TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - giác ngộ, thọ hình thánh giá
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

giác ngộ, thọ hình thánh giá

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
tonthattue



Ngày tham gia: 17 Jul 2010
Số bài: 209
Đến từ: Georgia USA

Bài gửiGửi: Mon Feb 11, 2019 12:17 am    Tiêu đề: giác ngộ, thọ hình thánh giá



giác ngộ và hành hình trên thập tự giá
crucifixion and enlightenment
Daisetz Teitaro Suzuki (ttt dịch)


1. Mỗi khi thấy hình Chúa bị đóng đinh trên Thánh Giá, tôi luôn nghĩ đến sự khác biệt sâu rộng giữa Phật Giáo (PG) và Thiên Chúa Giáo (TCG). Sự khác biệt nầy cũng là một biểu tượng tâm lý tách Đông Phương (ĐP) khỏi Tây Phương (TP).

Cá ngã hiện diện vững mạnh ở TP. Trong lúc ấy, ở ĐP không có ngã; mà không có ngã thì không có cái gì để đóng đinh.

Có thể phân biệt hai giai đoạn trong quan niệm về ngã. Ngã ở giai đoạn một: tương đối, thuộc tâm lý và kinh nghiệm. Kế tiếp ngã có tính chất siêu nhiên.

Ngã theo kinh nghiệm bị giới hạn, không có sự hiện hữu tự thân. Dù nhìn theo phía nào, nó không có giá trị tuyệt đối vì lệ thuộc các yếu tố khác. Nói khác, chỉ là một ngã tương đối, thành hình vì những sinh hoạt tâm lý, có tính các giả định, luôn lệ thuộc. Do đó nó không có tự do. Từ đâu mà có ảo giác (sai lạc) rằng nó tự do, độc lập và hữu thực?

Sai lạc đến từ sự thể ngã siêu nhiên bị hiểu lầm khi nó điều hoạt xuyên qua ngã tương đối; và hiểu lầm hai thứ là một.

Ngã tương đối, theo quan niệm nhị nguyên của Mật Tông Tây Tạng, có hai cục diện trong các mối liên hệ, bên trong và bên ngoài. Bên ngoài mà nói, ngã theo kinh nghiệm hay tương đối chỉ là một trong nhiều thứ ngã, nó nằm trong cảnh giới đa dạng, không ngừng qua lại, tiếp xúc với các ngã khác, có tính cách diễn tiến. Nhưng ở trong mà nói (hướng nội), sự liên hệ (của nó với ngã siêu nhiên) liền lạc không thay đổi, toàn diện và hiện tiền. Sự liên lạc bên trong không thể nhận biết dễ dàng như bên ngoài, nhưng không có nghĩa là sự nhận biết không ích lợi gì trong đời sống hằng ngày.

Trái lại, sự tìm gặp ngã siêu nhiên đằng sau ngã tương đối sẽ chiếu rọi vào nguồn vô thức và giúp chúng ta tiếp xúc với vô thức. Rõ ràng, sự nhận chân bên trong không phải là một tri thức bình thường như đối với một sự việc bên ngoài.

Sự khác biệt nầy xẩy ra trong hai đường lối. Đối tượng tri thức thường tình nằm trong không gian và thời gian và có thể đo lường theo khoa học. Đối tượng của tri thức nội tại không phải là sự vật cá biệt. Ngã siêu nhiên không thể tách rời ngã tương đối mà xem xét. Nó được tiếp xúc một cách nhất quán và trực khởi bởi cái ngã tương đối, nếu tách khỏi ngã tương đối thì nó không còn là nó nữa. Ngã tương đối là ngã siêu nhiên; ngã siêu nhiên là ngã tương đối; chúng không phải là một cũng không phải là hai. Chúng tách rời nhau trong phân tích triết lý, chứ không tách nhau trong thực trạng. Không có một kẻ đứng nhìn và một kẻ bị nhìn; người nhìn cũng là người bị nhìn; người bị nhìn cũng là người nhìn.

Khi mối quan hệ giữa ngã tương đối và ngã siêu nhiên không được nhận biết thấu đáo qua trực giác, sự sai lạc, ảo giác xuất hiện. Lúc ấy ngã tương đối tự nhận có tự do, tự sung mãn và hành động theo tư thế nầy. Ngã tương đối không có sự hiện hữu đầy đủ của ngã siêu nhiên. Sai lạc chính là lúc ngã tương đối không thấy bản chất của chính mình và tiếm quyền cái ngã sau lưng mình.


Nhưng cũng rõ ràng như vầy: ngã siêu nhiên cần có ngã tương đối để có một hình thái mà điều hoạt, nhưng không thể đồng hóa với ngã tương đối; sự biến dạng của ngã tương đối không bao hàm sự biến dạng của ngã siêu nhiên.

Ngã siêu nhiên là một tác nhân sáng tạo, ngã tương đối được thụ tạo. Ngã tương đối không phải là một thứ gì có trước và đứng trước mặt ngã siêu nhiên. Ngã siêu nhiên là mẹ của mọi điều.

Tinh thần ĐP qui kết mọi thứ vào ngã siêu nhiên, tuy không luôn theo phương cách ý thức hay phê bình; trong lúc TP tự gắn mình vào ngã tương đối và bắt đầu mọi việc từ đó.

Thay vì đưa ngã tương đối vào quỹ đạo của ngã siêu nhiên (điểm xuất phát), tinh tần TP khư khư níu kéo vào đó. Ngã tương đối, tại bản chất là thiếu sót, đã đưa đến những sai lạc một khi TP tin nó như một thực tại hằng cửu và đóng đinh nó như một thực tại bất biến.

ĐP không hướng về hình tướng (corporeality) của ngã tương đối; nó hiền hòa, êm ả nhập vào lòng của ngã siêu nhiên. Điều nầy cho thấy tại sao Phật nhập Niết Bàn một cách trong lành giữa hai cây sa la; trong sự thương mến không những của đệ tử mà cả muôn loại, người, không phải người, chúng sanh hay không phải chúng sanh. Ngay từ đầu không có ngã chấp (ego substance), cho nên không cần có việc đóng đinh.

Trong TCG, việc đóng đinh trở thành cần thiết; hình tướng (corporeality) đòi hỏi một cái chết bạo động. Và ngay sau cái chết, việc phục sinh phải xẩy ra dưới hình thức nầy hay hình thức nọ, vì hai việc dính liền nhau. Saint Paul nói: Nếu Christ không sống lại, thì việc giảng đạo vô nghĩa, đức tin của chúng tá cũng vô nghĩa, để rồi chúng ta chìm luôn trong tội trọng”.

Việc đóng đinh có hai ý nghĩa: cá thể và nhân bản. Trong ý nghĩa thứ nhất, nó nói lên sự hủy diệt của một ngã cá thể. Trong ý nghĩa thứ hai, nó nói lên chủ thuyết cho rằng Jesus chết thế cho tội lỗi của chúng ta. Trong cả hai khía cạnh ấy “Người Chết” phải sống lại. Không có sự sống lại nầy thì sự hủy diệt cũng chẳng có nghĩa lý gì. Ý nghĩa đôi vừa nêu có thể diễn tả như sau: Nơi Adam, chúng ta chết; nơi Jesus chúng ta sống.


Trong PG, điều cần có là giác ngộ, chứ không phải phục sinh hay đóng đinh. Việc sống lại rất bi đát và mang đầy đủ tính chất người, nhưng nó vẫn còn chút mùi xác thịt. Trong giác ngộ, chỉ có tính chất siêu nhiên.

Chính nhờ kinh nghiệm giác ngộ mà ai cũng đạt Phật tánh theo đường lối riêng hay chung. Không riêng chỉ một người có thật trong lịch sử, tức là Thích Ca.

Việc đóng đinh không có ý nghĩa nếu không được theo ngay sau bởi sự sống lại. Nhưng đất trần, bụi trần vẫn còn dính, tuy người sống lại đã lên trời. Với giác ngộ thì khác: tức khắc đất trần chuyển hóa thành tịnh độ, bạn không cần bay lên trời và không phải chờ sự chuyển hóa nầy xẩy ra trên thiên cung.

2.- Các biểu tượng TCG đều liện hệ đến sự khổ đau của con người. Cao điểm của mọi khổ đau là việc đóng đinh trên thập tự giá. PG nói rất nhiều về khổ đau nhưng cao điểm là ông Phật ngồi ở gốc cây bồ đề. Christ đem theo sự khổ đau cho đến giờ chót của kiếp hiện hình trên trái đất. Phật đến phút chót vẫn thuyết giảng về giác ngộ và im lặng qua đời giữa hai cây sa la. Hai cây nầy thẳng đứng, trong lúc Phật nằm theo chiều ngang như chính sự vĩnh cửu.

Christ bị treo trên thập tự giá thẳng đứng, đầy sầu não. Theo tinh thần ĐP cảnh tượng nầy quá bi thương và xốn xan.

Nay dùng hình học để so sánh hình ảnh một người ngồi xếp bằng thiền định và một người bị đóng đinh. Trước tiên, chiều đứng thẳng gợi lên ý niệm hành động, di chuyển và khát vọng. Chiều nằm ngang gợi lên ý niệm hòa bình, sung mãn nội tâm và an lạc. Hình ảnh ngồi cho thấy sự vững chắc, tin tưởng và bất động. Cơ thể trụ trên hai bắp vế của đôi chân xếp chéo; trọng tâm nằm ngay dưới trụ xương sống. Đó là tư thế an toàn nhất của giống hai chân khi còn sống. Đó cũng là biểu tượng của hòa bình, tĩnh túc và tự tin.

Tư thế đứng thường gợi lên tinh thần chiến đấu, công và thủ. Nó cho ta cảm tưởng về sự quan trọng cá nhân phát sinh từ cá thể và uy lực. Khi con người bắt đầu đứng trên hai chân, sự thể nầy chứng minh rằng con người nay khác biệt với loài đi bốn chân; và từ nay ít lệ thuộc với mặt đất, nhờ vào hai chân trước được tự do và nhờ vào sự tăng trưởng của bộ óc.

Sự tăng trưởng nầy và sự độc lập vừa nêu luôn luôn đưa con người đến chỗ sai lạc rằng từ nay mình làm chủ thiên nhiên và điều khiển thiên nhiên một cách đầy đủ nhất. Cộng chung với truyền thống Bible cho rằng con người thống trị mọi vật, sự thể nầy đã làm cho quan niệm thống trị toàn diện nẩy nở quá mức, qua khỏi những giới hạn hữu lý.

Hậu quả là chúng ta nói quá nhiều về sự chinh phục thiên nhiên, mà không nói đến sự cần thiết chinh phục bản chất con người; trong lúc thứ thiên nhiên nầy cần được chinh phục (điều hợp, thuần hóa) hơn bất cứ điều gì khác.

Mặt khác, thế ngồi thiền định giúp người ngồi thấy mình không tách rời mặt đất nhưng đồng thời không bị trói buộc vào mặt đất như phải lội xuống bùn làm trâu lầm. Thật vậy, hắn ta được nâng đỡ bởi mặt đất nhưng ngồi trên đất như một dấu hiệu tinh anh của tính chất siêu nhiên. Hắn ta không bị xiềng vào đất và cũng không tách khỏi đất.

Ngày nay chúng ta ồn ào nói rất nhiều về sự buông bỏ, làm như sự kết hợp, nhập cuộc là điều đáng ghét, gây chết chóc; cho nên phải làm điều trái ngược. Mà thật ra, người ta chỉ nói mà không giám động đến những điều đáng quí, hữu ích cho hạnh lạc xã hội và cá nhân. Hàn Sơn và Thập Đắc hưởng thụ tự do và hạnh lạc theo lối riêng mà người ngoài tưởng hai thi nhân thời triều đại Đường bên Tàu nầy đã buông thả. Thích Ca suốt 80 năm đi khắp nơi thuyết giảng lý giải thoát giác ngộ cho mọi tầng lớp khác nhau về trí tuệ, kinh tế, xã hội, rồi lặng lẽ qua đời bên bờ sông Niranjana. Socrates sinh và chết ở Athens đã dùng nghị lực và trí huệ khai mở tư tưởng cho người đời, đã đem triết lý từ trời cao xuống đất, bình thản uống chén thuốc độc, chấm dứt đời ở tuổi bảy mươi trước sự chứng kiến của các môn đệ.

Chúng ta sẽ nói gì về những cuộc đời của những vị tận dụng, tận hưởng sự thâm sâu của nội tâm? Buông bỏ hay dấng thấn? Những chữ nầy đều không đúng để lượng giá cuộc đời chư vị nầy. Họ hoàn toàn tự do, không bị cản trở bởi bất cứ tư lợi nào. Noi gương chư vị ấy, giác ngộ sẽ cho chúng ta tự do và an lạc, bình yên.


3. Khi Phật đạt giác ngộ tối thượng, Ngài vẫn ở trong tư thế ngồi; không bị xiềng vào mặt đất, cũng không tách khỏi mặt đất; Ngài với đất là một, từ đất mà lớn lên và không bị đất nghiền nát. Như tất cả trẻ thơ của mọi thường dân, Ngài đứng một tay chỉ trời một tay chỉ đất nói: trên trời dưới đất, chỉ có người mới đáng quý.

PG có ba biểu tượng về 1. Sinh, 2. Giác Ngộ, 3. (nhập) Niết Bàn. Đó là đứng, ngồi và nằm. Như vậy PG liên hệ mật thiết với sự sống đời người qua các hình thức hòa bình, không có dấu tích nào của hành vi chiến tranh.

TCG đưa ra nhiều điều khó hiểu, nhất là biểu tượng đóng đinh trên thánh giá. Theo người TCG, sự đóng đinh có nghĩa là đóng đinh cá ngã hay xác thịt vì không điều khiển được ngã thì chúng ta không thể đạt sự toàn thiện luân lý.

Đây là chỗ khác biệt giữa PG và TCG.

PG ngay từ đầu đã nói rằng không có cái ngã nào để đóng đinh. Tin có ngã là khởi điểm của mọi sai lạc nguy hại. Thế giới là một mạn lưới của những tương hệ về nghiệp, không có một ai, một tác nhân nào đứng đẳng sau xử dụng lưới theo ý muốn riêng.

TCG có khuynh hướng nhấn mạnh tính chất hữu hình (corporealty), từ đó có biểu tượng đóng đinh, và có hệ luận là biểu tượng ăn thịt và uống máu, được xem như phương pháp kết hợp thành một với Christ.
Nhưng người không TCG hỏi có chăng một phương khác để hội nhập với Christ, hòa bình hơn, duy lý hơn, nhân bản hơn, ít bạo động hơn.
Christ bi ám hại trên cây thánh giá dựng đứng; Phật qua đời nằm theo chiều ngang; hai hình ảnh ấy – phải chăng? – có thể mượm tạm mà nói lên sự khác biệt giữa PG và TCG?

Chiều thẳng đứng bao hàm hành động, chiến đấu, độc quyền (tách biệt); chiều nằm ngang bao hàm hòa bình, bao dung, khoáng đạt. Vì có tính cách năng động, TCG đôi khi khuấy động, gây xáo trộn. Vì có tính chất chiến đấu và tách biết, TCG có khuynh hướng áp đặt quyền lực thống trị đối với kẻ khác mặc dù tự nhận chủ trương dân chủ và tình huynh đệ toàn diện.
Riêng ở khía cạnh nầy, PG đứng về phía bên kia, đối diện với TCG.

Chiều ngang theo thân Phật lìa đời lắm lúc cho thấy sự lười biếng, lãnh đạm, sự bất hoạt, tuy PG là tôn giáo vô cùng kiên nhẫn. Nhưng dẫu sao, PG là một tôn giáo hòa bình, trong lành, bình an và quân bình. PG từ chối tính chất chiến đấu và tách biệt độc quyền; trái lại chấp nhận tinh thần khoáng đạt, bao dung toàn diện, xa lìa các kỳ thị trần gian.

Đứng thẳng có nghĩa là sẳn sàng chiến đấu, phải túc trực vì kẻ thù có thể đánh phủ đầu mình bất cứ lúc nào. Nhưng một khi mình thấy kẻ thù nguy hại ấy chỉ là một ảo giác, một ngã tương đối, thì mình làm lành với chính mình và mọi điều, mọi sự để ngủ ngon.

Những khác biệt phân tích theo chiều đứng, chiều ngang không đưa đến bất cứ xung đột nào, nếu được nhìn theo chiều hướng tích cực. Tính chất nằm ngang nếu vẫn giữ vĩnh viễn nằm ngang sẽ đưa đến cái chết. Khi tính chất đứng thẳng mãi mãi là đứng thẳng cứng đờ thì nó sẽ ngả quỵ. Theo đúng với chân lý, sự nằm ngang chỉ có nghĩa là nằm ngang khi nó mang theo khuynh hướng trổi dậy như một đường thẳng chuyển qua thế ba chiều. Với chiều đứng cũng thế; khi vẫn giữ nguyên trạng bất động thì nó không còn là nó nữa, cho nên cần uyển chuyển, dung hòa quân bình với sự sinh động.


Mysticism, Christian and Buddhist
by Daisetz Teitaro Suzuki 1957

Chapter VI: Crucifixion and Enlightenment
Web Page Name

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân