẹ nhàng hơn. Nếu mày ngu đến nỗi đi mách mẹ mày thì tao sẽ tìm tới thằng em của mày.

Hắn ta chẳng cần cảnh cáo để bịt miệng tôi lại. Sự nhục nhã và cô đơn mà tôi cảm nhận không phải là những cảm giác mà tôi muốn chia sẻ với bất cứ ai. Tôi nằm vùi trong đống gối, lắng nghe tiếng chân của hắn rời xa và cố gắng ngăn chặn sự tủi nhục đang ăn xói vào tâm hồn của mình.

Hắn đã đi khỏi rất lâu mà tôi vẫn nằm trần truồng, bất động trên giường. Đầu óc tôi trống rỗng. Tôi đắm mình vào cái vỏ kén, như đã chết, lạnh lẽo, không hồn, và vào cái giây phút ấy thì tôi chỉ còn có cách đó để yên thân.

Ngày hôm sau tôi ngủ vùi dưới tấm khăn trải giường trùm kín đầu. Tới giờ ăn sáng, mẹ tôi đi tìm tôi. Bà thấy tôi run rẩy dưới tấm khăn. Lo lắng, bà kéo tung ra để quan sát. Tôi nhìn chăm chăm lên trần nhà ở phía sau khuôn mặt của bà.

Một tay bà quơ lấy tôi, tay kia thì đập vào tôi rồi bà kêu lên:

- Dậy đi, Kiên.

Thấy tôi vẫn chẳng nhúc nhích, giọng bà trở nên hốt hoảng:

- Có chuyện gì thế, con nói đi. Con bị cái gì thế? Ôi trời ơi, máu ở đâu ra thế này?

Sự hoảng hốt của bà lôi tôi trở về hiện tại, với căn phòng, nơi mọi người đang tò mò nhìn tôi. Nằm ườn ngang giường, dượng Lâm ngó tôi dòm chừng. Cái nhìn tăm tối của dượng giật tôi ra khỏi trạng thái ngơ ngẩn. Tôi lắp bắp:

- Con... con như thường mà mẹ. Con chỉ hơi mệt thôi.

Mẹ tôi rờ lên đốm máu khô trên nệm giường, hỏi:

- Vết máu này ở đâu ra vậy? Con chảy máu ở đâu vậy kìa.

Dượng Lâm xen vào:

- Nó bình thường mà. Hãy để cho nó yên.

Mắt hắn không rời tôi trong khi vẫn nói với mẹ tôi:

- Sáng sớm hôm nay nó hơi bị chảy máu cam. Tôi đã giúp nó cầm máu rồi. Có phải không, Kiên?

Tôi gật đầu. Nhưng mẹ tôi không chịu. Bà cau mày vẻ hoài nghi:

- Chảy máu cam à? Không thể như thế được. Xưa nay có bao giờ nó bị chảy máu cam đâu. Có chắc như vậy không?

Hắn quả quyết:

- Chắc vậy mà. Để yên cho thằng bé nghỉ ngơi đi. Nếu tình trạng nó không thấy khá hơn thì tụi mình sẽ mang nó đi bác sĩ được không?

Những lời của hắn có vẻ như đã làm cho mẹ tôi dịu đi, bà đặt tôi nằm dựa lưng trên gối. Dượng níu lấy vai của mẹ tôi, dẫn bà ra ngoài.

Chỉ một chút sau, hắn quay lại, lật cái khăn trải giường lên và nói:

- Dậy, đi ra khỏi giường ngay. Mày phải làm cho má mày tin là mày không có ốm. Nếu không, mẹ mày mà moi ra mày đã là cái thứ gì trong đêm hôm qua thì tao sẽ không che dấu cho mày nữa.

Hắn đẩy tôi ra khỏi phòng, thẳng tới sân cỏ phía trước. Tôi ngồi ở bậc thềm, tay ôm lấy bụng một hồi lâu. Cái đau ngầm ở bên trong làm cho tôi thấy khổ sở. Tôi cũng đang còn cảm thấy máu rỉ ra trong quần lót và mùi của nó làm tôi phát buồn nôn. Ở phía bên kia bức tường, Duy giơ tay vẫy, ra hiệu cho tôi qua bên đó. Cố quên chuyện đã xẩy ra, tôi qua chơi với nó và con Ngốc mãi tới tận bữa cơm chiều.

Đêm hôm ấy mẹ tôi qua giường tôi, kéo tôi vào lòng. Bàn tay mềm mại của bà đặt lên trán tôi để xem nhiệt độ. Nằm trên giường của hắn, dượng Lâm hé mắt nhìn qua. Sự hiện diện của hắn làm cho tôi bồn chồn, mẹ tôi hỏi:

- Con thấy thế nào, Kiên?

- Con khỏe rồi

- Có chắc không? Mẹ thì không thấy như vậy.

Sau một chút yên lặng, bà nói tiếp với giọng đầy lo lắng:

- Kể cho mẹ nghe chuyện gì đã xẩy ra. Mấy tuần lễ qua rồi, chẳng lẽ con vẫn còn giận mẹ vì chuyện con Lulu.

Thay vì trả lời bà, tôi nhắm mắt lại giả vờ ngủ. Mẹ tôi tiếp:

- Con à, tuy là việc khó cho mẹ, nhưng mẹ hứa là ngày mai sẽ tìm cho con một con chó khác nếu con hứa với mẹ là sẽ khỏe lên

Tôi mở mắt ra. Dưới ánh sáng mờ nhạt, khuôn mặt mẹ tôi hằn lên vì những nếp nhăn mới. Mắt bà đẫm lệ. Tôi khẽ lắc đầu trước lời gợi ý ấy. Bà hỏi:

- Con không muốn một con chó khác à?

- Không.

- Vậy nói với mẹ con muốn cái gì. Con chó bên nhà hàng thịt vừa mới đẻ xong. Mẹ đã nói với ông ta là để dành cho con một con chó nhỏ rồi. Nếu con không ưng thì mẹ làm gì với con chó ấy.

- Cho Jimmy. Con không thích chó nữa, mẹ à.

- Được rồi, nếu con chắc chắn như thế. Nhưng hãy khỏe lên, mẹ cần con.

Bà hôn tôi rồi tắt ngọn đèn nhỏ và đi ra ngoài. Lúc bà đi khỏi. Trong bóng tối, tôi dè trước sự mò tới của dượng Lâm bằng từng sợi gân thớ thịt của tôi. Nhưng sau cùng thì tiếng ngáy như kéo gỗ vang lên trong sự im ắng của căn buồng và rồi tôi còn nghe tiếng ú ớ những điều gì vớ vẩn trong cơn mơ.

Tôi bò ra khỏi giường cầm theo cái gối. Lặng lẽ, tôi nhón gót lần ra khỏi phòng để tới khu vườn.

Bên ngoài, từng cụm mây nặng trĩu treo lơ lửng trên những lùm cây báo hiệu cơn mưa đang tới. Cây cối biến dạng như những con quái vật đang rên rỉ theo gió. Trí tưởng tượng của tôi biến mọi thứ trong vườn thành những hình dị dạng chung quanh tôi. Nhưng dù vậy, đây cũng còn là nơi đỡ đe dọa hơn nhiều so với căn buồng của tôi.

Tôi ngả mình nằm xuống thềm nhà. Trên cao khoảng ba mét, cái mái hiên bằng tôn che gần hết tầm nhìn của tôi lên bầu trời. Cách xa tôi một khoảng ngắn, ngôi mộ của Lulu nằm dấu trong lòng đất. Sự hiện diện của nó có vẻ cũng làm vơi đi nỗi lo lắng của tôi và tôi bắt đầu cảm thấy thư thái hơn. Giấc ngủ đến với tôi rất mau nhưng chẳng kéo dài. Từ rất sâu trong tiềm thức, tôi nhớ lại lời đe dọa của dượng Lâm, giọng của hắn như vang vọng lên: “Này, Kiên. Lần sau tao sẽ tìm tới em của mày. Lần sau tao sẽ tìm tới em của mày. Lần sau tao...”

Tôi chồm lên khỏi nền đất lạnh và chạy tuốt vào trong nhà. Nín thở, tôi đi chân đất và rón rén qua giường của Lâm. Em tôi đang ngủ say nên không biết có tôi tới bên cạnh. Tôi lay nó dậy, bịt mồm để nó khỏi kêu lên. Jimmy mở mắt ra và nhìn sững tôi. Tôi thì thào vào tai nó:

- Dậy, đi theo anh.

Mắt nó hấp háy, nhưng nó không kêu lên và cũng thì thào với tôi:

- Mình đi đâu vậy?

- Đừng hỏi. Cầm theo cái gối và cứ đi theo anh.

Tôi đỡ nó ra khỏi giường và dẫn nó ra vòm cổng phía trước. Jimmy không hỏi thêm gì nữa mà chỉ nhìn tôi bằng đôi mắt tin cậy. Tôi bảo nó nằm xuống mặt hè, Tôi cũng nằm xuống, lấy tay choàng lên nó để che cho nó khỏi lạnh chừng nào tốt chừng đó. Chúng tôi ôm lấy nhau ngủ khi mưa bắt đầu rơi. Cái mái hiên đã che cho chúng tôi khỏi bị mưa hắt xuống gần suốt một đêm trường.

Sáng hôm sau, mẹ tôi điên tiết lên khi phát giác chúng tôi không có ở trong giường. Đang ngủ ngon thì nghe bà thét lên đong đỏng bên tai chúng tôi:

- Dậy ngay lập tức! Tại sao tụi bây lại ngủ ngoài mưa thế này?

Chúng tôi choàng dậy ú ớ, nhưng chẳng biết nói sao. Mẹ tôi rên rỉ:

- Trời ơi, cái lũ này. Tại sao tụi bay làm phiền tao đến như thế. Nói đi, tao đã làm gì mà phải lãnh quả báo này.

Rồi bà quay sang tôi:

- Còn mày, bộ không nhớ những gì tao dặn đêm qua sao?

Phía sau bà là ông ngoại tôi, đứng tựa cửa và nhìn chúng tôi với vẻ lo ngại. Nằm trên sàn, Jimmy bỗng hắt hơi. Khuôn mặt của nó đẫm mồ hôi và đỏ như đang lên cơn sốt. Mẹ tôi la lên:

- Coi kìa, thằng em mày phát ốm lên rồi.

Bà bế nó lên tay và hầm hè với tôi:

- Vô trong! Tao sẽ giết cả hai đứa tụi bay!

Bà đặt Jimmy vào giường rồi quay sang tôi:

- Có phải chính mày đem em ra ngoài ngủ đêm qua, phải không?

Tôi sợ hãi, gật đầu. Bà rít lên:

- Tao biết mà. Mày có điên không hay là mày muốn nổi loạn chống lại tao đây?

Bà túm lấy vai tôi. Những móng tay của bà, với cung cách quen thuộc, bấu vào chỗ có da có thịt của tôi. Tôi đau đớn la lên:

- Con xin lỗi. Tại đêm qua con sợ quá.

- Sợ? Mày sợ cái gì?

- Con không biết, mẹ ơi.

Ông ngoại tôi bỗng chen vào:

- Thôi. Nó còn bé mà. Chúng nó đã bị đầy đọa đến thế mà vẫn còn chưa đủ sao? Từ từ rồi chúng nó quen dần với tình thế mới, con ơi. Khi đứa trẻ sợ thì ắt phải có lý do. Vậy sao không hỏi nó mà cứ đánh nó như kẻ thù vậy?

Mẹ tôi quát lên:

- Nó hư đốn rồi. Nó làm cho thằng kia phát ốm lên. Rồi không biết nó còn giở cái trò trống gì nữa đây. Con biết làm sao bây giờ?

Ông tôi nói:

- Đừng có la lối nữa. Ắt phải có chuyện gì ghê gớm xẩy ra cho các cháu của ba, khiến chúng nó phải bỏ cái giường êm ấm ngay giữa khuya khoắt mà kéo nhau ra ngủ giữa trời lạnh như thế chứ. Cứ để ba hỏi nó cho.

Rồi ông quay sang tôi, hạ thấp giọng xuống, thì thào:

- Kiên, nói cho ông nghe tại sao con không ngủ trong giường đêm hôm qua. Tại sao con lại ngủ ngoài trời như bọn lang thang không nhà không cửa thế? Con trốn chạy cái gì vậy?

Tôi không trả lời ông. Cơ thể của tôi quá suy sụp khiến cho mặt tôi nóng lên và choáng váng. Tôi phải đứng dựa lưng vào tường cho khỏi ngã.

Ông tôi thở dài thất vọng. Quay sang phía mẹ tôi, ông nói bằng một giọng mạnh mẽ bất thường:

- Đây là sự sắp đặt mới. Kể từ hôm nay, thằng Kiên sẽ ngủ với ba, còn thằng Jimmy thì tạm thời thì ngủ với bà ngoại. Như vậy có thấy khá hơn không hả cháu?

Tôi gật đầu. Với vẻ hài lòng, ông tôi quay về buồng ông. Từ trên giường, dượng Lâm rít lên qua kẽ răng và bước ra ngoài. Mẹ tôi bực bội càu nhàu:

- Con hy vọng ba không làm hư chúng nó

Rồi bà cũng bước ra ngoài, giận dỗi nện chân thình thịch.

Ở ngoài cửa trước, ông hàng thịt bỗng xuất hiện với con chó nhỏ nằn yên ổn, ngoan ngoãn trong lòng bàn tay. Chẳng ai chú ý đến ông ta trừ em tôi. Nó nhẩy ra khỏi giường, chạy tới ông ta để đón lấy con chó và khẽ kêu lên sung sướng.

Ông tôi giữ lời hứa. Hằng đêm, ông đu đẩy ru tôi ngủ trong vòng tay của ông, cố gắng tối đa để giúp tôi xua tan đi cơn ác mộng. Cùng lúc đó, ở phòng bên, Jimmy cũng ngủ cạnh bà ngoại trên giường của nó...

Mẹ tôi đã tới cữ, vào tháng chín, đẻ sớm mất hai tuần lễ. Trong căn phòng dơ dáy của bệnh viện, cạnh khu phòng hoa liễu, mẹ tôi sanh em bé gái. Ngay từ giây phút đầu tiên mà nó bị đẩy ra thế giới bên ngoài, nó khóc liên tục như thể bị đau đớn không ngừng. Mẹ tôi gọi nó là bé Ti, một cái tên phản ánh sự dửng dưng của bà đối với nó.

Vài ngày sau, dượng Lâm tới thăm. Mẹ tôi đang cho bé Ti bú. Hắn cúi xuống dòm vào đứa con gái của mình. Mẹ tôi tránh không nhìn hắn. Với giọng mệt mỏi, bà hỏi:

- Anh muốn gì, Lâm?

Dượng thì thầm:

- Chẳng còn muốn gì ở đây nữa. Phải tìm cách ra khỏi cái đống bùi nhùi này thôi.

Và không đợi mẹ tôi trả lời, hắn tiếp:

- Thành thật mà nói, tôi với cô đã chán nhau quá rồi. Để cho cô thoải mái hơn, tôi đã tính ra một cách.

Mẹ tôi nói:

- Anh có thể nghĩ ra được cái trò gì?

- Tôi có mối rồi.

Hắn cúi đầu xuống, dí sát mũi vào mặt mẹ tôi, tiếp:

- Tôi cần một mớ tiền để vượt biên!

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:18 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Tám

Nha Trang - 1978

Ba năm trôi qua, gia đình tôi vẫn sống bên cạnh nhà của bác tôi. Mẹ tôi rất bận rộn trong công việc trông em bé Ti và thu nhập của chúng tôi chỉ trông có mỗi vào việc bán đi những đồ nữ trang của bà. Chúng tôi vẫn chỉ mặc những bộ quần áo mang đi từ biệt thự họ Nguyễn hồi trước. Trong mấy năm qua, Jimmy và tôi chẳng bao giờ có thêm quần áo mới vì mẹ tôi chỉ có nối thêm gấu quần và nới thêm thắt lưng để cho chúng tôi mặc vừa. Ngày hai bữa, món ăn chính thanh đạm của chúng tôi vẫn là cơm mà mẹ tôi đong ở chợ với giá tám đồng mỗi giạ. Dù mưa hay nắng, chúng tôi vẫn quay cuồng bên nhau để sống qua ngày.

Càng lớn, mầu tóc của tôi càng sậm hơn. Tôi cũng chả hiểu có phải là ước vọng của mẹ tôi khi bà tưới thuốc nhuộm lên đầu tôi hồi trước hay là do lòng khao khát của tôi, mong mỏi được hòa nhập với đám trẻ con trong xóm. Đến khi tôi được mười một tuổi, mái tóc vàng hoe của tôi ngả sang mầu nâu sậm. Ngay cả trong những ngày hè nóng nhất, ánh nắng mặt trời cũng không thể tẩy được nó cái mầu óng ánh bạc nguyên thủy.

Jimmy và tôi theo học tại trường tiểu học, ở đó chúng tôi tập trung vào các môn học như toán, văn, sử và khoa học. Tất cả đều được dạy theo quan điểm của người Cộng sản. Cô giáo San vẫn tiếp tục dạy ở lớp tôi. Cô còn mở thêm lớp dạy miễn phí ở ngay nhà cô vào mỗi chủ nhật. Những bài giảng tại đó, theo tôi còn nhớ, là những bài duy nhất không có mầu chính trị.

Cô San sống trong một ngôi nhà hai tầng cách chỗ tôi ở khoảng vài con phố. Cô dùng tầng dưới để sản xuất nước mắm, có ba cái chum lớn bằng đất nung, luôn luôn đầy nhóc, đặt ở đó. Mỗi chum chứa chừng một trăm đến một trăm rưởi ký cá và ướp bằng cũng chừng đó số lượng muối. Cô giải thích với chúng tôi rằng làm nước mắm là nguồn thu nhập chính của cô. Dạy học chẳng qua chỉ để cho vui thôi. Mùi cá ươn xông lên hôi nồng nặc, từa tựa mùi thối của răng sâu nhưng còn tệ hơn nhiều. Cái mùi kinh niên ấy bám vào quần áo cô, xông lên mái tóc, và như một loại chướng khí cuốn lấy thân thể cô. Bọn người lớn, đặc biệt là cánh đàn ông thì tránh xa cô. Họ sợ cái khác thường cố hữu ấy của cô. Nhưng lũ trẻ thì lại bị lôi cuốn bởi tính tình nồng ấm của cô và riêng tôi thì, quả thật, không ai thấy cô có sức thu hút hơn tôi.

Cứ đến mỗi buổi chiều chủ nhật là chúng tôi lại náo nức đón chờ cái buổi học thêm ở nhà cô. Ngồi trên sàn trong căn phòng ngủ lộn xộn của cô, giữa những bộ quần áo rải rác, chúng tôi chờ cô xuất hiện như khán giả chờ minh tinh. Trong một những môn ưa thích của cô là Anh ngữ. Cô thường nói với chúng tôi:

- Cách duy nhất để chúng ta xây dựng đất nước là học hỏi kỹ thuật của các nước khác. Mà làm thế nào để có thể tiếp thu được những kỹ thuật của họ? Hãy khởi sự bước đầu là học thứ ngôn ngữ quốc tế: đó là Anh ngữ.

Cô nháy mắt với chúng tôi và nở một nụ cười tinh quái:

- Hôm nay, mình đừng học theo sách. Thay vào đó là một cuộc khảo sát từ ngữ, được không? Trong giờ tới, ai cũng đều phải nói tiếng Anh. Trò chơi này rất khó, nhưng các em cứ thử xem. Sẽ vui đấy.

Chúng tôi hăm hở vì bị kích động. Từ bỏ không nói tiếng mẹ đẻ trong một cuộc bàn cãi giữa những đám đông như thế là điều cấm kỵ theo luật, nhưng lúc này chúng tôi lại cho là tự nhiên và vô hại. Khi cảm thấy chúng tôi còn ngập ngừng, cô San nói tiếp:

- Hãy giữ bí mật giữa chúng mình nghe, các trò.

Rồi cô đổi đề tài Anh ngữ và buổi học bắt đầu:

- Duy went out last night.

Tôi thấy bạn tôi ngồi thẳng lại. Còn cô San thì chỉ ngay một cô bé có tóc đuôi ngựa nhún nhảy và nói tiếp:

- Chi, hãy tiếp tục với cái ý đó.

Chi suy nghĩ trong khoảng mười giây rồi cẩn thận nói:

- Duy went out with a girl last night...

Có vài tiếng cười khúc khích trong đám học trò. Hình ảnh của Duy với người bạn gái có vẻ tức cười dù nói bằng bất cứ ngôn ngữ. Cô San hướng về phía tôi và nói:

- Kiên, tiếp tục đi.

Tôi đặt câu thật nhanh trong đầu rồi nói:

- Who was that girl?

Cô San nói:

- Câu hỏi hay đấy. Vậy, Duy hãy cho biết cô gái ấy là ai?

Duy đứng lên, gãi tai, ấp úng, nhìn cả lớp cầu cứu. Một vài người thì thào câu trả lời và hắn chộp lấy như người chết đuối vớ được cọc:

- The girl was... was... was... my... mother.

Hắn la lên như thế, giọng lạc đi vì quýnh quáng. Còn chúng tôi thì ngả ngốn vào nhau vì cười. Đứng dựa lưng vào tường, cô San cũng phì cười nữa. Trong bóng tối của căn phòng, tôi cho rằng cô là một phụ nữ rất đẹp, gần giống như ảo ảnh.

Hôm ấy, khi tan buổi học, cô San bảo tôi ở lại sau. Cô nói:

- Kiên à, em có nghĩ là cái mớ tóc này sẽ hoàn toàn hết quăn khi mình... ờ... cắt nó thật ngắn đi không?

Cô lướt những ngón tay trên đầu tôi với vẻ suy tư. Có cái gì đó trong cung cách cô đưa ra câu hỏi khiến tôi ngẩn người, e ngại. Tôi trả lời:

- Con cũng không biết nữa. Nhưng tại sao cô lại hỏi thế?

- Nhà trường đang chuẩn bị tổ chức liên hoan chào mừng ngày thống nhất đất nước. Ban giám hiệu đã lựa chọn lớp mình đi đầu đoàn diễu hành vì thành tích học tập tốt của lớp. Kiên thì lại là học trò giỏi nhất của cô nên cô định chọn Kiên cầm quốc kỳ đi đầu toán.

Ngừng lại một giây, cô nói tiếp:

- Chỉ có một vấn đề nhỏ là cô e rằng cái bề ngoài của Kiên có thể gây ra sự bối rối của khán giả thôi.

- Nếu cô muốn thì con sẽ đi cắt tóc ngay ngày mai.

Cô gật đầu:

- Đúng đó, cưng, cô nghĩ cách đó là tốt nhất. Cứ làm thế đi, cô sẽ dành cái vinh dự ấy cho em.

Một áng mây đen chợt thoảng qua mặt cô:

- Kiên, hãy làm tốt nhé. Chúng ta cũng chẳng còn được gần nhau bao lâu. Nhà trường sẽ nghỉ hè sau cuộc diễu hành. Em sẽ lên bậc trung học và cô sẽ chẳng còn nhiều dịp gặp lại Kiên nữa.

- Con sẽ tới thăm cô thường xuyên.

Cô nói giọng buồn bã:

- Rồi sẽ thấy. Thật khó mà hoạch định được cái gì cho tương lai. Ngay cả chính cô, có thể có mà cũng có thể không chắc là sẽ còn ở lại đây.

- Đương nhiên là cô sẽ ở lại để giúp những học sinh khác chứ. Mà cô có thể đi đâu? Cô là cô giáo mà, cô San.

Cô cắn xuống cái môi dưới và quay đi. Bên ngoài, trong bầu không khí oi ả, lũ bạn cùng lớp của tôi đang rượt đuổi nhau chạy tới quán bán nước trái cây ép ở cuối đường, tiếng cười đùa vang vọng lại. Cô San lục trong buồng để lấy ra một cái túi làm bằng da giả. Cô mò mẫm trong đó vài giây rồi ngẩng lên, tay hất cái lọn tóc dầy đang phủ xòa lên khuôn mặt. Cô trao cho tôi mấy tấm phiếu màu đỏ và nói:

- Cô có mấy cái tem phiếu dành cho giáo viên còn xót lại từ hồi đầu học kỳ vẫn chưa dùng đến. Vậy tại sao em không giữ lấy rồi đem mua mấy tập vở mà xài? Năm học tới, em sẽ cần vở mới, phải không?

Chế độ mới đã dành riêng cho các thầy cô giáo một loại tem phiếu để họ có thể mua những đồ dùng sách vở bằng giá rất rẻ. Để bù đắp thêm vào cái đồng lương đạm bạc của mình, nhiều thầy cô đã phải mang những tem phiếu này bán ở ngoài chợ đen. Hành động bất ngờ và hào phóng của cô San khiến tôi ngạc nhiên. Cái ý nghĩ đem khoe với mẹ tôi những tập vở mới và nhìn thấy vẻ mặt vui vẻ của bà đã khiến tôi muốn cầm ngay lấy xấp tem phiếu. Nhưng ngay lúc đó, cái mặc cảm về sự thiếu thốn nghèo túng lại trở về khiến cho hai má tôi nóng bừng lên vì xấu hổ. Tôi lùi lại và lắc đầu:

- Đó là những món quà quí, con không dám nhận đâu, thưa cô.

- Tại sao không nhận?

Tôi thở dài, tìm câu trả lời:

- Tại mẹ con đã mua ở chợ đủ đồ dùng cho chúng con rồi.

- Cô biết. Cô đã nhìn thấy bà hôm nọ. Mẹ và cô đã nói chuyện với nhau hàng giờ. Bà ấy buồn phiền vì muốn mua quần áo mới cho em và em của em, nhưng lại không đủ tiền, sau khi đã mua sách. Cho nên cô nghĩ là cô có thể giúp bà bằng mấy cái phiếu này, vì qua năm mới em cần rất nhiều tập vở chứ chẳng phải vài cuốn như năm nay đâu.

Tôi hạ thấp giọng:

- Chúng con lo lấy được.

Cô San nhíu mày:

- Kiên, em xấu hổ vì mình nghèo à?

Tôi cố tránh cái nhìn đăm đăm của cô bằng cách tập trung nhìn vào cái đốm nắng chiếu dưới đất. Cô ấn mấy cái tem phiếu vào tay tôi rồi tiếp:

- Không nên xấu hổ vì hoàn cảnh thấp kém hay tình trạng xuất thân của mình. Thực ra, em nên tự hào. Này nhé: em không còn là một dân tư bản nữa. Dưới mắt người Cộng sản, em đã đạt tới địa vị thấp kém nhất mà lại đạt yêu cầu nhất, đó là thuộc giai cấp nghèo khó. Vậy hãy phấn khởi lên, vì từ nay em chẳng còn gì để mà mất lại có khối điều để được. Yên hẵng, còn nữa.

Cô lại lục cái túi lần thứ nhì rồi nói:

- Cầm lấy món tiền này đi. Cô muốn em đi hớt tóc để các thầy cô trong trường khỏi bình phẩm người tiên phong mới tinh của cô trong cuộc diễu hành. Cô muốn mọi người hoàn toàn hãnh diện giống như cô khi họ nhìn thấy em dẫn đầu cuộc diễu hành. Thôi về đi. Em còn có nhiều việc vặt vãnh phải làm, mà cô thì cũng thế.

Cô vừa vuốt lên tóc tôi, vừa đẩy tôi ra cửa. Tôi lúng túng nói với cô lời cám ơn không mạch lạc lúc ra về.

Ngày hôm sau, lần đầu tiên tôi đến một tiệm hớt tóc ở ngay trong xóm. Từ trước tới nay, mẹ tôi thường xuyên hớt cho tôi. Tiệm hớt tóc, là nơi chỉ có đàn ông tới hớt và tỉa lông mũi, chỉ là một cái lều nhỏ cất sơ sài bằng bốn cái cọc gỗ và một tấm vải nhựa mầu đen. Nó được dựng dưới một cây sồi lớn chỉ cách trường tôi vài bước chân. Người thợ hớt tóc đã cắt tóc cho tôi theo kiểu nhà binh. Những đồ nghề của ông nom cũ kỹ như ít nhất đã hai chục năm rồi, thỉnh thoảng ông lại đem mài chúng loẹt xoẹt trên một miếng da bò đóng vào thân cây. Tóc trên chóp đầu tôi được ông xén cao hai phân, ngoài ra còn bao nhiêu thì ông cạo nhẵn bằng một lưỡi dao cạo sáng loáng.

Suốt ba tuần lễ tiếp theo, dưới sự giám sát của cô San, chúng tôi tập diễu hành dưới sân trường như những cậu lính nhỏ. Còn học sinh của các lớp khác thì xếp hàng đi sau, thứ tự tùy theo thành tích.

Một tuần trước ngày diễu hành, cô San không tới trường. Ngay cả các giáo viên cũng không ai hiểu chuyện gì đã xẩy ra cho cô. Người được cử thay thế dạy lớp tôi là một thầy trạc ngoài ba mươi với mái tóc bóng nhẫy và hàm răng sỉn dến nỗi làm nụ cười thầy xám xịt. Thầy này cũng thế, tránh bàn luận về sự vắng mặt của cô San.

Một buổi sáng, cũng theo như thông lệ, trước khi giờ học bắt đầu, toàn trường phải đứng xếp hàng nghiêm chỉnh trong sân trường. Tôi đứng ở ngay phía sau tập thể, hết sức chú ý. Khi bản quốc thiều cất lên từ cái loa, thì vai trò của tôi là phải đi xuống dọc theo lối đi chính giữa, qua cái bục chính để tiến tới cột cờ.

Khi nghe đoạn nhạc mở đầu: “Đoàn quân Việt Nam đi...” tôi dấn bước tới, đầu ngẩng lên cao, mắt nhìn phía trước, lưng ưỡn thẳng. Lá quốc kỳ trong tay tôi với nền đỏ và ngôi sao vàng ở chính giữa.

Sau khi tất cả mọi người đã chào lá cờ xong, Ông giám hiệu bước lên bục gỗ. Đặc điểm của ông, vốn lúc nào cũng nghiêm trọng, hôm nay lại càng thêm nóng nẩy, thô lỗ. Những nét nhăn nhúm trên mặt của ông chảy xệ, cái miệng mín lại mỏng như một nét bút chì ẩn ở phía dưới hàm ria lưa thưa. Nhìn trừng trừng cử tọa một hồi, ông với tay tắt cái máy phát thanh vừa mới chơi xong đến cuối cùng của bản quốc ca. Ông gõ ngón tay lên cái micro để thử âm thanh làm nó rít vang cả lỗ tai mọi người. Rồi, một tay ông cầm micro, tay kia vẫy ra hiệu cho tất cả chúng tôi im lặng, ông bắt đầu nói, giọng của ông hối hả, mất bình tĩnh, vang vọng tới tận làn sương còn lảng vảng dưới những lùm cây:

- Tất cả hãy lắng nghe đây, tôi biết là mới đây có những lời xì xào trong trường, nhất là về cô San, giáo viên lớp 5 C. Hẳn anh chị rất tò mò muốn biết vì sao cô ấy lại vắng mặt. Tôi khuyên các anh chị nên dẹp chuyện ấy đi.

Ông lại rà soát mọi người bằng cặp mắt cú vọ và tiếp:

- Nếu các anh chị hỏi: “Tại sao lại đẹp chuyện đó đi?” vậy đây là câu trả lời của tôi: Đấy không phải là vấn đề của các trò. Bất cứ ai, nếu còn tiếp tục tọc mạch vào chuyện đó thì sẽ bị xem như một hành động phản cách mạng vậy. Kẻ nào mà bị phát giác vi phạm thì đừng có hòng tôi khoan hồng. Sẽ bị đuổi ngay lập tức. Bây giờ, trước khi các anh chị trở về lớp học, tôi muốn bàn qua về một vấn đề khác nữa.

 Nhìn thẳng về phía tôi, ông ta lấy lại vẻ bình tĩnh mọi ngày:

- Ban giám hiệu đã quyết định bầu chọn một người mới, đi tiên phong cho cuộc diễu hành. Để chiếm được vinh dự đi đầu, người đó phải làm hơn cái chuyện thành tích xuất sắc về học tập. Nghĩa là còn phải phát huy tinh thần tập thể giữa các bạn cùng lớp, với cả các thầy cô. Rồi còn phải tham gia sinh hoạt ngoại khóa và còn là một biểu tượng tích cực của toàn trường. Nguyễn Kiên là một học trò giỏi, nhưng cũng không có nghĩa là người xuất sắc nhất để đại diện cho trường. Trường ta còn có nhiều trò khác vượt quá cả Kiên trong mọi lĩnh vực. Vì thế nhà trường sẽ xếp đặt lại, thay thế Kiên bằng một người đi tiên phong khác để dẫn đầu đoàn diễu hành, như thế sẽ đạt nhiều thành công hơn.

Ông ta sải bước lại chỗ tôi đang đứng. Điềm nhiên, ông ta giật lấy lá cờ trong hai tay tôi và trao lại cho anh lớp phó của tôi.

Quay về phía đám học trò, ông nói:

- Phần nói chuyện của tôi đến đây là kết thúc. Các trò có thể quay về lớp học.

Ông ta vất cái micro lên bục nghe cái thịch rồi bước khỏi sân khấu, hai tay khoanh trước ngực.

Khi mọi người giải tán khỏi sân trường, mặt tôi đỏ dừ vì nhục nhã. Không nói một lời, tôi lủi khỏi đám đông và lẩn đi ngay.

Mùa hè năm 1978 ấy đánh dấu ba năm sống dưới chế độ Cộng sản. Mặc dầu chính quyền mới đã tiếp thu thành công miền nam Việt Nam, nhưng nhiều công dân của chế độ cũ vẫn hy vọng người Mỹ quay trở lại, và mỗi tối thứ hai, họ vẫn lén nghe các bản tin tức của đài BBC. Khi đời sống ngày càng khó khăn thì niềm hy vọng lại càng trở thành một thứ xa xỉ duy nhất mà Cộng sản vẫn chưa tóm được. Buồn thay, đối với nhiều người, hy vọng trở nên một sức mạnh tiêu cực cầm giữ đời sống của họ trong lao tù của sự chờ đợi phù phiếm. Thay vì tận hưởng đời sống, nhiều người đơn thuần coi như sống chỉ là tồn tại. Trường hợp này cũng xẩy ra với gia đình tôi.

Mẹ tôi chẳng hoàn tất được chuyện gì trong ba năm liền ngoại trừ sự chờ đợi. Bà hy vọng là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ hoặc vì sự lạm phát, hoặc vì lý do yếu kém của guồng máy nhà nước. Bà cũng chờ đợi một cuộc nổi dậy có thể xẩy ra, hay một cuộc chiến tranh lật đổ chế độ mới vì sự căng thẳng giữa quần chúng và các cán bộ lúc nào cũng mạnh mẽ. Nhưng sự chờ đợi lê lết kéo dài quá lâu, mọi khí thế trong lòng chúng tôi đã tắt nguội dần. Sự tủi hổ không còn chiếm vị thế ưu tiên trong đầu óc mẹ tôi nữa. Mớ nữ trang cất dấu trong túi quần của tôi đã được bán dần mòn để cho gia đình tôi được sống sót. Cuối cùng thì mẹ tôi khánh tận và chúng tôi bước vào đường cùng.

Thối chí với sự chờ đợi trong vô vọng, mẹ tôi đã thuê một quầy hàng trong ngôi chợ lớn nhất tỉnh, cách nhà tôi khoảng năm cây số. Gian hàng của bà chỉ là một cái ngăn rộng chừng mười mét vuông chen vào giữa hai gian hàng, một của người bán xôi, và một là tiệm bán bánh mì. Ngôi chợ, bao gồm hàng trăm dân tiểu thương như mẹ tôi, được chia thành nhiều khu vực riêng, như khu bán cá, khu bán gia súc, rau cỏ, vải vóc, đồ dùng về điện, thuốc men và ở ngoài bìa xa nhất là nơi bán những sản phẩm của nông trại. Xa hơn đó nữa, là chỗ đổ rác của thành phố, một thứ siêu thị của lũ lang thang không nhà.

Mẹ tôi bán gạo là chủ yếu, thêm vài thứ sản phẩm trồng trọt khác như khoai tây, đậu. Tuy vậy, người Cộng sản cũng ghé mắt vào những loại buôn bán như kiểu của mẹ tôi, vì họ cho là loại tiểu thương này làm cho hàng hóa trở nên đắt đỏ và làm xáo trộn nền kinh tế. Trong một bản tuyên cáo, chính quyền cấm thành phần trung lưu được buôn bán tự do và gửi nhiều toán đi tịch thu hàng hóa. Họ hứa hẹn với mẹ tôi là nếu từ bỏ gian hàng thì sẽ kiếm cho một công việc khác. Nhưng dù đã thỏa thuận như thế, đơn xin việc của mẹ tôi vẫn luôn luôn bị từ chối.

Gian hàng của mẹ tôi chỉ tồn tại được có vài tháng thì bị bắt phải đóng cửa. Chỉ vài phút trước khi có cuộc đột nhập, mẹ tôi đã tẩu tán được một số hàng hóa qua mấy người bạn hàng. Sau đó là những cuộc lục soát tinh vi hơn, toàn diện hơn mà không hề thông báo trước.

Ở ngoài chợ, hầu hết các bạn hàng đều kém may mắn hơn mẹ tôi. Chính quyền, thông qua các đội tình nguyện trẻ tuổi, đã xông vào các cửa tiệm vào lúc nửa đêm, tịch thu tất cả các loại hàng hóa đã được kiểm kê. Rồi hôm sau, họ bắt chủ tiệm trưng ra giấy tờ biên nhận buôn bán, chứng tỏ họ có quyền sở hữu đối với món hàng đó. Làm sao mà có được, vì hầu hết các hàng hóa chỉ là mua đi bán lại ở chợ đen, làm gì có giấy biên nhận. Thế là phải nộp phạt cho những hàng hóa tồn kho và các thương gia bị quét sạch sẽ.

Vào cái hôm mà đội thanh thiếu niên tới đóng cửa gian hàng của mẹ tôi, trong cơn giận dữ và thất vọng vì chẳng có món nào có giá trị, họ đã đập phá tan hoang. Một thành viên của toán, một đứa con gái mới chừng mười bốn tuổi, trong bộ đồng phục mầu xanh đã xỉa xói vào mặt mẹ tôi với giọng khinh bỉ:

- Thử coi bà còn dám mở lại gian hàng chống phá cách mạng này nữa không? Chúng tôi sẽ quay lại kiểm tra thường xuyên cho bà biết tay.

Rất lâu sau khi họ đi khỏi, mẹ tôi vẫn ngồi trên sàn, đầu cúi xuống, không nhúc nhích. Ở bên ngoài, một bóng người bước vào gian hàng của mẹ tôi, ngừng lại ở ngưỡng cửa để quan sát bà. Từ chỗ mẹ tôi ngồi, bà chỉ có thể nhìn thấy một đôi chân dơ dáy của người khách thọc trong đôi dép râu rẻ tiền...

Bà ngẩng lên nhìn và thấy khuôn mặt quen thuộc của bà Đặng lúc ấy cũng đang chăm chăm nhìn bà. Ba năm sống dưới ách Cộng sản đã biến người bạn ồn ào của bà thành một phụ nữ già nua và nhút nhát. Tuy nhiên tiếng cười của bà Đặng vẫn còn dễ lây lan, vang lên như tiếng pha lê khi bà nhận ra mẹ tôi. Bà la lên:

- Trời phật ơi! Chị đó à, Khuôn? Chao ôi, chuyện gì đã xẩy ra cho chị thế?

Mẹ tôi nhìn đăm đăm một cách ngây dại vào khoảng không gian phía sau khuôn mặt của bà Đặng. Quá xúc động vì cuộc hội ngộ bất ngờ, Bà Đặng quì xuống sàn giữa đống chai lọ vỡ, mẻ và gục khuôn mặt vào cổ của mẹ tôi. Tuy nhiên mẹ tôi không ôm lại bà. Đầu óc của mẹ hình như ở đâu đó bên kia sự hôi thối, lầy lội của ngôi chợ, tiếc nuối sự mất mát của mình.

Nhiều ngày sau, mẹ tôi vẫn còn nằm liệt giường và từ chối ăn cơm với gia đình. Bà nói với Jimmy và tôi về việc bỏ rơi chúng tôi để đi sống ở một nơi nào khác. Một đôi khi, bà còn tính đến chuyện cả nhà, trừ ông bà ngoại tôi, sẽ tự tử tập thể cho thoát nợ đời. Sợ hãi vì những cơn xuống tinh thần đó, Jimmy và tôi tránh vào căn buồng của bà y như thể đó là khu vực của người cùi.

Nhưng may mắn thay, với nhiệt tình của dì Đặng, đến thăm viếng thường xuyên, mẹ tôi quyết định đi tiếp con đường đời. Bà lại dấn mình vào việc buôn bán... Tuy rằng bà có sẵn kinh nghiệm làm ngân hàng, vấn đề cạnh tranh với người khác để mua đi bán lại kiếm sống, đối với bà là một ý nghĩ chua chát. Dầu vậy, bà biết là mình vẫn phải tìm ra một cách nào đó để mà có được bữa ăn hàng ngày cho gia đình.

Cũng mùa hè năm ấy. Chị Loan trở về từ toán thanh niên xung phong. Sau ba năm trời lặn lội trong rừng cùng với trên hai trăm thiếu nữ khác cùng đơn vị, chị đã chứng tỏ là có tinh thần phục vụ cho chính quyền mới và thời hạn phục vụ của chị đã qua.

Vào cái hôm mà tôi bị ông giám hiệu cho ra rìa khỏi vụ diễu hành, trên đường trở về nhà, tôi bắt gặp chị trên đường phố giữa đám đồng chí của chị. Mặc dầu chị mặc bộ đồng phục quá khổ mầu xanh may bằng vải ka ki dầy che lấp tất cả các đường nét phụ nữ, tôi vẫn nhìn thấy ngay khuôn mặt khả ái của chị. Sau nhiều năm làm việc dưới ánh nắng gay gắt, nước da của chị đã biến thành mầu nâu. Trên lưng chị là một cái ba lô đựng tất cả tài sản, nom nặng nề như đeo đá trên thân hình mảnh mai của mình. Chị nhoẻn miệng cười khi nhìn thấy tôi vừa chạy vừa réo to tên chị. Chúng tôi ôm lấy nhau thật lâu, chan hòa nước mắt khi thấy mỗi người đều có sự thay đổi. Chị hỏi tôi:

- Sao em không viết thư cho chị. Bộ em không nhận được thư nào của chị hay sao?

Tôi trả lời:

- Không, chẳng có thư nào hết. Em không viết cho chị vì chả biết chị ở đâu. Chị đã gửi đi bao nhiêu thư tất cả?

Chị có vẻ bối rối:

- Chị không biết nữa. Nhiều đấy. Lúc ban đầu chị viết mỗi tuần một lá. Có khi chị còn nhờ một người bạn chuyển tay nữa. Thật là kỳ cục khi em chẳng nhận được lá thư nào.

Đăm chiêu một lát, chị tiếp:

- Khó có thể tin là mọi thứ đều thất lạc. Thật quá tệ, nhưng sống trong những điều kiện như thế này thì em cũng biết nó như thế nào rồi. Cũng chẳng sao, điều quan trong nhất là cuối cùng chị em mình gặp lại nhau, phải không. Dẫn chị về nhà gặp má đi em.

Tới ngưỡng cửa, hai chúng tôi bị con chó của Jimmy chặn lại. Nó vẫy đuôi mừng rỡ và liếm lên mặt của chúng tôi bằng cái lưỡi nham nháp của nó. Nó không còn là một con chó nhỏ nữa mà đã to lớn gần bằng vóc dáng của một con chó bẹc-giê trưởng thành và sức nặng của nó làm chị Loan liểng xiểng. Nó sủa oang oẳng lên làm chị Loan hết hồn, lùi lại phía sau tôi:

- Nó không thể là con Lulu, phải không?

Chị hỏi rồi lại tự trả lời:

- Dĩ nhiên là không rồi. Con chó này đâu có cái chân què.

Tôi gãi vào sau cái tai con chó của em tôi và trả lời:

- Lulu chết rồi. Đây là con chó đực. Nó tên là Lu.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:19 pm    Tiêu đề:

Chương Mười Chín

Đêm hôm ấy, sau bữa cơm, cả gia đình quây quần tại phòng ông bà ngoại tôi để nghe chị Loan kể về những chuyện đã xẩy ra với chị trong thời gian gần đây. Mặc dầu đoàn thanh niên xung phong không phải là một ngành trong quân đội, nhưng chị Loan cũng được huấn luyện như kiểu nhà binh, từ cách tháo ráp súng ống đến các ứng dụng những chiến thuật và ngay cả học cách giết kẻ địch khi cần thiết. Tuy nhiên nhiệm vụ của chị là thanh lọc đất nước, từ bài trừ những tên cực đoan đến việc chống chủ nghĩa tư bản và trừng trị những kẻ bất hợp tác với chế độ mới.

Ba năm trời phục vụ, chị cho rằng mình đã chứng kiến những vụ việc hỗn độn. Đến kỳ triển hạn công tác, chị đã từ chối đăng ký. Thời gian phục vụ của chị cũng đã khá dài, đủ để đảm bảo cho chị có được một vị trí tương đối dễ chịu. Khi chị kể xong, tôi lên tiếng hỏi:

- Chị sẽ ở lại với chúng em chứ?

Chị trả lời, nét mặt buồn bã:

- Không đâu, Kiên. Hôm nay chị tới là để từ giã mọi người.

Không ai có vẻ ngạc nhiên về điều này cả. Với sự “tiến bộ cách mạng” của chị, việc liên hệ với những thành phần phản động như gia đình chúng tôi chỉ kéo trì chị xuống. Ông tôi hỏi:

- Vậy con sẽ đi đâu?

Chị thở hắt ra:

- Con sắp lấy chồng, bác Oai ạ.

Chị tránh ánh mắt của ông tôi và tiếp:

- Tuần sau là đám cưới rồi.

Ông tôi kêu lên:

- Con quyết định thế là hay lắm rồi. Bác rất vui mừng. Mà đứa nào có may mắn thế? Có phải con gặp nó trong đoàn Thanh Niên Xung Phong không?

Chị Loan trả lời, giọng yếu ớt:

- Thưa bác, không phải ạ.

Chị thở dài, ngực ưỡn lên sau lớp đồng phục đã bạc mầu:

- Người ấy thì bác cũng đã biết rồi. Hồi trước anh làm vườn cho nhà ta.

Nụ cười tắt ngóm trên môi ông ngoại và ông chớp lia mắt như thể không tin ở tai mình:

- Là cái ông Trần ấy à?

- Dạ vâng!

Ông tôi quay đi hai tay bưng lấy mặt. Chị Loan cố nói cho hết cái tin lấy chồng của mình:

- Anh ấy bốn mươi và chưa lập gia đình bao giờ. Theo tiêu chuẩn của xã hội mới thì anh ấy khá lắm đấy. Trong mấy năm vừa qua, ảnh đã tận tình săn sóc con. Khi con vào thanh niên xung phong, xa nhà, chính anh ấy đã tới thăm con thường xuyên, dù con di chuyển tới chỗ này chỗ kia. Ảnh đã chia sẻ với con những lúc con gặp khó khăn nhất. Và điều quan trọng nhất là anh đã hứa rằng không còn gây khó dễ gì đến bất cứ ai trong gia đình nhà ta nữa. Như thế, con đã cảm thấy con nợ ảnh bằng cả một cuộc đời của con rồi.

Ông tôi xuống giọng:

- Con đừng vì gia đình bác mà hủy hoại cuộc đời mình. Hắn ta không thể làm khó gia đình này được nữa đâu.

- Dĩ nhiên là không rồi, thưa bác. Nhưng con chọn anh ấy cũng là vì tương lai của con. Con muốn tìm một nơi an toàn và yên ổn để nương tựa. Nếu có vì sự an toàn của bác cũng chỉ là thêm thắt vào mà thôi. Con mong bác, cũng như tất cả mọi người hiểu được điều đó.

Ông tôi gật đầu:

- Con nghĩ cũng phải, bác hiểu, và bác nghĩ là con quyết định đúng. Bác mừng cho con, Loan ạ. Nếu con đến đây chỉ báo tin đó thì bác xin cầu chúc cho con được hạnh phúc. Còn nếu con tới đây vì những chuyện khác nữa, thì bác xin kiếu, vì bác thấy mệt rồi, tuổi già nó thế đấy.

Chị Loan nói với vẻ ngần ngại:

- Đúng ra thì cũng có chuyên khác nữa. Đây là vấn đề của chị Khuôn. Sau đám cưới, con sẽ dọn vô ở chung với anh Trần trong biệt thự họ Nguyễn. Anh ấy nghĩ rằng muốn được làm chủ căn nhà ấy phải lập gia đình và có con cái. Hy vọng một ngày nào đó hai bác và chị sẽ hiểu và tha thứ cho con. Nay thì mọi người đã biết chỗ ở của con, vậy bất cứ lúc nào có ai cần bất cứ điều gì, xin cứ tới tìm con. Đó là con nói ra tự đáy lòng, xin đừng từ chối.

Rồi chị quay sang tôi:

- Nhất là em đó, Kiên. Thỉnh thoảng em tới thăm chị nhé.

Cuối cùng thì mẹ tôi cũng lên tiếng:

- Chuyện giữa em và ông Trần chẳng phải là cái tin sửng sốt gì. Tôi đã thấy cái cách ông ta lăm le em từ nhiều năm nay rồi. Tôi biết là trước sau gì em cũng thuộc về ông ta, vấn đề chỉ còn là thời gian mà thôi.

Chị Loan kiếu từ và đi ra khỏi nhà. Đứng tựa vào khung cửa sổ, tôi nhìn chị trong bộ quân phục mầu xanh lao động. Chị vác chiếc ba lô lên vai rồi rẽ xuống đường phố.

Vài ngày sau đó, bà ngoại tôi phát hiện ra một vết sước ở bên gót chân bên phải. Bà tôi không biết tại sao lại có vết ấy. Mẹ tôi thì cho là bà bị cái cạnh sắc của đôi dép mà bà vẫn dùng đi trong nhà cứa phải. Vết sước không lành mà càng ngày càng lở loét to hơn.

Một buổi sáng sớm, tiếng ngoại rền rĩ đánh thức tôi dậy. Ngoại nằm trên giường, quây chung quanh là ông ngoại tôi, mẹ tôi và hai người anh chị họ. Tất cả đang quan sát chân của bà, bây giờ sưng vù lên nom như một con heo sữa quay và cũng bóng nhẫy như vậy. Lớp da chân bị phồng lên, căng quá mức, nom đỏ au và như muốn vỡ toang ra. Mẹ tôi dùng mũi dao chọc vào đó, hy vọng làm mủ chảy ra. Nhưng thay vì mủ lại có cả máu bầm lẫn lộn những sợi thịt rữa rỉ ra, giỏ từng giọt xuống cái khay bằng đồng để ở dưới giường. Mùi hôi thối xông lên tràn ngập không khí.

Chúng tôi đưa bà vào nhà thương lớn ở Nha Trang, tại đó, các bác sĩ cột chân bà bất động trên một cái băng ca đặc biệt có bánh xe trong lúc tiến hành thử nghiệm. Được vài ngày, vì gia đình tôi không có tiền trả phí tổn nhà thương, và cũng vì các bác sĩ không thể đồng ý với nhau về lý do đã khiến cho bà tôi đến nông nỗi này, bà tôi được cho về nhà với lời chẩn bệnh là bị ung thư.

Tại nhà, mẹ tôi đã nhờ tới một ông lang có tiếng trong thành phố. Sau một vài lần chữa trị, cơn sốt có dịu đi nhưng chỗ chân sưng vẫn chẳng thuyên giảm.

Trong khi đó, việc mua bán của mẹ tôi đã trở nên khó khăn hơn. Chiến thuật mới nhất của nhà nước để triệt tiêu việc tư nhân buôn bán ở miền nam là bằng cách ban giấy phép buôn bán, nhưng lại chỉ cấp cho một vài tổ hợp được lựa chọn. Còn những ai chưa được cấp giấy thì được khuyến khích “tình nguyện” bỏ nghề buôn bán. Để đảm bảo việc thực thi chính sách cho có hiệu lực, hằng ngày công an sục sạo khắp chợ để hỏi giấy phép của bạn hàng. Kẻ nào bị bắt gặp buôn bán mà không có giấy phép thì đều bị coi là bất hợp pháp và bị bắt lao động cải tạo trong vài tuần lễ.

Một hôm, ngay sau khi ông lang ra về và mẹ tôi đang thay băng cho chỗ đau của bà thì dì Đặng đến thăm. Giống như hoàn cảnh mẹ tôi, dì bị chính phủ ngược đãi cũng vì có lý lịch xấu. Gia tài dì chẳng còn gì ngoại trừ một vài bộ quần áo, một chỗ ở thuê chật hẹp đối diện với khu chợ và cái quá khứ vàng son của mình. Dì đi thẳng đến chỗ mẹ tôi mà không màng đến mùi hôi thối quá sức bay ra từ vết thương, nói:

- Khuôn à, nghe mình nói cái này nhé. Mình có cách cho chị và mình kiếm sống rồi.

Mẹ tôi trả lời:

- Nói đi, tôi đang nghe đây.

- Chị cũng biết là chúng mình không thể buôn bán chui. Sớm muộn rồi cũng bị công an nó tóm thôi. Tôi có giao thiệp với một vài người đã có giấy phép đàng hoàng. Họ cần có mối để Sài Gòn chuyển vải vóc và hàng hóa ra cho họ.

Mẹ tôi ngừng cuốn cái băng chung quanh mắt cá chân của bà tôi rồi hỏi:

- Nghĩa là sao?

- Thì chúng mình vô Sài Gòn lấy hàng hóa chứ sao.

Mẹ tôi quay đi.

- Mình làm được mà, Khuôn. Bây giờ hết chiến tranh rồi, đâu còn luật nào cấm mình đi đây đi đó nữa. Mình lại có thẻ chứng minh nhân dân. Chúng nó không còn bắt mình bê sổ hộ khẩu đi từ thành phố này qua thành phố kia nữa.

Dì Đặng ngừng một lúc để cho lời lẽ mình thêm thấm thía rồi tiếp:

- Vậy chị tính sao? Có đi Sài Gòn với tôi không?

Mẹ tôi lắc đầu. Dì tiếp:

- Thôi nào, Khuôn. Chị nghĩ tôi tính có đúng không?

- Tôi cũng chả biết nữa. Nhưng sao nghe phức tạp quá. Ngoài ra, mẹ tôi đang ở trong tình trạng như thế này, chưa nói gì đến lũ nhỏ, chị thấy tôi đi làm sao được? Rồi, còn ở phường, nếu họ không cho mình giấy thông hành thì mình đi làm sao đây?

Dì Đặng nắm lấy cổ tay mẹ tôi:

- Chị còn con đường nào khác không? Nếu chị không làm vụ này thì chẳng lẽ cứ tiếp tục sống cuộc sống bấp bênh theo kiểu buôn bán chui hoài này sao? Hay là cứ ru rú trong nhà để cho chết đói cả đám hay sao?

Mẹ tôi biết là mình đuối lý, nên hỏi:

- Vậy thì đi trong bao lâu? Và mình cần vốn khởi đầu là bao nhiêu?

- Tôi tính rằng vốn liếng cả hai chắc phải cần khoảng hai ngàn đồng, còn đi thì cũng mất năm ngày. Trừ tất cả chi phí, mỗi đứa cũng kiếm được ít nhất vài trăm đồng mỗi chuyến đi.

Mẹ tôi kêu lên nho nhỏ:

- Mỗi người phải cần tới một ngàn đồng kia à? Tôi làm gì ra có nhiều như vậy. Tôi biết đào ở đâu ra?

Dì Đặng trả lời thản nhiên:

- Hãy làm như tôi, bán đồ đạc đi. Ngày mốt mình nên khởi hành. Tôi muốn chị hứa một tiếng là sẽ đi cùng với tôi.

Ở phòng kế bên, em bé gái của tôi thức dậy từ giấc ngủ trưa và cất tiếng khóc. Đã hai tuổi rưỡi rồi mà cả thể xác cũng như tinh thần, nó chỉ như đứa bé lên một, mắc míu trong một thân hình bạc nhược và nhăn nhúm mà lúc nào cũng mọc đầy mụn đau đớn, nhất là ở đầu và cổ. Nó tập đi và tập nói cực kỳ khó khăn. Đa phần, nó chỉ muốn bò trên sàn nhà thay vì đi và khóc thay vì xin đồ ăn. Mặt nó nom già khằn mà giọng thì lại nhỏ xíu y như một con mèo con mới đẻ.

Tiếng khóc của em tôi làm cho mẹ tôi giật mình, ngưng việc chăm sóc vết thương của bà tôi và quát lên giận dữ:

- Kiên, bắt nó nín đi. Tao còn đang bận với dì Đặng đây này.

Tôi bế em tôi lên và đung đưa nó trong khi nó cố bám chặt lấy cái gối rách ở trước ngực. Mặc dù đã gần mục và bốc mùi hôi thối vì rớt rãi của nó, nhưng cái gối vẫn là đồ chơi duy nhất của nó. Nằm trong lòng tôi, Bé Ti nhìn tôi ngây ngô với đôi mắt mầu nâu to, lồi, và cười với tôi bằng nụ cười chẳng có cái răng nào. Những răng sữa của nó đã rụng hết mà răng khôn thì chưa kịp mọc để thay thế.

Kế bên, mẹ tôi hỏi ý kiến bà Ngoại về đề nghị của dì Đặng. Tôi nghe thấy tiếng bà tôi yếu ớt góp ý:

- Mẹ nghĩ là con nên đi Sài Gòn. Đừng bận tâm gì đến cả nhà. Mẹ đã có ba trông nom, còn thằng Kiên sẽ săn sóc hai đứa nhỏ. Dù con có ở nhà thì cũng chẳng hơn được gì.

Hai ngày sau, với món tiền bán chiếc máy may, mẹ tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi. Bà dúi vào tay tôi tờ giấy năm mươi đồng. Bà đoán chắc với tôi số tiền này sẽ đủ cho cả nhà trong năm ngày sắp tới, rồi bà từ biệt mọi người để lên đường.

Cùng ngày hôm đó, ở trường tôi có buổi diễn hành đánh dấu ngày cuối cùng của học kỳ. Dẫn đầu toán diễn hành là Đoàn Thiếu niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phân biệt với những học sinh khác bằng chiếc khăn quàng quanh cổ. Anh chàng phó trưởng lớp của tôi đã đi tiên phong, hãnh diện với cây cờ đu đưa trên tay. Họ đi diễu qua các đường phố, hát bài quốc ca và hô những khẩu hiệu tuyên truyền Công sản trước đám đông nồng nhiệt.

Tôi ở lại trong lớp để tránh buổi hội lễ. Sợ tôi buồn, Duy ở lại với tôi. Nó đứng cạnh cửa sổ xem đoàn diễn hành từ xa. Lúc ấy vào khoảng mười hai rưỡi trưa, mùa hạ mới chớm mà đã nóng nực phát khiếp. Có mùi phân bò thoảng lại hòa lẫn với mùi ngọt ngào của lúa chín từ những cánh đồng gần đó. Tất cả tạo nên một sự êm dịu và tôi buồn ngủ đến ríu cả mắt.

Duy hỏi tôi:

- Mày có nghe tin về cô San chưa?

Tôi choàng tỉnh, sự tò mò thay thế cơn buồn ngủ:

- Không, mày biết tin gì thì nói đi.

Duy nói với giọng đôi chút xúc động:

- Tao nghe nói cô đã vượt biên từ mấy hôm trước đây, nhưng tầu của cô có kẻ phản bội. Cô đã bị bắn. Chẳng có ai là được coi biết rõ cả. Công an đã báo cáo với ông giám hiệu. Họ nói là cô đã chết.

Như có tiếng bom nổ ngang tai, đầu óc tôi ù lên:

- Ôi trời ơi!...

- Vậy đó kinh khủng quá phải không? Mà cũng chả có đám ma nữa. Họ không cho tụi học trò tưởng niệm cô.

Nó nhìn tôi chăm chú rồi tiếp:

- Nếu còn cô San ở đây, chắc chắn cô sẽ đấu tranh để giữ mày trong cuộc diễn hành.

- Ông giám hiệu nói là tao không xứng đáng được cái vinh dự ấy. Tao cũng không nghĩ rằng ông ta sẽ cho là cô San xứng đáng có một buổi tưởng niệm. Không phải là vấn đề cá nhân ở đây. Mà chỉ vì sự đời là thế!

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:19 pm    Tiêu đề:


Chương Hai Mươi

Tới ngày thứ năm kể từ hôm mẹ tôi ra đi, tôi dẫn hai đứa em ra bến xe đò để đón mẹ về. Nhưng thất vọng biết bao, khi xe ngừng lại mà chẳng thấy bóng dáng mẹ tôi hay dì Đặng đâu cả. Chúng tôi đứng ngay trước cửa xe, hy vọng tìm thấy nét mặt quen thuộc của mẹ tôi giữa đám người xa lạ, cho tới lúc người hành khách cuối cùng xuống xe. Rút cục, tôi tới gặp bác tài để hỏi xem mẹ tôi có nhắn gì không. Thay vì trả lời, bác ta lắc đầu rồi bỏ đi.

Ấy là đêm đầu tiên trong suốt cuộc đời mười một tuổi, tôi đã không ngủ được. Nằm thao thức trên giường, tôi tự hỏi không biết chuyện gì đã xẩy ra cho mẹ tôi. Trong bóng tối, tôi khóc âm thầm, phần vì lo sợ cho sự biệt tăm của mẹ tôi, phần thì vì lo sợ cho cái tương lai bất định của tôi và cái gánh nặng mà tôi phải đảm đương, đối với những người còn lại trong gia đình. Sáng ra, tôi lại mò đến bến xe đò. Rồi hết ngày tôi lại lủi thủi trở về nhà một mình.

Tình trạng nhà tôi càng ngày càng thêm khủng hoảng, món tiền mà mẹ tôi để lại đã hết xoản. Cái chân đau của bà tôi trở nên tệ hại đến nỗi phải tái nhập viện. Ông ngoại tôi ở lại bên cạnh bà nên chỉ có một mình tôi phải lo săn sóc hai em nhỏ. Bác gái của tôi nhân sự biệt tăm của mẹ tôi đã đưa ra hai lời giải thích: hoặc là chết hoặc là bỏ đi. Bà đã tính tới chuyện khai báo với chính quyền về tình trạng của chúng tôi. Bà cũng chẳng cảm thấy có trách nhiệm phải nuôi ăn chúng tôi và nói với xóm giềng rằng đó là lỗi của mẹ tôi đã bỏ rơi gia đình.

Tám ngày trôi qua, chúng tôi đã ăn tới bát gạo cuối cùng. Tôi đã dẫn các em tôi vào giường ngủ, trong lúc bụng đói meo, mà chẳng biết làm sao. Trong bóng tối, Jimmy và tôi nằm mà vẫn thức, lắng nghe em bé rên rỉ thảm thương y như tiếng hồn ma than van ai oán. Nghe tiếng bé Ti khóc vì đói là điều thê thảm nhất mà tôi phải chịu đựng từ hồi nhỏ đến giờ. Và chỉ cách chỗ chúng tôi nằm chẳng bao xa, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng lũ anh chị họ tôi đang om xòm trong bữa ăn tối.

Sáng hôm sau, tôi cõng bé Ti và dắt Jimmy đi sang nhà bác tôi. Bên trong bếp, tôi thấy chị Hồng đang luộc một nồi khoai lang trên bếp lò. Sau giờ học, chị bán thêm khoai lang luộc để kiếm thêm ít tiền. Mùi khoai bốc lên thơm lừng trong không khí khiến em gái tôi, vốn đã quá đói, đòi ăn ngay tức thì. Tôi phải nhét cái gối vào tay nó và đánh liều đi thẳng lên bậc thềm căn nhà trên.

Bên trong phòng khách, bác gái tôi đang ngồi nhai trầu. Nước cốt trầu quyện với nước miếng đặc sệt trong miệng bà. Bà vẫn ăn trầu để làm cho hàm răng thêm đen nhánh hơn, vì đối với những phụ nữ thuộc thế hệ bà, răng càng đen càng được ưa chuộng. Lũ anh chị họ của tôi thì đứng rải rác quanh phòng, hau háu nhìn anh em tôi. Tôi ấp úng nói, giọng run run:

- Thưa bác, cháu qua mượn bác một ít tiền. Mẹ cháu đi vắng mà chúng cháu thì hết đồ ăn rồi.

Bác trả lời:

- Đợi đến mai.

Tôi hỏi:

- Thưa bác, bác nói gì ạ?

Bà nhắc lại, mồm lúng búng nước cốt trầu:

- Đợi đến ngày mai! Mai mà mẹ tụi bay chưa về thì tao sẽ tính.

Bên cạnh bà, chị Ánh Nguyệt đang nằm trên gối, húng hắng ho vào chiếc khăn tay. Tôi nói:

- Cháu nghĩ là không thể đợi lâu hơn được nữa. Đã hai ngày rồi, chúng cháu không có gì ăn. Cháu mong là bác cho chúng cháu mượn chút đỉnh ngay bây giờ, xin bác thương cho.

Từ cái giường gần cửa sổ. Tín cao giọng:

- Má tao đã bảo là đợi đến mai, mày điếc hay ngu đây?

Bác tôi cười khẩy:

- Mượn à, mượn rồi thì mày lấy gì mà trả?

- Mẹ cháu về sẽ trả lại bác ngay.

Bác tôi nhướng lông mày lên:

- Chắc không? Nếu mẹ mày không trở về nữa thì sao?

Bà nhổ nước trầu vào cái ống nhổ để bên cạnh, quẹt mấy đầu ngón tay vào hai mép và tiếp:

- Bả đi luôn rồi!

Jimmy kéo tay tôi:

- Thôi mình về đi, anh Kiên.

Chúng tôi đành quay về, lại đi qua căn nhà bếp một lần nữa. Mùi thơm của nồi khoai thốc vào trong cái dạ dầy trống rỗng của chúng tôi. Cánh cửa bếp mở nhưng không có ai ở trong đó.

Jimmy nhìn tôi và cái bao tử trong bụng tóp teo của nó sôi lên sùng sục. Nó nói một cách khổ sở:

- Em đói quá anh Kiên ơi, mình phải kiếm cái gì ăn đi.

Bé Ti hùa theo nó, thúc cái gối vào gáy tôi:

- Ti cũng vậy, đói lắm!

Tôi đặt nó xuống và rón rén đi vào trong bếp. Ở gần cái lò chị Hồng để một cuốn sổ ghi nợ của khách hàng. Chọn một trang chưa có chữ, tôi nguyệch ngoạc viết cho chị mấy hàng:

“Chị Hồng à, Kiên lấy trong nồi của chị ba củ khoai “lan” vì tụi này đói quá. Em hứa sẽ hoàn lại khi má em trở về. Cám ơn chị, Kiên.”

Tôi đặt mảnh giấy ngay cạnh bếp lò, chỗ chị dễ nhìn thấy nhất, rồi dùng một chiếc đũa xiên ba củ khoai nóng hổi đem bỏ vào một cái bát rồi chạy ra ngoài với hai em tôi. Nhưng trước khi tụi tôi về tới cửa sau tôi đâm choàng ngay vào chị Hồng. Chị bật ra một tiếng kêu thoảng thốt, rồi từ giật mình, trong khoảng khắc đã chuyển thành cơn lôi đình, chị la lớn:

- Mẹ ơi! Cái thằng pha giống nó ăn cắp khoai lang của con.

Tôi vội giơ tay bịt lấy mồm chị với hy vọng có chút thì giờ để giải thích:

- Không, không, chị Hồng ơi, Kiên mua mà. Chị không thấy Kiên đã ghi lại mảnh giấy cho chị rồi. Kiên đâu có ăn cắp. Xin chị đừng có la lên như vậy.

Nhưng đã quá trễ rồi. Từ căn phòng nhà trên, cả nhà chị đã ùa xuống bếp. Tín xộc ngay đến trước mặt tôi như một con thú rừng, vồ lại mấy củ khoai trong tay tôi, làm rớt văng xuống nền xi măng dơ dáy, vỡ vụn.. Điều này càng làm cho hắn nổi điên lên hơn.

Hắn nắm tay lại và dùng hết sức lực đấm vào quai hàm tôi một quả đấm. Đầu tôi lạng đi, chúi vào tường cách đó khoảng một thước. Đầu lưỡi tôi bị cắn rách, máu chảy ra nồng cả mũi. Xen lẫn vào đó là tiếng khóc của em gái tôi cùng với tiếng con chó của Jimmy sủa lên trước khi tôi chẳng còn biết trời trăng gì nữa. Tín xông lại dựng đứng tôi lên. Tôi từ từ tỉnh lại nhưng mắt hoa chẳng nhìn thấy cái gì rõ ràng cả. Tín túm lấy ngực áo của tôi để giữ cho tôi thẳng người, đồng thời đấm vào mặt tôi thêm một lần nữa. Trong cơn tuyệt vọng, tôi quơ lấy tay hắn và cắn một cái xuống thấu thịt. Hắn gầm lên một tiếng kêu thảng thốt và đẩy ngay tôi ra. Tôi lại ngã vật xuống đất trong khi cả nhà hắn đứng im lặng nhìn.

Tín chạy trở vào nhà rồi lại xuất hiện ngay lập tức. Bàn tay hắn nắm chặt cái đầu búa, cán búa thò ra giữa những ngón tay. Bác gái tôi cảnh cáo:

- Coi chừng, Tín. Đừng có đánh vào mặt nó.

Từ phòng khách nhà họ, chị Ánh Nguyệt lên tiếng, giọng yếu ớt:

- Ngừng tay lại. Mày làm gì thế, Tín! Chúng nó cũng là máu mủ với mày mà.

Cơn ho của chị làm cho mấy tiếng sau bị chìm đi. Tín nạt:

- Chị im miệng đi! Bộ chị theo bên nó hả?

Rồi hắn quay sang bà mẹ nói tiếp:

- Đừng lo, mẹ. Hôm nay con sẽ trừng trị cho cái thằng lai giống này, cho nó một bài học để nó chừa cái tật ăn cắp luôn.

Tôi nhìn thấy hắn nhào tới, cái cán búa nhắm ngay vào mặt tôi. Tôi chỉ còn biết vùi đầu mình vào hai cánh tay trước khi hắn xáp tới gần. Thằng em tôi nhẩy ngay lại ôm chân hắn, kéo hắn ra. Cùng một lúc, con chó của Jimmy bỗng phóng mình qua tôi, chồm lên, ngoạm ngay vào bên mạng sườn của Tín. Tín hét lên một tiếng tức tối, nhưng chỉ trong một giây thôi, hắn gạt con chó ra và đá vào háng Jimmy một cái. Thằng em tôi ngã gục xuống vừa thở dốc vừa ôm lấy hạ bộ một cách đau đớn. Tuy nhiên con chó không chịu bỏ cuộc. Nó nhe bộ nanh ra, và phóng cả người về phía gã anh họ tôi. Lần này đã hết sức đề phòng, Tín vung tay lên và cái đầu búa phang ngay vào mặt con Lu. Sức vóc của hắn hất con chó tung lên cao rồi rớt xuống đất, tru lên những tiếng hú hoang dã. Sau đó, hắn nhào lên người tôi, thụi vào cái lưng phơi ra của tôi bằng nắm tay còn giữ nguyên cái đầu búa. Nằm bẹp đưới đất, tôi không còn đếm được hắn đấm tôi bao nhiêu quả. Rồi tôi ngất đi.

Lát sau tôi mơ hồ cảm giác như có ai hích vào bên sườn của mình. Ánh nắng chói lòa ùa vào khiến tôi tối tăm lại lúc vừa mới mở mắt ra. Khuôn mặt những người anh họ của tôi mờ mờ hiện ra cùng với cái đầu của bác tôi ở chính giữa... Trong lúc một người đá vào tôi, bà ta hỏi:

- Coi nó còn sống hay chết? Có đứa nào xem thử coi. Tín! Chết mày rồi! Mày đánh nó quá nặng tay.

Tôi quay mặt đi. Từ phía sau đám em hắn, giọng của Tín vang lên chế nhạo:

- Cái thằng lai giống ngu xuẩn này đánh vần còn sai chữ “khoai lang” nữa nè. Nếu đã quá ngu không đánh vần nổi thì còn bầy đặt viết lách làm gì?

Bác gái tôi hỏi:

- Tai sao hồi nãy mày không nói là mày đã viết mấy chữ cho con Hồng?

Tôi gượng đứng dậy. Xương sống tôi đau nhói lên như có điện chạy. Đầu gối của tôi run lẩy bẩy làm tôi chúi xuống. Mặc cho cả đám chăm chú nhìn, tôi cố đứng dậy một lần nữa. Bám vào theo bức tường, tôi nhích từng bước loạng choạng trở về nhà. Từ thắt lưng trở xuống, cái đau đã trở thành một cảm giác tê bại. Hồng đuổi theo kịp tôi. Với cái nhìn nghiêm nghị, chị ta ấn một bát khoai vào tay tôi và nói:

- Lấy đi. Tao không tính tiền mày đâu.

Tôi vẫn sấn tới, đi ngang qua mặt Hồng. Tôi chỉ muốn tránh bọn họ, càng xa, càng tốt. Cái giọng chua ngoa của bà bác tôi vẫn còn đuổi theo:

- Tại mày tự gây họa vào thân đó thôi. Tao đã nói trước là hãy chờ mẹ mày trở về mà. Sao mà mày lúc nào cũng cứng cổ vậy. Mày chọc tức thằng Tín làm gì? Biết nó dễ nổi cộc quá rồi mà.

Tín xen vào:

- Sao mẹ cứ phải phân trần làm gì vậy? Con không giết nó là may cho nó lắm rồi. Mẹ không thấy nó và con chó khốn kiếp của nó cắn con à?

Rồi hắn gọi tôi:

- Đồ súc sinh. Tao cầu cho tụi bay chết hết xuống địa ngục, khỏi đầu thai.

Trong lúc thằng em tôi đưa lưng cho tôi vịn để khập khiễng bước vào nhà, tôi hỏi:

- Em có hề gì không? Chỗ nó đá, em còn thấy đau không?

- Chỉ còn ít thôi.

Jimmy trả lời. Bên cạnh nó, con Lu cố liếm những vệt máu quanh cổ của nó. Với cái chân sau, nó cào một cách vô ích lên vết thương. Máu rỉ từ đám lông cổ bờm xờm xuống sàn và đông đặc cứng dưới trời nóng nưc.

Tôi nằm nhoài xuống ghế một cách khó khăn và nói với em tôi:

- Chờ anh vài phút, để anh khá hơn rồi thì chúng mình đi khỏi nơi đây.

- Mình đi đâu hả anh Kiên?

- Chúng mình đi gặp chị Loan.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:20 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi mốt


Jimmy ngước nhìn tôi ngạc nhiên:

- Chị Loan à? Nhưng chị ấy ở xa đây mà. Mình làm gì có tiền đi xe đò.

- Thì mình cuốc bộ.

Jimmy nhìn tôi hoài nghi:

- Anh có chắc là còn đi bộ nổi không?

Tôi gật đầu:

- Được. Mình hết cách rồi. Có chết tao cũng không chết ở đây. Để anh nghỉ một chút rồi nếu mày ẵm con bé Ti thì anh có thể lết được.

- Không sao, em bế nó cho.

Chúng tôi rời nhà vào khoảng mười giờ sáng, băng ngang cổng chính. Vài cái đầu lấp ló trong nhà bác theo qua những khung cửa sổ. Cơn tê bại ở phần dưới của tôi đã dần dần tan, nhường chỗ cho cái đau nhọn hoắt như có những móng tay dài thọc sâu vào lưng tôi mỗi khi tôi bước. Jimmy cõng bé Ti trên lưng, cũng đang lê phía trước tôi vài bước, con Lu đi bên cạnh. Lâu lâu nó và con Lu quay lại dòm chừng tôi, bốn con mắt tròn xoe, đen thui.

Khi chúng tôi ra tới ngã rẽ đầu tiên thì Jimmy ngừng lại. Khuôn mặt đầy vẻ lo âu:

- Anh có biết lối đến nhà chị ấy không?

Tôi đoan chắc với nó:

- Dĩ nhiên rồi! Không khó lắm đâu. Ra tới quốc lộ một, mình cứ đi thẳng miết là tới chợ. Mày còn nhớ cái chợ ấy không? Nhà chị Loan không cách xa đấy lắm đâu.

Nó hỏi:

- Nhà ấy là nhà mình hồi trước, phải không?

Tôi sửa lại:

- Bây giờ là nhà của người ta rồi. Đùng nói như thế trước mặt chị ấy, kẻo chị buồn.

Trời càng về trưa càng nóng. Khi chúng tôi đặt chân lên quốc lộ thì nhựa dường đã bốc hơi lên ngùn ngụt và chảy nhão ra, dính vào dép của chúng tôi như có keo dán. Bầu không khí nóng làm cho quang cảnh trước mắt chúng tôi như rung rinh mờ mịt. Phía trước mặt, bên kia đường là những cánh đồng nối dài nhau đến mênh mông vô tận. Con đường quốc lộ cũng chạy dài cho đến khi mờ đi thành một cái nấm nhòe ở cuối tầm mắt. Sự tĩnh mịch của mùa hè bao trùm lên mặt đất như một tấm mền vô hình bốc lên một mùi khét lẹt của cao su bị cháy. Jimmy nói nhỏ với tôi:

- Anh có chắc là mình phải đi như vậy không? Còn bao xa nữa, anh Kiên?

- Tao không biết, có thể độ năm hay sáu cây số nữa. Nếu mình muốn có cái ăn thì phải đi tìm chị Loan. Trừ phi mày có ý kiến nào hay hơn.

Chân tôi vẫn bước tới và biết rằng nó sẽ đi theo tôi.

Rồi tới một lúc, tôi không còn biết mình đã đi được bao xa, và phải đi trong bao lâu nữa, chỉ có một điều mà tôi thấy rõ là mình đã đi quá xa để có thể quay trở lại. Đằng trước, chẳng có một dấu hiệu nào cho cuộc hành trình này sẽ có lúc chấm dứt. Tôi cứ tiếp tục bước vì sợ rằng nếu chúng tôi ngừng lại để nghỉ ngơi thì sẽ chẳng còn hơi sức đâu mà tiếp tục đi nữa.

Cổ họng tôi khô cháy. Đầu lưỡi ngọ nguậy như một con cá ở trong mồm. Bên cạnh tôi, thằng em tôi lếch thếch trên đường nhựa, cõng theo em bé Ti trên lưng, tay bé kéo chiếc gối bẩn thỉu lõng thõng trên mặt đường đầy bụi bậm. Môi của chúng nó cũng bắt đầu rộp lên. Cuối cùng, nó dừng lại, đứng ỳ ở ngay giữa lộ. Tôi nhìn ra xung quanh, mơ hồ thấy chúng tôi hoàn toàn lạc lõng cô đơn trên con đường hoang vắng. Không thấy có lấy một chiếc xe, một bóng người, chỉ có chúng tôi giữa cái mênh mông của đồng lúa. Phía trước vài bước, con chó của Jimmy quay lại dòm chừng chúng tôi, cái lưỡi đỏ ké của nó thòng xuống một bên mép đang sủi bọt. Jimmy đặt em bé xuống đất. Bé Ti nhìn chúng tôi rồi òa lên khóc. Cơ thể nó bốc lên một mùi tanh tưởi như cá ươn. Thằng em tôi lắc đầu:

- Em hết đi nổi rồi anh Kiên, em cần phải kiếm cái gì để uống cho đỡ khát.

Tôi quát lên:

- Cứ đi đi. Mình sẽ uống khi nào tới nơi. Không thể ngừng ngay bây giờ được.

Nó chẳng nghe lời tôi mà nhìn quanh coi có cái bóng mát nào để ngồi nghỉ. Còn em gái tôi thì gào lên to hơn, hai chân dãy đành đạch.

Tôi quơ lấy thân mình tong teo của nó rồi hét lên:

- Nín! Có câm mồm đi không. Để cho tao được yên. Tao đâu có mắc nợ gì mà mày báo tao? Tao chẳng có bổn phận phải lo cái ăn cho mày. Tao chẳng có bổn phận phải trông nom mày. Tao chẳng phải làm cái quái gì hết. Nghe rõ chưa? Mày muốn chết hả? Bộ mày muốn thế hả?

Tôi cứ hét lên như thế mà không thể ngừng được. Mặt tôi dí sát vào mặt nó, tay tôi đặt lên cổ của nó:

- Để tao giúp mày một tay. Để tao giúp mày thoát khỏi cái nỗi khốn khổ này.

Rồi tôi tát vào mặt nó liên hồi, giằng tóc nó, kéo lê nó vòng quanh, và cuối cùng tôi dằn nó úp mặt xuống giữa đường lộ. Giiọng của tôi khản đi khi tay tôi xiết chặt lấy cái cổ gầy đét của nó:

- Mày nói gì, tao không nghe thấy! Mày có muốn chết không?

Bé Ti chớp hai con mắt, sặc sụa, cố gỡ mấy ngón tay siết chặt cứng của tôi ra khỏi cổ nó, cái gối vẫn còn bám trên tay. Nó gào lên:

- Đừng. Đừng.

- Vậy mày có chịu đi hay không? Hay là tao bỏ mặc mày ở đây cho xe nó cán.

Mắt nó trắng dã, nhìn dán vào tôi. Tôi buông nó ra, loạng choạng lui lại vài bước. Bé Ti vẫn nằm ở giữa đường. Trong lòng tôi, sự căm ghét con bé dâng lên mãnh liệt. Thâm tâm tôi cầu mong cho cái xe nào cán lên nó cho rồi. Nó mà chết thì tôi sẽ được thảnh thơi.

Từ trên con lộ trống trải, em gái tôi bò lại phía tôi bằng chân tay xương xẩu của nó. Mặt nó lem luốc đầy nước mắt và bụi bặm. Nó van nài tôi bế nó. Kiệt sức, tôi ngồi bệt xuống cạnh em trai tôi và ngửa mặt lên trời thở dốc. Sau cùng thì Jimmy góp ý là nên tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi cố gượng đứng dậy một cách khó khăn, lòng ngần ngại vì phải rời bỏ chỗ có bóng mát, chúng tôi cùng tiến về phía trước, bé Ti đã chật vật đi theo sau, cách vài bước.

Bỗng một ý tưởng chợt lóe trong đầu tôi. Tôi nói với Jimmy:

- Mình xuống ruộng đi. Nếu người ta có trồng lúa thì phải tưới nước. Vậy mình đi kiếm nước uống đi.

Jimmy không nghe tôi nói. Nó đang nghiêng cái đầu, có vẻ như đang tập trung chú ý. Rồi nó quay lại tôi, hỏi:

- Anh có nghe thấy gì không?

Tôi hỏi:

- Nghe thấy gì?

Nó đặt ngón tay lêm môi như bảo tôi yên lặng, rồi nói:

- Nghe này!

Đột nhiên tôi cũng nghe thấy. Từ phía trên một ngọn đồi, có tiếng rì rầm vẳng lại qua bầu không khí trống rỗng, nghe như tiếng ồn ào của một đám đông. Chúng tôi nhìn nhau mà không thốt lên một lời nào. Rồi với một hình ảnh của ngôi chợ hiện ra trong đầu, chúng tôi vừa chạy lên đồi vừa la hét ầm ĩ. Mở ra trước mặt chúng tôi, y như thể một trang chuyện thần tiên, là cái chợ trải dài xuống tận chân đồi. Phía sau chợ là tỉnh lỵ hiện ra sáng ngời dưới ánh mặt trời mầu cam, đẹp tuyệt vời!

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:21 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi hai

Từ ngôi chợ tới nhà chị Loan, đi cũng không lâu lắm. Tôi đã không quên đường mặc dù lần cuối cùng tôi ở trong căn nhà tính cho tới nay cũng đã hơn ba năm rồi. Thành phố thì cũng gần y như trước, chỉ có căn nhà là thay đổi quá nhiều. Chứng tích của đám cưới vừa qua vẫn còn xót lại với những thứ trang trí treo lên hàng rào hay các mảnh giấy đỏ của xác pháo còn vương vấn trên mặt đất. Căn nhà, chẳng còn cái mầu vôi vỏ trứng mà mẹ tôi ưa thích, nay đã quét thành mầu xanh lơ. Cửa sổ và cửa ra vào cũ hay bể nay được thay thế bằng những cái mới. Ở tầng trên cùng nhìn ra phố, nơi đã từng treo cái biển mang tên gia đình tôi nay có treo một lá quốc kỳ.

Khu vườn đã tươi tốt trở lại với nhiều giống cây cảnh quí trồng trong những cái chậu loại đồ cổ, đắt tiền. Hoa nở tốt tươi như đang trêu chọc chúng tôi với cái ảo tưởng rằng đằng sau cánh cổng cao lớn là đời sống thảnh thơi, vô tư lự. Tuy nhiên, cái hồ bơi thì đã cạn nước, nằm giữa khu vườn như một tỳ vết. Tôi cảm thấy mình đang đóng vai trò như một kẻ ngoài cuộc dòm vào căn nhà, y như những đứa trẻ dơ dáy mà trong những ngày xa xưa kia, mẹ tôi đã dạy tôi phải khinh bỉ. Lòng nặng trĩu tôi lại gần cánh cửa để nhấn chuông.

Chỉ trong giây lát, chị Loan đã xuất hiện với cái tạp dề cuốn quanh bụng và đôi đũa trên tay. Vừa thấy chúng tôi, chị đã giơ tay bưng lấy mặt như không thể tin ở mắt mình. Đôi đũa rớt xuống đất. Jimmy và tôi vui mừng réo ầm ĩ tên chị lên. Tuy nhiên sự nồng nhiệt của tôi đã tắt ngóm ngay khi chúng tôi thoáng thấy bóng của gã Trần từ phía sau cánh cửa lưới. Hắn ta bước ra ngoài, tiến lại cạnh chị Loan và cau mày nhìn chúng tôi. Rồi hắn hỏi chị Loan một cách cáu kỉnh:

- Sao chúng nó lại tới đây?

Chị Loan chạy xuống bậc thềm, đáp:

- Tôi không biết, con nít mà đi lang thang, chắc có gì không lành xẩy ra.

- Vào nhà ngay. Tôi cần nói chuyện với cô. Vô!

Hắn ta biến mất sau cánh cửa chính. Chị Loan ép mặt vào sát những song cánh cổng và nhìn chúng tôi, thì thào:

- Làm thế nào các em tới được đây? Mẹ đâu?

Chị nhướng mày tiếp:

- Yên đã, trả lời chị sau. Các em còn nhớ cái cửa sau không? Năm phút nữa chị sẽ ra gặp các em ở đấy nhé. Ông Trần không muốn cho hàng xóm dòm ngó mọi chuyện từ phía bên này nhà. Các em có hiểu không?

Chúng tôi gật đầu và chị Loan vội vã quay vào.

Nửa giờ đã trôi qua, chúng tôi vẫn ngồi chờ chị dưới giàn tử đinh hương. Mặt đất ướt và bẩn. Chẳng thấy bóng dáng của chị Loan đâu. Bên kia đường là một quán hàng nước mía, bà bán hàng vừa bật cái máy ép mía lên để ép những cây mía dài. Tiếng động cơ ồn ào và mùi thơm của nước mía bốc ra khuấy động cồn cào những cái dạ dầy lép kẹp của chúng tôi. Em gái tôi chúi đầu vào cái gối mốc meo của nó và lặng lẽ sụt sùi.

Có tiếng lá sột soạt ở phía sau làm Jimmy và tôi giật mình đứng dậy. Chị Loan xuất hiện phía ngoài bếp, tay giữ cánh cửa cho mở ra và nói với Jimmy:

- Để con chó ở ngoài.

Khi chúng tôi vào bên trong, chị nhận ra những vết bầm trên má của tôi, liền hỏi:

- Chuyện gì đã xẩy ra vậy? Mẹ đâu? Bả vẫn bình yên chứ?

Tôi không biết bắt đầu kể cho chị nghe từ đâu, chỉ bật lên tiếng khóc. Thế là cả mấy đứa chúng tôi đều bật lên nức nở trong vòng tay của chị. Một lát sau, chị gỡ tay ra và đứng lên:

- Chị đang nấu bếp thì có chuông reo. Để chị dọn cơm cho các em ăn. Coi kìa, tội nghiệp quá, chắc là các em đói meo lên rồi.

Tôi ngồi trên sàn, gần cái lò nóng, tuy mệt lả mà thấy mãn nguyện. Nhưng trước khi chị Loan kịp mở cái chạn ra thì tên Trần đã ập vào trong bếp. Hai bàn tay của hắn co lại thành nắm đấm dưới tay áo sơ mi. Chẳng thèm nhìn chúng tôi, hắn tiến thẳng lại phía vợ. Chị Loan đứng chết trân ngay từ khi nhìn thấy chồng. Vừa túm lấy cánh tay của chị kéo ra phía ngoài, hắn vừa ngoái cổ lại ra lệnh cho chúng tôi:

- Chúng mày ngồi yên đó, cấm nhúc nhích.

Một lát không lâu sau, chị Loan quay trở vào. Chị đứng ở cửa bếp và gậm nhấm móng tay tới cả mấy phút. Đang ngồi trên sàn, tôi đứng dậy hỏi:

- Chị Loan, chuyện gì vậy?

Đôi mắt của chị đỏ lên và đẫm lệ. Tôi lại hỏi:

- Chị nói đi, chị Loan. Chị có sao không?

Chị vuốt nhẹ lên tóc tôi như chị đã từng làm như hồi tôi còn bé, rồi nói:

- Kiên, em có nhớ chị nói với em rằng chị muốn các em tới thăm chị không?

- Vâng, em nhớ.

Chị nói qua tiếng nức nở:

- Chị rất lấy làm tiếc, đáng lẽ chị không nên nói với em như thế mặc dù lòng chị rất muốn. Nhưng bây giờ thì cả em và mấy đứa nhỏ cũng không thể ở lại đây được. Chị không biết là các em đã gặp chuyện rắc rối gì hay vì sao các em lại tới đây. Nhưng chị không thể giúp gì được. Chị không được phép dính líu vào.

Tôi nhìn vào mặt chị để thăm dò:

- Tại sao vậy? Chị nói không được phép có nghĩa là gì? Có phải là ông Trần muốn đuổi chúng em không?

Chị hỏi:

- Em có nhớ những lá thư mà chị gởi cho em mà em không bao giờ nhận được không?

Tôi gật đầu:

- Chị định nói chuyện gì thế?

- Đáng lẽ ông Trần phải trao những lá thư ấy cho em.

Tôi chợt hiểu ra:

- Nhưng ông ấy đã không trao.

Chị Loan run rẩy thấy rõ. Chị nói:

- Ngày nào mà chị còn sống trong căn nhà của ông ta, thì ngày đó chị không được phép giúp gia đình em.

Mỗi lời nói của chị lại cứa vào lòng tôi một vết thương mới. Tôi lạnh lùng:

- Thôi được, chị yên tâm. Chúng em đi khỏi ngay bây giờ.

- Để chị dẫn các em ra cổng. Chị xin lỗi các em. Chị ước mong có thể giúp các em được nhiều hơn.

- Thôi không sao. Để em sửa soạn cho mấy đứa nhỏ đã.

- Em sẽ đi đâu vậy?

- Về nhà.

Tôi dựng bé Ti lên. Jimmy ra chỗ hàng rào tháo dây cột con chó. Chị Loan quay về phía tôi hỏi:

- Chị có thể làm được cái gì cho các em?

Mùi nước mía vẫn còn lảng vảng trong không khí. Tôi nói:

- Chúng em có thể được một ly đá lạnh ở cái quán đằng kia chăng, nếu nó không quá gây rắc rối cho chị...

Một lần nữa, chúng tôi lại dò theo con phố cũ để quay lại ngôi chợ. Trên tay mỗi đứa cầm một túi plastic đựng đầy nước mía và đá cục. Những ngụm nước ngọt mát làm cho cơ thể của tôi bừng lên một nguồn sinh lực mới. Chẳng cần quay lại, tôi cũng cảm thấy được hình bóng chị Loan đứng một mình cô đơn ở giữa đường cái, dõi mắt nhìn theo chúng tôi.

Tại một cái thùng rác gần khu hàng cá, có hai thằng nhỏ tóc vàng lúi húi bới rác. Chúng ngước mắt nhìn chúng tôi một cách hầm hè như sợ chúng tôi xâm phạm lãnh địa của chúng. Một đứa bị chột một bên mắt. Con mắt còn lại mầu xanh biếc, nhấp nháy. Miệng nó ngoác ra, phô bày những chiếc răng tí hon như răng chuột đe dọa chúng tôi, đồng thời lục lọi trong đống đá lổn nhổn gần đó để tìm kiếm một món gì làm vũ khí. Còn thằng kia thì đưa vội lên mồm nhai ngấu nghiến một vật gì đó mà nó vừa tìm được trong thùng rác. Một chất nhờn nhờn mầu tím nhễu ra nhếch nhách trên khuôn mặt nó.

Jimmy hỏi:

- Chúng mình bây giờ làm gì hả anh Kiên?

Tôi gợi ý:

- Chúng mình có thể đi ăn mày xin cơm.

Jimmy rên lên một cách yếu ớt:

- Đừng làm vậy.

- Thế mày có cách nào khác không?

Chúng tôi tiếp tục đi sâu vô chợ. Ở đây đông nghẹt những người đi mua sắm chen lấn nhau tới tấp. Chúng tôi phải đeo dính lấy nhau để chống đỡ những đợt sóng người qua lại, cho khỏi lạc. Tôi phải gào to lên để át tiếng chung quanh:

- Nào, hãy sẵn sàng để xin ăn đi.

- Đừng, anh Kiên ơi. Em không muốn đi ăn mày. Mình có thể quay về nhà đem bán cái gì đi.

- Có cái gì bán được? Vả lại, liệu có ai muốn mua đồ của bọn nhóc con chúng mình không?

Đôi mắt Jimmy trở nên đẫm lệ:

- Mình có thể bán con Lu cho ông đồ tể.

- Mày điên hả. Ổng sẽ thịt con chó của mày.

- Không đâu, nếu mình năn nỉ ổng hứa với mình là sẽ giữ con chó trong hai ngày. Đến khi mẹ về thì mình mua lại con Lu, thêm cho họ tiền lời.

- Nếu mẹ không bao giờ trở về nữa thì tính làm sao?

Những giọt nước mắt chảy dài trên khuôn mặt của nó.

- Đừng nói ác như vậy chứ. Mẹ sẽ trở về mà.

Tôi nâng em gái lên và con chó theo tôi tiến về phía trước:

- Ừ, cứ giả thử mày tính đúng và mẹ sẽ trở về, nhưng chắc gì ông đồ tể đã giữ mạng con chó của mày trong hai ngày.

Nó đuổi theo tôi giọng hăm hở:

- Ông ta sẽ mà, em biết. Ông còn nợ em một điều. Nếu anh nhắc lại thì ông ta sẽ phải đồng ý như thế.

Tôi dừng lại ở ngay giữa lối đi đầy bùn, tay vẫn ôm em bé Ti:

- Tao à? Tại sao tao phải nhắc nhở ông ta? Có phải mày muốn tao đi điều đình thay cho mày đấy không?

- Anh biết là em không thể nào bán con chó của chính em được. Làm sao em có thể làm chuyện đó?

- Vậy thật tình mày muốn tao làm chuyện đó?

Nó nhìn đứa em gái tôi lúc ấy đang oằn ngả người trong tay tôi như một con búp bê dơ bẩn với nước da ngả mầu trái chanh và hấp nóng khi đặt tay lên, rồi Jimmy buồn bã gật đầu.

Tôi thở dài:

- Thôi được. Vậy nói cho tao nghe mày đã làm điều gì tốt lành cho ông ta để tao nhắc lại cho ông ta biết.

Jimmy bắt đầu kể, hơi lúng túng:

- Thế này nhé, hãy trở lại một chút. Có một buổi tối, em đang chơi đi trốn đi tìm với lũ anh em nhà thằng Duy ở ngoài đường thì bà vợ ông đồ tể tiến lại gần. Bà nhờ chúng em tìm giúp chồng bà ta đi uống rượu với bác trai từ buổi xế trưa hôm đó mà chưa về. Lúc đang giở trò chơi thì chúng em thấy bác trai trở về, say khướt, đi qua sân cỏ phía trước mà không thấy ông hàng thịt đâu. Dĩ nhiên là bà vợ ông ta hết hồn khi nghe tin này.

Cái chợ vừa khuất phía đằng sau thì khu đồi xoải xuống quốc lộ mở rộng trước mắt chúng tôi. Xa hơn nữa là quang cảnh thiên nhiên mênh mông, hoang dã và cô quạnh..

Chúng tôi từ từ đi xuống quốc lộ trong khi Jimmy vẫn tiếp tục kể câu chuyện của nó:

- Thấy vậy, em bèn trấn an bà ta là em có thể tìm ra ổng. Em biết cái chỗ nhậu đó, đường đi hơi rắc rối. Sau đó cả ba đứa chúng em, Duy và thằng Rồi, em nó, đi băng qua ruộng lúa để đi tới cái xóm kế bên. Tối hôm ấy ở đó lại bị cúp điện nên trời tối thui. Tụi này chẳng nhìn rõ đường nên cứ sụp hố hoài. Đã thế chúng nó lại cứ kể chuyện ma và dọa nhau nữa chứ.

- Jimmy, nói vào đề đi!

- Ờ, anh có còn nhớ con rạch chảy qua khu đất nhà ông ba Quì hay không? Nó dùng để tưới ruộng nhà ông ta, ngay cả trong mùa nắng hạn mà ai cũng phải cầu mưa nữa.

- Nói vào đề đi!

- Được rồi em sẽ kể tiếp. Khi tụi em tới gần con suối thì nghe tiếng ai rên rỉ như là tiếng ma than vãn vậy. Thằng Rồi tính bỏ chạy, em cũng thế. Nhưng Duy cản lại. Tụi em mới rón rén tới gần thì thấy ông đồ tể đang đứng dựa vào gốc cây, Còn mắt thì lại nhìn xuống rạch. Ông ta khóc thảm thiết, vừa nhìn xuống đũng quần vừa nói: “Lậy trời, lậy phật, con có làm gì nên tội mà sinh ra thế này. Nếu mà nó không ngưng thì chắc con chết”. Tụi em mới tiến lại gần. Rồi em nói “Chào ông, ông đang bị cái gì thế?” Ông ta ngẩng đầu lên. Dưới ánh trăng mờ mờ, mặt ông ta đầm đìa nước mắt. Ông đáp: “Tao đang sắp chết đây này”. Em mới nói: “Không chết đâu, ông chỉ đang say quá đấy thôi.” Ông ấy nói: “Suốt trong ba tiếng đồng hồ vừa qua, tao chỉ có tồ ra mà không ngừng được. Chắc là tao tháo mãi cho đến lúc chết thôi.” Em mới nói: “Không sao đâu. Ông đâu có đái. Chỉ là tiếng nước suối chảy đó thôi. Ông phải đi về cùng với chúng cháu.” Thế là tụi em kéo zíp quần của ông ta lên và dẫn ông về nhà an toàn.

Bất kể tất cả mọi chuyện, tôi phá lên cười.

- Trên đường về, ông ta rất cảm kích là tụi em đã cứu mạng ông? Nên một ngày kia ổng hứa là sẽ trả ơn lại cho tụi em.

Jimmy ngừng nói để uống nốt bịch nước mía của nó, rồi lại tiếp tục:

- Vậy anh nhắc lại chuyện này với ông và vợ ổng. Phải bắt họ đồng ý với những điều kiện của mình trước khi bán con Lu cho họ. Nếu không, thì đừng có bán.

- Được rồi, anh hứa.

Nó thở dài và nói:

- Vậy được rồi.

Nó cõng em bé gái lên lưng. Con bé đặt cái gối nhớp nhúa lên gáy của Jimmy và tựa đầu vào đó. Như thường lệ, con Lu nhâng nháo chạy trước chúng tôi vài bước và hít quanh mặt đất trong khi chúng tôi đi. Jimmy bỗng quay lại phía tôi, nói một cách lo lắng:

- Anh Kiên à.

- Cái gì vậy?

- Nếu mẹ không về thì sao?

- Tao tưởng là mày không muốn nói về chuyện đó mà.

- Em không muốn. Nhưng cũng đề phòng, lỡ xẩy ra. Vậy khi đó mình sẽ làm gì?

- Tao cũng không biết nữa.

Nó hỏi:

- Anh đừng có bỏ rơi tụi em, nghe anh?

Tôi nhìn đứa em tôi. Mới chín tuổi đầu mà nó trông như một người lớn tuổi, kiệt sức và thở hổn hển với những giọt mồ hôi đọng trên mái tóc. Tôi lắc đầu đáp:

- Sẽ không bao giờ anh rời tụi em, sống chết gì thây kệ, mấy đứa chúng mình sẽ ở bên cạnh nhau mãi mãi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:21 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi ba

Về tới lối rẽ vào xóm tôi, Jimmy ngừng lại, thở một hơi dài, rồi xốc lại bé Ti trên lưng. Nó nói:

- Em sẽ đưa em bé về nhà. Còn anh đi lo vụ con Lu. Nhớ đoán chắc là họ phải hiểu rõ những điều kiện mình đưa ra.

Tôi nhấc em bé ra khỏi lưng Jimmy rồi nói:

- Dẹp chuyện đó di. Tao không làm nổi đâu. Mình sẽ tính sau.

Trời đã sụp tối. Đường sá vắng tanh, có những con đom đóm lập lòe trong bụi râm.. Con hẻm dẫn tới khu nhà chúng tôi tưởng dài như vô tận, nhưng càng đi chúng tôi càng nhận ra mùi ổi chín thơm lừng từ khu vườn của bác tôi tỏa ra. Con chó của Jimmy rên ư ử khi chúng tôi tới gần cái cổng trước khiến cho Jimmy cứ phải vỗ nhẹ lên đầu nó để nó giữ yên lặng. Cả hai nhà đều thắp đèn sáng trưng. Trong phòng ông bà ngoại, tôi thấy lố nhố những bóng người. Từ cửa sổ, có ai đó phát hiện ra chúng tôi, la lên thất thanh.

Ông phường trưởng Ba Quì, chạy ra phía trước, theo sau là mẹ tôi. Sau lưng hai người là dì Đặng và vài người công an. Vừa thấy chúng tôi là mẹ tôi òa lên khóc. Lòng tràn ngập xúc động, chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Trong tay tôi, bé Ti dẫy dụa vì ngộp thở và mẹ tôi thì run rẩy cả thân mình.

Bà bế em bé lên, nhìn thấy ngay những vết bầm trên mặt tôi nên bắt tôi giải thích nguyên do. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đường, tôi cởi áo và chỉ cho bà thấy những chỗ sưng và bầm giập mà Tín đã đánh tôi ở phía sau lưng, còn Jimmy thì kể lại câu chuyện về mấy củ khoai lang. Bà giận đến nỗi mặt đỏ bừng bừng như than hồng.

Quay sang ông Ba Quì, mẹ tôi lấy tay quệt những hàng nước mắt. Ông trưởng phường nhíu mày, mặt đượm nét suy tư. Mẹ tôi hắng giọng nói:

- Ông đã chứng kiến tất cả rồi. Xin hãy xử vụ này cho công bằng.

Ông ta nói:

- Cô Khuôn, cô muốn tôi làm cái gì bây giờ? Cô đi vắng tới chín ngày, bỏ con bỏ cái lại bơ vơ. Tất cả chúng tôi đều nghĩ là cô đã bỏ rơi chúng rồi. Ngày mai cô lên phường trình diện. Còn bây giờ thì chưa phải lúc; trời đã tối mà lũ trẻ thì cũng an toàn rồi. Về nhà sửa soạn mà ngủ đi đã.

Bỏ mặc lời khuyên của ông ta, mẹ tôi tiến thẳng lại ngôi nhà của bác tôi, đạp tung cánh cửa trước. Tay chống nạnh, bà hướng mặt về phía căn phòng khách, đồng thời réo tên Tín lên. Giọng của bà xoáy vào đêm tối, không có dấu vết mảy may nào là sợ hãi.

Ở trong phòng của mình, chị Ánh Nguyệt thức dậy và húng hắng ho. Có tiếng bà bác tôi hét trả lời mẹ tôi:

- Làm cái gì mà la lối ỏm tỏi lên vậy? Mày muốn tính chuyện với nó, chờ đến sáng mai hẵng hay!

Từ căn phòng ngủ, nơi bà ở chung với bốn con gái nhỏ từ nhiều năm qua, bác tôi hiện ra.

Mẹ tôi la lên:

- Tôi muốn giải quyết ngay bây giờ!

Bác tôi la lại:

- Được rồi. Thằng Tín đâu. Ra ngay đây.

Ông Ba Quì chen vào:

- Nghe tôi đây, các bà. Đừng có gây thêm chuyện nữa. Tôi không muốn phải còng đầu ai hết.

Có tiếng bật công tắc đèn và ánh sáng tràn ngập phòng khách. Tín bước về phía mẹ tôi với vẻ bối rối. Mẹ tôi nhìn chằm chằm vào hắn, rồi nhìn cha mẹ của hắn, cất tiếng:

- Hôm nay, chỉ vì ba miếng khoai nhỏ, mày gần giết chết con tao. Sinh mạng của các con tao đối với mày rẻ rúng như thế hả? Nhìn quanh thử coi, mày trông thấy cái gì?

Tín chuyển động hai chân, điệu bộ bồn chồn. Mẹ tôi hỏi lại lần nữa rồi tự trả lời ngay:

- Mày trông thấy cái gì? Tất cả mọi thứ, từ căn nhà tới đồ đạc, ngay cả những đồ ăn còn dính trên kẽ răng của mày kia cũng đều là của tao tất. Đúng đó. Muốn biết thì cứ hỏi ông bố, bà mẹ vô dụng của mày coi. Mày có thể không thèm kính nể gì tao, hay tử tế gì với lũ con tao, nhưng mày không thể chối bỏ gì được cái thực tế rằng có được sự tồn tại của tụi bay chính là nhờ có con điếm hạ cấp này. Đừng hòng đụng đến con tao một lần nữa! Lần sau mà tao thấy mày sờ một ngón tay vào người chúng nó, tao sẽ đốt rụi cả căn nhà này cho coi. So với tụi bay, tao chẳng có gì để mất, vậy đừng có dồn tao vào chân tường.

Rồi bà xỉa tay về phía bác gái khi đó đang xanh xám với sự bối rối, ngượng ngập:

- Còn bà nữa, mỗi lần bà nói tôi là em gái độc nhất của bà, tôi muốn tin bà tận đáy lòng, nhưng không bao giờ nữa. Lần nào tin bà xong thì cũng chỉ kết thúc bằng đau khổ quá mức thôi. Hôm nay, con bà đánh con tôi thừa sống thiếu chết, thì liên hệ giữa tôi với bà kể như chấm dứt. Cũng kể từ nay, chúng ta chỉ còn là hai cái gia đình bất hạnh chung nhau cái giếng và cái hố xí mà thôi.

Bà dậm chân xuống đất bình bịch như để nhấn mạnh thêm lời nói của mình:

- Có giỏi thì bà nhìn kỹ cuộc đời của bà coi. Bà có biết tại sao bà lại cho phép con bà nhũng nhiễu con tôi không? Lý do là vì ghen tức. Bà ghen tức vì trên thực tế, trong con mắt của bà, cả cái lũ con mười bốn đứa của bà chẳng bao giờ được đánh giá cao bằng một đứa con lai giống của tôi. Đau đớn lắm, phải không? Biết rằng cả đám con bà chả bao giờ nên người, nhưng làm sao chúng có thể nên người được! Nhìn coi chúng nó và những đấng bậc cha mẹ đã đưa chúng nó ra đời! Tôi thành thực ước mong rằng tôi không còn phải nhìn cái bản mặt của bà một lần nữa.

Mẹ tôi dẫn chúng tôi trở vào nhà, đóng sầm cánh cửa lại. Dì Đặng đi theo chúng tôi. Ông trưởng phường và đám công an vẫn đứng ở ngoài khu vườn nhà bác tôi. Ông ta lấy lại bình tĩnh và thét lên phía đằng sau mẹ tôi để ra oai:

- Cô Khuôn. Sáng mai hãy ra trình diện tại văn phòng của tôi.

Quay về phía chúng tôi, mẹ tôi bây giờ mới nhận ra khuôn mặt bệnh hoạn của em gái tôi. Bà hỏi:

- Con thấy thế nào, cưng?

Bé Ti rên rỉ:

- Cho con ăn...!

Mẹ tôi kêu lên:

- Ồ, dĩ nhiên... lu bu quá... Mẹ đang nghĩ gì nhỉ? Ờ... Tụi mình đi ra quán mì ăn nghe. Chị Đặng ơi, chị đi với tụi tôi nhé?

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:22 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi bốn


Từ nhà tôi đi bộ ra quán mì - ngay cạnh một chuồng trâu cũ mất khoảng mười lăm phút. Phía đằng sau, thấp thoáng dưới ánh đèn mờ nhạt là đường rầy xe lửa. Mùi phân trâu hòa lẫn mùi thịt heo nướng phảng phất trong không khí. Quán này đúng ra là một phần phụ nối từ một căn bếp của một tư gia nối dài ra tới ngoài vườn bằng mấy cái bàn lớn và mấy cái ghế dài. Chủ quán là một bà trung niên, quần áo nồng nặc mùi cà ri và mỡ cháy. Bà ta ngồi trên một cái ghế đẩu nhỏ bằng gỗ bên bờ giếng để rửa thịt con heo. Mái tóc muối tiêu của bà được bới về đằng sau một búi nhỏ trên đầu và được cài bằng một cái lông nhím. Ngay cạnh chân bà là một nồi chứa đầy dồi luộc, có những khúc tràn ra ngoài lơ lửng trên mặt đất bùn. Bụng con heo được xẻ dọc từ cổ xuống tới tận đuôi, bị banh ra dưới bàn tay thiện nghệ của bà, phô ra cho thấy cả những vết máu bầm bên trong. Dưới ánh sáng mờ mờ của căn bếp, hai nồi nước dùng đang sôi sùng sục bốc mùi gia vị, mùi cá, mùi thịt lan tỏa vào bóng đêm.

Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế dài. Bà chủ quán ngừng công việc, rửa tay trong một cái chậu rồi lơ đãng nghe mẹ tôi gọi các món ăn. Bà ta hỏi:

- Các cô có muốn nhấm nháp thứ gì trước không?

- Không, xin cám ơn. Bà cho tôi ba tô mì vịt tiềm cho mấy đứa nhỏ, tô lớn nhất ấy.

Bà ta nhìn mẹ tôi và dì Đặng:

- Vậy còn hai cô, không ăn gì cả sao?

Cả hai đều đồng loạt lắc đầu.

Tại bàn bên cạnh, một cô gái mãi dâm ăn mặc nửa kín nửa hở, đang ngồi chung với một ông khách. Họ dính vào nhau, tay chân quặp cứng vào nhau cứ như một cặp sinh đôi dính chặt kiểu “siamese twin” miệng thì sì sụp tô mì. Ngồi ở đầu ghế bên này, mẹ tôi đùa nghịch với mái tóc ngắn của tôi. Bà hỏi:

- Hồi chiều con dẫn mấy đứa đi đâu vậy?

- Con dẫn Jimmy và bé Ti đi gặp chị Loan.

Mẹ tôi gật đầu, nhận xét:

- Mới mười một tuổi đầu, con tính được như vậy là giỏi đấy. Nhưng nghĩ như thế nào mà con lại đi gặp chị Loan?

- Hết cách rồi, nhưng mà con biết là tụi con phải ra khỏi nhà.

- Tới chị Loan rồi thì sao?

Bà chủ quán quay lại với một khay đồ ăn. Những cái bát đặt trước mặt chúng tôi đều có những bông hoa men đã bạc cả mầu. Hơi khói bốc ra từ lớp nước dùng sóng sánh mầu vàng hung tỏa lên mặt nóng rực. Bụng tôi quặn thắt lại, nước dãi trong mồm ứa cả ra. Tôi vắt một miếng chanh vào bát của tôi.

Ở bàn kế bên, cô gái điếm bỗng nhiên ngồi thẳng ngay dậy, la chói lói về phía cuối sân bằng một giọng thô bỉ:

- Cút ngay, đồ đĩ ngựa!

Trên bả vai trần và cánh tay của cô xuất hiện những vết lở lốm đốm mầu đỏ loét như những bông mười giờ. Cô ta tiếp tục la lối:

- Bỏ cái trò theo tao bén gót đi!

Bà chủ quán mì nhún vai, giải thích với chúng tôi một cách tự nhiên:

- Nó la lũ con nó đấy. Tụi nhỏ đêm nào cũng mò tới đây dòm miệng. Mà đêm nào mẹ chúng cũng chửi om xòm, đuổi chúng đi.

Jimmy nói:

- Cháu có thấy đứa nào đâu?

Bà chủ quán trả lời:

- Dĩ nhiên là làm sao thấy được. Mấy đứa nó đen thủi đen thùi, khó mà nhìn thấy, nhưng quả thật chúng ở ngoài ấy đấy.

Tôi nhìn vào bóng tối dầy đặc. Trời không có một vì sao, trên con đường hẹp không có lấy một ngon. đèn đường. Nhưng quả vậy, tôi có thể nhìn thấy hai cặp mắt sáng quắc nhìn chúng tôi như mắt của những con sói đói. Dì Đặng hỏi:

- Lai Mỹ phải không?

Bà chủ quán gật đầu:

- Loại cơm cháy!

Mẹ tôi nhận xét:

- Như vậy tàn nhẫn quá. Nếu cô ta không muốn giữ chúng nó thì tại sao không đem cho đi.

Bà chủ quán đăm chiêu:

- Ui dà! đừng tưởng cô nàng không thử rồi. Cái con mẹ tồi tệ này đã lần lượt bán đi gần hết lũ con ngay từ lúc chúng vừa mới nhú lên cái răng sữa đầu tiên kià. Nhưng hai đứa nhỏ này không bán được. Đã là con gái lại Mỹ đen, ai mà thèm.

Mẹ tôi im lặng, bà ta tiếp:

- Để tôi nói chuyện này nghe còn thê thảm hơn nữa. Mấy tháng trước đây, mẻ mất đứa con gái, con chị của hai đứa này, chừng mười hay mười một tuổi gì đó. Con bé ấy vẫn la cà ở đây xin ăn. Một hôm có mấy thằng chộp nó ngay tại đây, ngoài lề đường. Ba thằng đàn ông. Tụi nó móc ngoặc sao đó với con mẻ để mua trinh đứa nhỏ. Rồi tụi nó mang con bé vào tuốt trong cái trại bỏ hoang ở bên kia. Một thằng đút cái của nó vào miệng con bé trong khi hai thằng kia ghìm nó xuống. Tội nghiệp con bé đâu có biết gì, nên thay vì chiều thẳng chả, nó lại cắn của chả.

Mẹ tôi ngắt lời bà ta, nhìn chúng tôi nói:

- Ăn đi tụi bay. Đừng có nghe chuyện của người lớn.

Dì Đặng lên tiếng:

- Tôi có nghe chuyện ấy rồi. Tụi nó lấy đá đập bể đầu con nhỏ tới chết.

Bà chủ quán gật đầu:

- Đúng đó. Đập đầu con nhỏ như đập ruồi vậy. Chả ai nghe kêu la gì hết vì lúc đó có chuyến xe lửa chạy rầm rầm. Rồi chúng nó đút tiền cho con mẻ để nó câm mồm. Công an không tìm thấy thủ phạm, thế là con nhỏ chết lãng nhách. Chả ai buồn quan tâm.

Dì Đặng trầm ngâm:

- Tôi nhớ ra con bé ấy rồi. Tóc của nó rậm rì, nom xa giống như cái tổ ong vậy.

Bà chủ quán nói:

- Cái đầu ấy đã bị cạo hôm trước khi nó chết. Tóc nó xoăn tít, có cái đồ gì lọt vào là mất tiêu. Lúc cạo đầu, xấp nhỏ kiếm ra được đủ thứ lọt trong mái tóc, nào là bàn chải đánh răng, lược, kẹp, giấy, dây thung, còn gì nữa có trời mà biết. Nói cho mà nghe, lũ con của cô là may mắn lắm đấy, vì chúng nó da trắng. Ít ra thì chúng nó còn có cơ mà sống. Chứ lũ cơm cháy thì xui tận mạng.

Tôi đã ăn xong và để cái tô không lên lại trên bàn. Em gái tôi thì nhấm nháp tô mì của nó chậm chạp như một con miu. Mẹ tôi nhìn tôi một cách ngạc nhiên:

- Sao con ăn lẹ thế? Có muốn gọi thêm một tô nữa không?

Tôi ngần ngừ:

- Nhưng sao mẹ không ăn?

- Mẹ không thấy đói.

- Có chuyện gì xẩy ra hả mẹ? Tại sao lâu thế mẹ mới về nhà?

Mẹ tôi xoay mặt, tránh cái nhìn chăm chú của tôi:

- Con chẳng muốn biết đâu.

- Dĩ nhiên là con muốn biết chứ. Tụi con bao giờ cũng chỉ nghĩ đến mẹ. Mẹ đi Sài Gòn phải không?

Mắt bà nhìn sững những móng tay:

- Mẹ bị bắt ở Sài gòn vì buôn bán không có giấy phép. Nhưng cái thật sự ngán ngẩm không phải là thời gian nằm tù mà là chuyện mất hết cả vốn liếng.

- Chuyện xẩy ra như thế nào?

- Ai mà biết! Dì và mẹ đang ngồi ăn sáng ở ngoài chợ thì thấy một thằng chệt ngồi ăn sáng ở bên kia. Mẹ cũng nghĩ nó là một tay buôn. Mẹ với dì mới qua nói chuyện phiếm.

- Chuyện phiếm?

- Chuyện buôn bán ấy mà. Thế là nó rút ngay khẩu súng ra và còng ngay mẹ với dì ở ngay đám đông rồi thẩy vô tù.

Tôi đẩy cái bát không ra xa:

- Vậy con chẳng ăn thêm nữa đâu. Mẹ đâu có nhiều tiền.

Dì Đặng chen vào:

- Đừng có lo. Dì còn vài cái giấy cụ Hồ đỏ chói trong túi đây. Chúng mày cứ việc ăn thoải mái đi.

Khuya hôm ấy, sau khi đặt bé Ti và Jimmy trong phòng ngủ của ông bà, mẹ tôi tới chỗ giường ngủ của tôi. Bà ngồi xuống mép giường, nhìn tôi với đôi mắt đầy đau khổ. Sắc đẹp vốn đã từng một thời được giữ gìn cẩn thận trên gương mặt của bà nay đã biến mất từ lâu, chỉ còn lại một nét tuyệt vọng, khốn cùng. Trong khoảng khắc, tôi gần như không nhận ra bà là ai và sự xa lạ này làm tôi bồn chồn. Bà hỏi tôi:

- Nếu mẹ không trở về nữa thì con sẽ tính sao?

- Con cũng chẳng biết nữa, mẹ ơi. Con chờ đến khi mẹ về thì thôi.

- Nhưng nếu mẹ không về nữa thì sao?

- Sao lại không. Mẹ có bổn phận với tụi con mà.

- Nếu mẹ chết đi rồi thì còn bổn phận gì nữa! Điều đó sẽ có lúc xẩy ra. Mà nếu như vậy, thì con sẽ làm gì, Kiên?

Tôi bắt đầu khóc:

- Con không biết. Xin mẹ đừng hỏi con những câu hỏi khó như thế nữa. Nói cho con biết con phải làm gì. Con tính dẫn tụi nó đi ăn mày nếu mẹ không quay về. Jimmy thì nó tính bán con Lu nhưng chúng con không đành.

Mẹ tôi bật khóc:

- Con có tính bỏ rơi các em của con không?

- Không đâu mẹ!

Bà ôm chầm lấy tôi, nước mắt của bà hòa lẫn với nước mắt của tôi:

- Tội nghiệp con tôi. Cho dù con thoáng có ý nghĩ bỏ rơi các em mà ra đi, thì cũng chả cần phải xấu hổ vì điều đó mà làm gì. Mẹ cũng hiểu, con ơi!

Bà giơ tay áo lên quệt mắt rồi tiếp:

- Nhưng mọi sự yên ổn rồi. Mẹ còn đây và các con đã an toàn. Thôi, ngủ đi.

Lúc bà đi ra, tôi lên tiếng gọi bà. Mẹ tôi quay lại hỏi:

- Cái gì nữa thế, con?

- Mẹ ơi, xin mẹ đừng bỏ chúng con, nha mẹ.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:22 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi lăm

Sáng hôm sau, lúc tỉnh dậy tôi thấy buốt nhói gấp bội ở thắt lưng của mình. Ngay cả lúc thở cũng thấy đau. Tôi bò ra khỏi giường và cố lết thật chậm ra cầu tiêu, đi ngang qua phòng của chị Ánh Nguyệt. Chị đang ngồi đờ đẫn trước gương, ngắm nhìn hình ảnh chính mình. Lối đi tới nhà cầu tưởng như dài vô tận. Cứ mỗi bước đi, tôi lại thấy cả ngàn đốm đen nổ tung trong mắt của mình. Đau quá, tôi cũng chẳng buồn đóng cánh cửa lại.

Khi đi tiểu nửa chừng thì tôi phát hiện được rằng thay vì nước tiểu, tôi đã đái ra máu. Những giọt đặc quánh, mầu đỏ tía cứ tuôn ra làm tôi hết hồn vía. Tôi vội kéo chiếc quần cộc lên dù chưa xong, để mặc cho nước tiểu cứ tiếp tục tuôn ra phía trước quần, rồi tôi loạng choạng đi tìm mẹ tôi. Bà đang ở trong phòng ông bà tôi cùng dì Đặng. Mẹ tôi kéo chiếc quần của tôi xuống để kiểm soát nhưng chẳng thấy có gì bất thường ngoại trừ chỗ máu tôi đái ra. Hốt hoảng, bà la toáng lên:

- Ôi trời ơi, nó bị cái gì thế này. Chị Đặng ơi, giúp giùm tôi với.

Dì Đặng lắc dầu:

- Nó bị đánh chấn thương ở bên trong rồi. Phải mang nó đi bác sĩ.

- Tôi làm gì có tiền mà chở đi bác sĩ. Mà cái bọn sinh viên thực tập ấy thì làm được cái gì? Tụi nó lúc nào cũng ngơ ngơ ngáo ngáo, chẳng bao giờ biết mình làm cái gì hết.

Dì Đặng góp ý:

- Vậy thì mang nó đi thầy lang của bà cụ, coi ông ta nói sao.

Sau khi khám xét, Ông lang tuyên bố rằng tôi đã lãnh một cú chí tử vào một bên thận. Nhưng vì tuổi tôi còn non và khỏe mạnh, vết thương sẽ lành lặn hẳn. Sau vài thang thuốc đắng nghét do chính ông ta bốc cho tôi, máu cũng cầm lại.

Một tuần sau, ông bà tôi cũng từ bệnh viện trở về. Cái chân của bà ngoại tôi vẫn sưng to và nhoi nhói đầy mủ, nhìn từ xa, nó đen xì giống như một quả cà tím, to tướng và chín rục. Ngoại ngồi trên ghế dưới bóng cây mít ngoài vườn, lắng nghe chị Ánh Nguyệt đọc kinh Phật lâm râm. Gió chiều nóng nực thổi qua tàng cây có những nhánh uốn lượn như một đàn rắn. Làn da rám nắng của hai người phản chiếu ánh sáng mặt trời. Ngoại tôi vùi chân trong lớp cát nóng. Tâm trí ngoại dường như chìm sâu trong những chương kinh Phật

Còn chị Ánh Nguyệt, trong mấy tháng vừa qua, sức khỏe của chị suy sụp thấy rõ. Cứ sáng ngủ dậy là chị lại bắt đầu ho khọt khẹt... Bên bờ giếng, chị ngồi gục đầu giữa hai đầu gối hàng giờ để khạc đờm cho bật ra khỏi hai lá phổi. Đôi khi chị khạc ra cả máu. Hai má của chị vốn ngày xưa giòn dã như mầu nước trà tầu nay vàng bủng beo. Chị rất kỹ lưỡng, lúc nào cũng che dấu vẻ bệnh hoạn của mình dưới một lớp trang điểm. Nhiều khi chị đánh lớp phấn quá dày nom như nghệ sĩ cải lương sắp lên sân khấu. Nhìn thấy tôi bước vào khu vườn, chị gật đầu chào:

- Khỏe chưa Kiên?

- Cám ơn chị, em bớt rồi.

- Cái lưng đau ra sao rồi?

- Khá hơn nhiều. Thuốc bắc ông lang đó khá tốt.

- Chị muốn lên chùa xin vài món thuốc linh chữa bệnh ho của chị. Em có muốn đi với chị không? Thuận tiện, em xin mấy vị sư cho em thứ gì đó để chữa cái lưng đau. Nếu không thì mình lên chùa cầu Phật độ trì cho sức khỏe của bà ngoại.

- Vậy thì đi.

Lý do tôi nhận lời mời của chị khá đơn giản. Tôi rất thích chị Nguyệt. Do bệnh hoạn nên đã mấy tuần nay chị không gặp anh Ty rồi. Tôi cũng nhớ những đêm chị còn khỏe, tôi đã làm lính gác cho hai người hôn nhau vụng trộm sau bụi cây sứ ở cuối xóm.

Ngôi chùa nằm ở một triền núi, cách nhà chúng tôi khoảng hai chục cây số. Dân địa phương gọi là Long Sơn Tự. Cửa chùa rộng mở cho người đau ốm ở khắp mọi nơi. Mỗi chuyến đi, chúng tôi phải bỏ ra mất hai mươi phút trên xe buýt và thêm hai mươi phút leo núi nữa. Từ dưới đất trèo lên chính điện có tổng cộng một trăm bốn mươi hai bậc đục vào núi đá. Chị Ánh Nguyệt đi chậm rãi, cứ mươi bước lại phải dừng trên những bậc đá nhưng rồi chúng tôi cũng tới được cái sân rộng tràn đầy khách thập phương.

Đứng ở hành lang, người ta có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố và các khu lân cận. Nền hành lang lát bằng gạch men mầu xanh đậm luôn luôn được các tín đồ lau chùi sạch bóng, lóng lánh ánh nắng mặt trời như một mặt biển. Ở chính giữa nền là một đóa sen khổng lồ với những cánh sen chạm bằng đá cẩm thạch. Đài sen là một bệ hình trụ tám mặt, diễn tả tám cánh cửa địa ngục. Ngồi chỉnh tề giữa đóa sen là một tượng Phật cao bằng tòa nhà bốn tầng, tạc bằng đá cẩm thạch mầu trắng, hai tay chắp gọn ghẽ vào đùi, Phật ngồi mắt nhắm như trầm trong tĩnh lặng. Người ta đồn rằng, nguyên thủy, con mắt thứ ba của tượng Phật làm bằng một viên ngọc lục rất lớn, Nhưng qua thời gian đã thất lạc hoặc bị lấy trộm đi. Bây giờ, một bóng đèn mầu xanh được thay thế để che lỗ hổng trên trán Phật. Ánh sáng của ngọn đèn soi xuống khuôn mặt an nhiên tự tại, tồn giữ vẻ tôn nghiêm của nơi này dù có vô số khách thập phương tới chiêm bái mỗi ngày.

Những mái chóp mầu đỏ và các cây cột mầu vàng kim được dựng lên ở phía sau tượng nom cũng đẹp đẽ và cổ kính như ngọn núi có ngôi chùa tọa lạc. Trong chính điện lúc nào cũng tràn ngập khói hương. Mỗi khách hành hương đều được phép cầu xin một điều ước. Bàn thờ Phật được đặt ở trong cùng của chính điện, được trang hoàng bằng nhiều tượng Phật đủ cỡ, đủ loại. Hầu hết tượng Phật đều được thếp vàng hay làm bằng đồng thau. Một cái lư được làm bằng đồng đỏ được đặt ở chính giữa là nơi để cắm những nén hương. Xếp thành hàng ở hai bên chính điện là những vị sư mặc áo vàng đang ngồi tọa thiền.

Dọc theo triền núi, một giải nước chảy qua vách đá rót xuống mái chùa ở phía sau điện thờ chính, chảy xuống sàn rồi theo ống cống tuôn xuống dòng sông ở phía dưới. Hơi nước từ đó tỏa lên quyện lấy mùi nhang như một làn hương thơm tho và giữ cho trong chùa quanh năm được mát mẻ.

Ở mé bên phải của ngôi chùa, một con đường nhỏ được lát gạch đỏ dẫn đến một khu ở đó có các vị sư phân phát thuốc nam. Cuối con đường, sau khu rừng tre rậm rịt, là một ngôi nhà tranh nhỏ được dùng làm chỗ chữa trị cho bệnh nhân. Chờ cho chị Nguyệt lấy số thứ tự từ một ni cô đang đứng ở cửa xong, chúng tôi bước vào bên trong phòng đợi.

Sau khi chị được thầy cho ba thang thuốc, chúng tôi đi tản bộ ra hành lang trên chùa. Dưới chân chúng tôi, thành phố nhỏ xíu nom như đồ chơi con nít.

Chị Nguyệt hỏi tôi:

- Hồi nãy ở trong chùa em cầu điều gì vậy?

- Em cầu xin cho bà ngoại sớm được khỏi bệnh. Rồi em khấn Phật xin Ngài cho em biết tin tức về ba của em.

- Trong đó có nhiều Phật, vậy em cầu ông Phật nào, Kiên? Mà này sao em tham quá vậy, cầu tới hai điều lận!

Tôi thở dài:

- Em biết. Nhưng em cầu ông to nhất ở chính giữa có nhiều tay ở chung quanh mình. Em hy vọng là ổng bự như vậy, có thể ông dư cho em một lời cầu xin nữa.

- Em hỏi ổng rằng ba em là ai? Có bao giờ nghĩ tới em không, có biết rằng em đang hiện hữu không?

Chị Ánh Nguyệt nhướng mắt lên:

- Sao em hỏi toàn những câu hỏi khó thế? Nếu ngài trả lời không được thì sao?

- Thì em cứ tiếp tục trù ổng hoài cho tới khi nào ông trả lời em mới thôi.

- Em muốn biết về ba để làm gì, hả Kiên?

Tôi trả lời không cần suy nghĩ:

- Em ghét sống ở đây. Em cầu cho ba em mang em về Mỹ cho rồi.

Chị Ánh Nguyệt bắt đầu cất tiếng hát. Trong buổi chiều oi bức, giọng của chị nghe buồn thảm hơn cả tiếng khóc. Tôi hỏi chị để ngắt bài hát buồn bả ấy:

- Còn chị với anh Ty thì sao? Khi nào chị lại gặp anh ấy?

- Không biết nữa. Có thể vài năm nếu chị may mắn. Tuần vừa rồi, anh ấy bị gọi đi nghĩa vụ quân sự sang đánh nhau ở Căm-pu-chia. Cuối tháng này thì anh ấy khởi hành rồi.

Tôi choáng người, nhìn chị:

- Thật à?

Tôi không thể tưởng tượng nổi cái hình ảnh của anh Tống Ty mặc bộ quân phục. Đăm chiêu, tôi nói tiếp:

- Mà hôm nay là ngày cuối tháng rồi.

- Đúng vậy. Trưa nay, anh ấy đi rồi.

Tôi nhìn chị như không tin:

- Vậy sao chị không ở nhà để chào từ biệt anh ấy?

Chị không trả lời.

Bỗng nhiên tôi, chợt hiểu ra:

- Chị không đi với em tới đây để hốt thuốc mà là để cầu Phật phù hộ cho anh ấy, có phải không?

Chị cười buồn:

- Đúng. Nhưng mà chị biết anh ấy không đi Căm-phu-chia đâu.

- Sao chị biết?

- Ảnh nói với chị là ảnh vượt biên. Chị cầu nguyện cho anh đi thoát. Mỗi người có một điều ước, thì đó là lời cầu xin của chị.

- Chị ơi...

- Kệ nó đi, bây giờ trời đã trễ. Có thể anh ấy đã đi mất rồi. Thôi mình về đi.

Chị đứng dậy khỏi chiếc ghế dài. Tôi đưa tay cho chị vịn. Chị níu chặt lấy. Tôi cam đoan với chị:

- Đừng lo. Lần sau mình tới đây, em sẽ cầu xin cho sức khỏe của chị, chị Moonlight ơi.

Chị mỉm cười, nghiêng người hôn nhẹ lên má tôi. Môi chị lạnh ngắt:

- Cám ơn em, cưng. Nhưng nếu em cầu xin cho chị rồi thì ai cầu xin đức Phật về ba cho em đây?

Tôi nhún vai:

- Chuyện đó chờ từ từ cũng được. Chị là bạn thân duy nhất của em trong căn nhà đó. Em thà là mong chị có sức khỏe còn hơn là chuyện kia.

Sau đó tôi nghe Duy nói anh Tống Ty đã đi Tân Gia Ba vào đúng cái lúc mà chúng tôi đang ngồi tại băng ghế đá dài ở trên chùa buổi trưa hôm đó. Mẹ của anh đã đút lót cho nhiều công an trong thành phố để anh có thể trốn thoát. Một tháng sau chị Ánh Nguyệt đã nhận được thư anh, đóng dấu từ bưu điện Tân Gia Ba. Đó là lá thư duy nhất và cũng là lá thư cuối cùng mà chị nhận được từ anh Tống Ty.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:23 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi sáu

1980

Thuốc bắc không chữa được cái chân nhiễm trùng của bà tôi. Trong suốt hai năm trời, chúng tôi đã chứng kiến tình trạng sức khỏe của bà tôi cứ tiêu mòn đi cho tới khi bà không còn bước ra khỏi giường được nữa. Mọi buổi sáng chúng tôi nặn mủ vào một cái chậu. Ban đêm, tiếng niệm Phật của bà và tiếng lách cách của móng tay va chạm vào những viên tràng hạt vang vọng trong tai chúng tôi. Ông thầy lang gợi ý là bà tôi phải đem chân đi cưa tại bệnh viện thành phố. Nhưng thuốc men thì khan hiếm, khi kiếm ra thì lại quá đắt mà bệnh viện cũng chỉ chữa chạy sơ sơ thôi, vì vậy bà tôi đành cứ nằm ở nhà chờ chết.

Một buổi trưa, mẹ tôi dẫn tôi đi vô rừng, nằm ở phía bên kia núi. Lần theo con đường mòn có cây cỏ mọc tràn ra, chúng tôi đi đến mấy tiếng đồng hồ cho đến khi gặp một khoảng đất rộng, chính giữa mọc một cây xay cổ thụ..... Những rễ nhánh của nó từ các cành mọc chìa ra, thòng xuống đất nom như những lọn tóc. Trên mặt đất tràn đầy trái xay có vỏ màu đen và mịn như nhung, rải ra như một tấm thảm sa tanh, khi bước chân tôi dẫm xuống, chúng bể ra, tạo thành những tiếng lép nhép. Mẹ tôi trỏ tay lên cao, và theo tay chỉ của bà, tôi thấy một cái chòi bằng tre treo tuốt trên ngọn cây nom như một cái tổ chim. Đó là nơi cư ngụ của ông thầy lang, một thầy pháp đã tạo dựng được tiếng tăm trong đám dân cư nghèo bằng những pháp thuật kỳ quái.

Trong rừng, trời mau tối. Vì chúng tôi không được mời lên chòi nên đành tạm ngủ qua đêm trên mặt đất bên cạnh cây cổ thụ với những nhánh rễ chằng chịt. Trong bóng đêm ma quái của rừng sâu, ánh sáng từ ngọn đèn dầu lắc lư khiến cho cái chòi của ông thầy pháp sáng lên như một hộp diêm quẹt, giữ cho những loài thú hoang không lảng vảng đến gần.

Sáng hôm sau, chúng tôi đón thầy pháp về nhà và đưa lão ta vào phòng của bà ngoại tôi. Thoạt trông thấy bà tôi, lão già hấp him mắt nhìn với vẻ tò mò. Rồi lão bảo mẹ tôi cột hai tay của bà tôi vào cọc giường để chuẩn bị cho cuộc giải phẫu. Đoạn lão dùng một con dao bén làm bằng xương đùi người ta rạch lên chân bà tôi. Một vòi mủ lẫn với máu vọt ra, phun cả lên mặt lão. Lão nốc một ngụm rượu rồi phun lên khắp chân của bà tôi. Sau đó, giống như ma cà rồng, lão chộp lấy chân bà ngoại, mút máu mủ và nhổ ra cái chậu để ở dưới. Rồi lão ta lại hút và lại nhổ trong suốt hai tiếng đồng hồ. Cuối cùng, lão đã hút sạch sẽ vết thương của bà tôi. Nhẹ nhàng, lão đặt chân bà tôi xuống giường, vẻ mặt thỏa mãn, rồi ngồi xuống đất. Đoạn lão nói với mẹ tôi:

- Xong rồi. Má cô sẽ khỏi. Nhưng mà không còn đi được nữa.

Lời nói của lão thầy pháp thế mà đúng. Vết thương khủng khiếp của bà tôi sau vài tuần lễ đã lành lại, nhưng cẳng chân thì khô đét như một que củi bầm đen và vô tri giác. Tuy thế, căn bệnh ung thư lại lan vào nội tạng. Vào những ngày cuối của cuộc đời, bà tôi chỉ nằm trên giường, qua cửa sổ, đăm đăm nhìn vào khoảng không. Giống như một phần tâm trí của bà đã ra đi trước khi cơ thể của bà lâm chung.

Tôi đã kiếm được việc làm sau giờ học, khiêng cá từ bến cảng vào chợ. Còn thằng Jimmy thì đi vô rừng đốn củi. Vì vừa phải làm việc, vừa trông nom bé Ti, nên trưa nào tôi cũng cột nó vào một cái cọc ở gần bờ biển, mặc cho nó khóc lóc van xin. Ở tuổi lên năm, bé Ti chậm hiểu và gầy còm. Để nó một mình trên bãi cát, tôi hòa vào đám đông toàn con nít ở bến tầu để chờ đợi những thuyền đánh cá trở về.

Sau khi được một chủ thuyền mướn, tôi chạy xuống mạn thuyền. Ở đó, cá đã được chất đống đầy ngập sạp. Một ngư phủ xúc những con cá vào một cái thúng sơn dầu hắc mầu đen láng rồi nhấc bổng đặt ngay ngắn lên đầu tôi. Máu cá và nước biển qua kẽ thúng chảy tong tong xuống lưng rồi qua gấu quần đùi, nhễu ra ngoài. Sức nặng của thúng cá làm tôi loạng choạng bước ra khỏi thuyền, tay gạt lũ trẻ sang một bên, mắt còn liếc dòm chừng em gái của tôi. Một ngày kiếm khá hay bết bát cũng còn phải tùy thuộc vào hai điều: một là ngư phủ có trúng mánh, đánh được nhiều cá hay không và hai là hôm ấy có nhiều con nít đi khuân vác, tranh giành công việc với tôi hay không. Mấy bà bán cá ngồi chờ trong chợ chỉ cách bến độ hai khu phố. Đôi khi may mắn, tôi mang được bốn chuyến. Đến cuối ngày tôi đi gặp ông chủ thuyền để nhận thù lao rồi hối hả trở về nhà nấu bữa cơm tối cho gia đình.

Một buổi chiều, trong lúc tôi đang nhích cho thăng bằng một thúng cá lớn trên đầu thì nom thấy một cô bé sà tới chỗ em gái tôi ngồi, cởi sợi dây tôi buộc tay bé Ti khỏi cái cọc gỗ. Cô này phải trạc chừng mười bốn, mười lăm tuổi, bận một cái áo cánh cụt tay mầu đỏ như mầu máu. Tôi tiến lại gần, mắt dán vào làn da nơi gáy của cô ta, trông mềm mại và trắng ngần như ngó sen. Rồi tôi quát lớn, cố tỏ ra càng hung giữ càng tốt:

- Cô kia, ai cho cô làm chuyện dó?

Cô gái ngẩng đầu lên. Trên khuôn mặt khả ái của cô, đôi mắt thật to và sáng long lanh. Mái tóc dài, đen nhánh lỏa xỏa xuống mặt. Rồi cô nhắm mắt lại như để suy nghĩ trước khi trả lời. Cả đại dương, cả bầu trời xanh, cả sự om xòm ở dưới bến cảng như nhạt nhòa đi trong tâm trí tôi. Khi tôi ngắm đôi môi hồng thắm của cô, nom như những cánh hoa thì cái thúng cá nặng chĩu và xông mùi hôi thối trên đầu của tôi cứ như là không còn nữa. Cô nói với tôi:

- Anh không thể cột tay nó như vậy được. Tàn bạo quá.

Tiếng cô nghe gay gắt và nặng với giọng mũi của người Hà Nội. Mọi người miền nam đều không ưa cái giọng nói biến âm của người miền bắc vì nó biểu trưng cho sự đàn áp của cộng sản. Nhưng với tai tôi thì lại khác, đến tiếng chim hót cũng không thể ngọt ngào bằng.

Tôi ấp úng:

- Không trói nó lại, nó chạy mất tiêu thì sao?

- Nếu vậy thì tôi sẽ ở quanh đây và trông nó giùm cho.

Tôi trả lời:

- Tôi đâu có biết cô là ai. Làm sao mà tôi tin được người lạ?

Cô ta cười phô hàm răng trắng đều và thẳng tắp:

- Thật ra thì tôi có biết anh chứ. Ngày nào tôi cũng nom thấy anh và em của anh trên bãi biển. Nếu tôi mua một con cá ngừ của anh thì anh có tin tôi hơn không?

- Cá bán không được. Không phải của mình Từ phía thuyền giọng một người lái cá tru tréo:

- Ê! Thằng tóc quăn trở lại làm việc!

Cô gái dục:

- Đi đi. Đừng lo gì cho chúng tôi. Tôi trông em gái của anh cho.

Bé Ti nhìn tôi chằm chằm vẻ sợ hãi, mặt của nó sưng vù vì khóc. Tôi quay đi, lòng ngượng ngùng, bối rối. Khi tôi bước xuống con đường để ra chợ, tôi còn nghe tiếng hai đứa cười đùa khúc khích với nhau.

Lúc tôi quay trở lại để đón em tôi thì cô gái áo đỏ đã đi mất tiêu rồi. Mặt trời đã lặn, những tia sáng mầu tím lợt lung linh trên từng đợt sóng. Bé Ti ngồi trên cát đang ăn một cái chả giò. Nó cười rạng rỡ với tôi, nhe cả hàm răng không còn cái nào. Tôi hỏi:

- Cô bạn hồi nẫy đâu?

Em tôi trả lời:

- Chị Kim đi mất rồi.

Nó giơ tay lên và xòe mấy ngón để lộ ra một gói giấy đẫm dầu trong có một cái chả giò khác và nói:

- Cái này phần anh.

Kim. Trong đầu tôi vang vọng tên của nàng. Tôi đến chỗ em gái, bế nó lên khỏi bãi cát và hỏi:

- Chị ấy có nói gì về anh không?

Em tôi trả lời, giọng hào hứng:

- Có chứ. Nhiều lắm.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:23 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi bẩy

1981

Bà ngoại của tôi không còn nói năng được nữa, chỉ có rên rỉ mà thôi. Bà tôi cũng không còn nhận ra được ai trong gia đình. Ngoại bỏ ăn, ngoại trừ mấy giọt súp do ông tôi cố bón vào trong cổ họng. Vì bệnh hoạn ngày càng nặng hơn, bọng đái và đường tiêu hóa của ngoại đã ngưng hoạt động. Nằm liệt trên giường, ngoại đại tiểu tiện lung tung. Chẳng một ai trong gia đình bác tôi chịu giúp mẹ tôi một tay trong việc săn sóc bà. Mùi hôi thối bốc ra từ sự bệnh hoạn của bà đã trở thành một phần trong đời sống của chúng tôi.

Ngay đến sự nhẫn nại của mẹ tôi cũng bị thử thách trong nhiều trường hợp. Như sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ngoại tôi lại làm dơ dáy chiếc chiếu rách của mình. Một đôi khi tôi nghe thấy tiếng của mẹ tôi la lối ỏm tỏi ở phía sân trước, nguyền rủa cái sự bên gia đình bác tôi chẳng giúp gì cho bà, nguyền rủa luôn cả sự độc ác của bà ngoại tôi vì đã sống trong hoàn cảnh thê thảm, làm khổ con cháu như thế.

Ngày này qua ngày khác, bà ngoại tôi cứ nằm bất động, nhìn ông tôi trừng trừng, qua đôi mí mắt cứng đờ. Rồi, lềnh bềnh giữa sự sống và cái chết, ngoại thều thào nói những gì không dứt. Tay ngoại quờ quạng như cố nắm bắt vật gì vô hình. Jimmy và tôi ngồi trên sàn nhà cách đó vài thước nhìn cơn mê sảng của bà ngoại và cầu mong thần chết mau chóng mang bà tôi đi.

Một buổi xế trưa, khi tôi từ bến tầu trở về, mình sũng máu cá, đang bước trên đám cỏ mọc hoang rậm rì của khu vườn nhà bác, tôi chợt nghe thấy tiếng bà tôi gọi. Giọng tỉnh táo của bà khiến tôi ngạc nhiên, tôi ngừng lại ở cửa sổ phòng bà nhìn vào bên trong.

Bà tôi nằm dán mình trên chiếc giường nhìn đăm đăm lên trần nhà. Tóc của bà gần như rụng hết để lộ ra vùng da đầu trắng nhợt và đầy những vết nhăn. Bà tôi không bận quần áo gì cả. Hai bàn tay giơ lên cứng đơ như đang bắt một con bướm vô hình. Bà đại tiện tại chỗ, phân và nước tiểu hòa lẫn với nhau nhiễu từ trên chiếu xuống nền nhà. Bà tôi hơi nhích cái đầu lên để đón cái nhìn của tôi, đôi môi run rẩy khi kêu tên tôi.

Tôi muốn chạy ngay đến bên bà tôi, nhưng chân của tôi cứ như bị chôn một chỗ. Tôi muốn kêu to lên cho mọi người nghe thấy nhưng lời lẽ cứ bị vướng trong cổ họng của tôi. Tôi nhìn thấy hai hàng dọc kiến lửa bò dọc theo chân bà tôi và gậm nhấm da thịt của bà. Khiếp quá! Tôi không biết bọn kiến đã kéo đến từ bao giờ. Đôi mắt bà nhìn tôi không rời. Giọng bà yếu dần khi bà nài nỉ tôi tới giúp. Rồi hai bàn tay của bà rơi thõng xuống bộ ngực gầy hõm. Bà tôi thở hắt ra một lần cuối cùng trước khi vĩnh viễn ra đi.

Lúc ấy, tôi bắt đầu la lên. Mới đầu, tiếng kêu của tôi thoát ra khỏi cổ họng. nghe khàn như giọng vịt đực. Tôi hít một hơi dài rồi cố kêu lên nữa. Tiếng thứ nhì thoát từ phổi ra tôi nghe thấy xa lạ tưởng như là tiếng của ai khác. Mặc dù vậy tôi vẫn la không ngừng.

Chị Ánh Nguyệt chạy ra từ căn phòng của chị. Trông thấy tôi còn đứng ở cửa sổ phòng bà ngoại tay còn đang chỉ vào phòng, chị hiểu ra ngay tức thì. Thế là chị cũng la lên.

Cái tin bà tôi từ trần lan rộng khắp xóm. Ông tôi lúc đó đang cuốc bộ ở ngoài đường theo thông lệ, còn mẹ tôi thì đang ở ngoài chợ. Lúc hai người trở về thì đã có một đám đứng bu quanh căn nhà của tôi. Cái tin dữ hầu như không làm ông tôi ngạc nhiên. Chẳng nói một lời, ông tôi đóng kín cửa phòng và ở trong đó một mình với thi hài bà tôi. Đám còn lại chúng tôi thì chỉ đứng ở bên ngoài chờ đợi. Chẳng có lấy một mống nào trong hai gia đình chúng tôi đã rơi một giọt lệ.

Hoàng hôn xuống, mặt trời tan dịu đi trên những mái ngói đỏ. Càng lúc càng đông người kéo tới nhà tôi. Ông phường trưởng cũng đến đứng sau lưng mẹ tôi. Khuôn mặt ông ta xáp lại gần, chỉ cách mái tóc của mẹ tôi có vài phân. Ông ta thì thầm với mẹ tôi:

- Xin chia buồn nghe cô Khuôn. Làng xóm đến đây để thu xếp với cô chuyện tang lễ.

Mẹ tôi không nhìn lên, thì thầm lại:

- Xin cảm ơn ông, nhưng chúng tôi lo liệu lấy được. Chúng tôi không muốn gây phiền toái cho ai hết.

- Chẳng có gì là phiền hết. Đây là vấn đề phường, khóm phải có trách nhiệm quan tâm với cư dân của mình. Bác gái cũng là một thành viên của tập thể mà.

Mẹ tôi ngẩng lên:

- Thôi được rồi, thưa ông. Tôi biết, mặc dù ông là phường trưởng, nhưng ông vất vả lo tái định cư cho bà nhà và con gái ông từ Hà nội vào. Bây giờ, gia đình đoàn tụ sau mười lăm năm xa cách. Vậy tốt hơn là ông nên ở nhà để liên hoan chào mừng họ, còn chúng tôi có thể tự xoay sở cho chuyện của chúng tôi.

Bác gái của tôi chen vào:

- Dẹp đi, hãy để đồng chí cấp trên làm phận sự của ông ấy.

Viên phường trưởng tỏ vẻ đau khổ

- Chị cô nói đúng đó. Nhưng nếu cô không cần tôi ở đây thì tôi xin rút lui. Truyền thống của dân tộc ta là bầy tỏ lòng kính trọng đối với người đã khuất. Tôi đã ra lệnh cho nhân viên trên phường chuẩn bị tang lễ cho bà cụ. Trước khi tôi đi, xin gửi lại cô lời chia buồn sâu xa nhất và lòng mong mỏi công việc được hoàn tất tốt đẹp của tôi.

Nói rồi ông ta quay ra, lẩn qua cánh cổng trước.

Một giờ sau, toán chung sự của nhà quàn kéo tới. Với sự tiếp tay của ông tôi, họ chùi rửa thi hài của bà tôi và tẩm bằng rượu đế. Khi rượu đã ngấm vào và làm mềm tứ chi, họ thay cho bà tôi một bộ quần áo mới. Họ lại dùng một sợi chỉ đỏ buộc hai ngón chân cái lại với nhau để tránh cho linh hồn của bà tôi khỏi lang thang vất vưởng.

Một cái áo quan rẻ tiền được quét sơn mầu đỏ được mang vào phòng của ông bà tôi. Dưới đáy áo quan được rải một lớp cát để độn cho thi hài. Những gia đình giầu có thì độn lá trà thay cho cát. Người chết thuộc gia đình càng giầu có, sang trọng bao nhiêu thì lá trà mang dùng lại càng thuộc loại đắt tiền bấy nhiêu. Chúng tôi che phủ lớp cát bằng một lớp vải thô. Khi thi hài của bà tôi đã được dặt trong quan tài, một dĩa nhỏ đựng dầu đốt đèn được đặt dưới gầm quan tài để giữ cho linh hồn bà tôi được ấm áp. Những nén nhang đặt trong một cái lư lớn tỏa hương thơm ngát trong không khí. Đã tới lúc bạn bè, bà con tới cúng lễ.

Đêm hôm đó cả gia đình tôi ngủ ngay bên cạnh quan tài để bà ngoại tôi có người cận kề, trên sàn xi măng lạnh lẽo, dì Đặng và mẹ tôi thảo luận về những chi tiết trong việc chôn cất. Nằm bên cạnh hai người, Jimmy và tôi chìm vào giấc ngủ. Dì Đặng nhích người vào sát mẹ tôi, rồi ghé vào tai thì thào. Dù trong cơn buồn ngủ, tôi cũng nghe hết từng lời dì nói:

- Chị Khuôn, lũ nhỏ đã ngủ hết chưa?

Mẹ tôi trả lời:

- Chắc là ngủ rồi. Gì vậy?

- Tôi không muốn chúng nó nghe điều này, tôi sắp đi.

- Đi đâu, đi về nhà chị hay tính chuyện đi vượt biên?

Dì Đặng thì thào:

- Tính chứ. Tôi đã tìm thấy một đường dây rồi. Chủ tầu cho tôi mang theo một người. Ba mẹ tôi thì đã quá già lại sống ở Sài Gòn. Vì tôi chẳng còn ai nên tôi định dẫn theo một đứa con của chị. Vậy chị phải quyết định nên để cho đứa nào đi.

Tôi nằm im lặng, nhưng trong thâm tâm, tôi muốn gào lên, cầu xin mẹ tôi chọn lựa tôi hơn là thằng em. Sự im lặng của bà khiến tôi điên cuồng lên vì chờ đợi, nhưng tôi chỉ có thể nằm im bất động. Rồi tôi nghe thấy tiếng mẹ tôi thì thầm:

- Phải trả hết bao nhiêu?

- Không tốn một xu. Chúng mình là bạn tốt của nhau mà, phải không? Đó là một cách tôi ngỏ lời cám ơn bạn, bạn ạ.

- Trong bao lâu nữa thì tôi phải trả lời?

- Một tháng, bạn có thể quyết định sau đám tang.

Mẹ tôi nói:

- Vậy thì mình nói qua chuyện khác đi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:24 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi tám

Chúng tôi chôn cất bà tôi vào một buổi chiều thứ hai, ba ngày sau khi bà tôi mất. Xe nhà đòn thả chúng tôi xuống lối vào nghĩa trang, cách xa thành phố khoảng năm mươi cây số và nằm dọc theo chân núi. Phía bên dưới, chỉ cách khoảng trăm thước là mặt biển đầy gợn sóng.

Chúng tôi lê bước im lặng trên con đường dốc lổn nhổn đá dẫn tới khu mộ phần. Tiếng gió than van thổi qua những khu ruộng muối trắng làm lay động lá cờ tang hai mầu đen trắng trên đầu chúng tôi. Những giọt mưa gay gắt hắt vào mắt chúng tôi cay xè. Cả đoàn người lầm lũi bước qua vùng đất hoang tàn.

Những tia chớp lóe trên bầu trời biến những đám mây thành những ánh đèn nê-ông. Rồi tiếng sấm nổ liền theo gầm thét trên khoảng không ầm ầm như như những tiếng bom. Jimmy và tôi đi bên cạnh mẹ tôi. Bộ quần áo tang trắng và khăn tang trên đầu chúng tôi ướt sũng vì nước mưa mằn mặn, và loang lổ vết bùn. Ông tôi khom người một cách nặng nề trên chiếc ba-toong, khập khiễng bên chiếc quan tài sơn đỏ bóng đang được khiêng lặc lè trên vai của mấy người con bà bác tôi. Mí mắt của ông sưng mọng lên như bị ong chích, chớp chớp một vài giọt lệ. Phía sau cách vài bước, chị Loan đi một mình. Tiếng than khóc rống lên át cả tiếng tiếng kèn và tiếng sáo.

Chị Loan tới nhà tôi ngay hôm sau bà tôi mất. Hôm đó chị bận một bộ trang phục, quần áo veste mầu đen, may cắt kỹ, nhưng chị đã thay ngay bộ quần áo tang chế mầu trắng. Ngồi trên sàn nhà, cạnh quan tài bà tôi, mặt chị đỏ bừng, bối rối. Mái tóc của chị cột thành một búi lớn dưới chiếc khăn tang cột bằng vải bông thoang thoảng thơm mùi hoa nhài. Mẹ tôi quay sang, khẽ vỗ lên vai chị hỏi:

- Thế nào, có khỏe không? Lâu lắm mới gặp Loan.

- Em vẫn bình an, cám ơn cô.

- Còn ông Trần, vẫn khỏe chứ?

Chị cười buồn:

- Có vấn đề. Chúng em bị điều tra. Đó là do một phần của đại hội sửa sai lần thứ sáu để chống lại thành phần thoái hóa trong nội bộ Cộng sản. Chính phủ có chứng cớ rằng ông Trần không còn là một thành phần cốt cán hay là một con người Xã Hội Chủ Nghĩa trong tư tưởng của ông ấy nữa. Từ cái ngày ông tịch thu căn nhà của cô và chiếm dụng làm của riêng, họ đã ngờ rồi. Sống trong nhà với ông ta bây giờ trở nên hết sức căng thẳng.

Những ngón tay mềm mại của chị đan xiết vào nhau, đặt ngay ngắn lên đùi. Máu khô đóng thành từng vành mầu tím trên những cái móng tay cụt ngủn, bị cắn nát bởi thói quen của chị. Mẹ tôi gợi ý:

- Nếu hai người có con với nhau thì may ra tình trạng sẽ khá hơn. Một đứa trẻ mới sinh bao giờ cũng mang theo sự may mắn.

Chị Loan quay mặt đi. Giọng của chị hạ xuống như thì thào, chúng tôi phải ráng lắm mới nghe được:

- Em không thể có con được. Vì vụ phá thai, dạ con của em mang quá nhiều vết sẹo. Bác sĩ nói rằng nó không còn giữ trứng lại được nữa.

Chị đứng dậy và đi ra ngoài.

Bây giờ đây, tiếng khóc của chị cất lên sau quan tài của bà tôi. Chị lăn mình xuống đất kêu than:

- Bác ơi, sao bác lại bỏ chúng con mà đi? Từ nay, ai sẽ dậy dỗ con lời hay tiếng thiệt, bác ơi.

Chị lau mặt bằng hai tay đầy bùn. Sình lầy dính đầy mái tóc dài của chị, làm ố cả bộ quần áo thành những vệt lớn. Bà bác tôi phải dìu chị cho tới khi đến mộ phần. Gió lồng lộng thổi lá cờ tang bay phần phật trong khu nghỉa trang trải dài dưới bầu trời xám ngoét.

Một cái mộ hình chữ nhật đã được đào từ trước. Đám anh họ tôi, theo sự hướng dẫn của ông chủ nhà quàn, từ từ hạ cái quan tài xuống bằng hai sợi thừng lớn giữ song song ở hai đầu. Bác tôi và chị Loan vừa khóc vừa nhào xuống nắp quan tài. Mấy người anh họ của tôi lôi hai người ra trong khi những phu nhà đòn lấp đất xuống mộ. Mưa lại trút xuống dữ dội. Vị nước mưa the the ở đầu lưỡi. Bàn tay mẹ nắm tay tôi xiết chặt hơn. Nước mắt hòa lẫn nước mưa chan hòa trên khuôn mặt bà.

Ở nhà, sau trận mưa đột ngột, bầu không khí khô và tĩnh lặng. Mẹ tôi và dì Đặng đã đi chợ. Đồ ăn duy nhất còn lại trong chạn là ba củ sắn lớn, một món ăn rẻ tiền ở Việt Nam. Tôi định đem hấp lên làm bữa ăn tối. Bỗng nhiên, ở phía đằng trước nhà, có tiếng yếu ớt của ông tôi đối chọi với một giọng đàn bà oang oang the thé đầy tính chất gây hấn.

Tôi vội vã chạy ra ngoài thì thấy một bà lạ mặt, tuổi trung niên đang cãi vã với ông tôi. Hai gò má bà ta đầy những vết bầm loang lổ. Mặt bà ta đỏ lên vì phẫn nộ. Bà chỉ ngón tay vào ông tôi và nói bằng giọng Bắc nặng nề. Cô bé bận áo đỏ mà tôi hay chơi chung ở ngoài bến tầu đang đứng nép vào cạnh bà. Kim nhìn tôi, mắt buồn rười rượi. Tôi hỏi:

- Có chuyện gì thế?

Ông tôi nói bằng một giọng cáu kỉnh:

- Mấy người này muốn gặp mẹ cháu. Ông đã nói là không có nhà mà họ vẫn không chịu đi.

Người đàn bà vừa cao vừa gầy và giọng của bà ta thì gay gắt vì giận dữ:

- Tôi đứng đây cho đến khi gặp mặt cái con đĩ nếu nó còn dám thò mặt ra.

Kim giật cánh tay của mẹ:

- Thôi mình đi, mẹ ơi. Con xin mẹ đó.

Tôi phản đối lại:

- Mẹ tôi không phải là con đĩ.

Bà ta sấn lại dí mặt mình vào đầu mũi tôi. Mùi lông gà vịt thoát ra từ bộ quần áo của bà. Bà ta sắn tay áo lên để lộ thêm nhiều vết bầm trên cánh tay và cả ở quanh cổ nữa rồi nói:

- Ông chồng của tao làm đấy. Ông ấy đánh tao suýt chết chỉ vì mẹ của mày. Đừng có nói nó không phải là con đĩ.

Tôi lắp bắp:

- Mà bà là ai? Ông chồng của bà là ai?

Người đàn bà hãnh diện vỗ tay vào ngực mình:

- Tao là bà Ba Quì, vợ của ông phường trưởng. Mẹ mày không biết cái tầng địa ngục nào mà dám cà chớn với tao.

Trong đầu óc tôi hiện ra hình ảnh của viên trưởng phường với mái tóc bạc và nụ cười lôi cuốn:

- Ông ba Quì? Không thể như thế được. Hai người biết nhau sơ sơ thôi mà. Chắc bà ta lầm ai rồi.

Kim nài nỉ:

- Thôi xin mẹ, đi về đi. Mẹ gây ầm ĩ ở đây rồi.

Bà ba Quì đáp:

- Tao đếch cần, cho cả thế gian này biết, tao không đi.

Từ phía bên kia đường, có tiếng gọi to với sự hả hê chờ đợi sẵn:

- Kiên ơi, mẹ mày về rồi kìa.

Bà Ba Quì chạy ngay ra đường và la lên:

- Con dâm phụ đâu? Thò mặt ra đây.

Cô con gái của bà nhìn tôi, đôi mắt tràn đầy vẻ đau đớn. Tôi nhớ lại bãi biển đầy cát với vẻ ngoài xa bao trùm bởi những làn sóng bạc và đôi môi cô gợi lên hình ảnh những cánh hoa hồng. Cô quay đi, chạy vội theo mẹ. Tôi đuổi theo họ.

Mẹ tôi và dì Đặng dừng lại từ xa, tận cuối phố. Có người nào đó trong đám đông bên ngoài đã báo trước cho hai người về mụ đàn bà điên khùng, thì vừa lúc bà ta hùng hổ nhào đến. Đám đông đi theo bén gót bà ta với sự háo hức được coi một đám đánh nhau. Mụ đàn bà cất tiếng hỏi:

- Trong hai đứa chúng mày, đứa nào là con đĩ đây?

Dì Đặng tiến lên, hỏi bằng giọng điềm tĩnh:

- Tôi giúp bà được gì đây?

- Tao đang tìm một con đĩ, tên nó là Khuôn.

- Muốn nói với bà ấy thì hẵng nói với tôi trước đã.

Mụ đàn bà đảo mắt nhìn ngay vào mẹ tôi, nói:

- Hừm mày đúng là con đĩ đây rồi. Thằng chồng khốn kiếp của tao rên rỉ tên mày ngay lúc nó đang nằm trên bụng tao. Rồi nó đánh tao để che dấu sự xấu hổ của nó. Mười lăm năm tao chờ chồng tao đi phục vụ tổ quốc. Tao không bao giờ ngờ lại bị đối xử thế này. Chính mày đã làm nó trụy lạc, con điếm thối tư bản kia.

Rồi mụ huých dì Đặng, xô dì qua một bên để xông tới mẹ tôi. Dì Đặng ngã ngay xuống đất trong khi mụ quào lên mặt mẹ tôi bằng những móng tay sắc. Cô con gái của mụ và tôi nhẩy tới phía sau để kéo mụ lại, nhưng đã quá trễ. Mụ ta đã túm được mớ tóc của mẹ và giật mạnh bằng hết sức của mình, giật đi giật lại cái đầu của mẹ tôi theo kiểu người ta rũ cái khăn trải giường để làm cho phẳng lại. Cùng một lúc. Mụ với chân đá một cách tàn bạo vào bụng mẹ tôi.

Dì Đặng đứng dậy, túm lấy mụ ta và giằng mấy ngón tay của mụ ra khỏi mái tóc mẹ tôi. Mụ Ba Quì vùng vẫy để thoát. nhưng hết hơi và cuối cùng ngã quị xuống. Tôi giữ một bên eo của mụ và nhìn mụ thở dốc. Bên cạnh tôi, Kim im lặng khóc.

Mẹ tôi ngả người lên dì Đặng. Mái tóc của bà xõa tung xuống mặt và những vết cào đỏ au hiện ra thành vệt trên hai má của bà. Bà la lên với mụ Ba Quì:

- Tao chẳng dính dáng gì với chồng mày cả.

- Đừng có nói láo. Nó nói hết cho tao về mày rồi. Chuyện này chưa xong đâu. Tao sẽ làm đủ mọi cách cho mày rữa thây trong tù.

Mẹ tôi nói, giọng lạnh lùng:

- Cút khỏi nơi này ngay. Về đi. Muốn dạy ai bài học, trước tiên hãy dạy chồng mày đi đã. Nếu có thể thì dạy hắn đừng đi ăn vụng nữa. Tao chẳng có sợ cái lời đe dọa rỗng tuếch ấy đâu.

Mụ đàn bà đứng dậy, vừa nắm lấy tay con gái, vừa nói:

- Để rồi coi!

Kim quay lại phía tôi. Đôi mắt của nàng mở lớn, đầy đau khổ:

- Tại sao lại là mẹ của anh?

Mụ ta vừa kéo con gái đi, vừa đẩy cho đám đông dãn ra. Tôi nhắm cả hai mắt lại. Đứng ở đâu đó phía bên kia đám người tò mò, mẹ tôi lên tiếng gọi tôi.

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Dài Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
Trang 1 trong tổng số 2 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân