Lịch sử sự phát triển năng lượng hạt nhân
Từ khoảng năm 1900, các nhà khoa học đã biết nguyên tử chứa một số năng lượng lớn, nhưng không biết rõ ra sao. Năm 1905, nhà bác học nổi tiếng Albert Einstein đưa ra một công thức về liên hệ giữa khối lượng và năng lượng. Đó là công thức nổi tiếng: E = mc²
Trong đó E là năng lượng, m là khối lượng và c là vận tốc ánh sáng. Công thức đó có nghĩa là năng lượng thì bằng khối lượng nhân với vận tốc ánh sáng bình phương. Tốc độ ánh sáng là 300,000 km một giây. Số đó lại được bình phương lên (tức là nó nhân với chính nó) nên trở thành một số khổng lồ. Vì vậy một khối lượng nhỏ của chất urani cũng chứa một nguồn năng lượng rất lớn.
Năm 1934, nhà bác học người Ý Enrico Fermi làm thí nghiệm cho thấy là trung hòa tử có thể dùng để tách nhiều loại nguyên tử.
Năm 1942, ông Fermi và cộng sự viên Leo Szilard chế tạo ra một dụng cụ có thể gây ra phản ứng dây chuyền của sự tách hạt. Một khi đã có được phản ứng dây truyền thì năng lượng tỏa ra rất là lớn. Các nhà khoa học nghĩ là có thể dùng nguyên tắc này để chế tạo ra một loại bom có sức tàn phá kinh khủng. Đó chính là bom nguyên tử. Vào năm 1942, Thế Chiến Thứ 2 đang xảy ra khốc liệt, Đồng Minh cũng như Đức Quốc Xã đều ráo riết nghiên cứu để có thể chế tạo ra bom nguyên tử. Bên nào cũng sợ bên kia có trước.
Hoa Kỳ với dự án tối mật có ám hiệu là Manhattan Project đã thành công và quả bom nguyên tử thử nghiệm đầu tiên được cho nổ vào ngày 16 Tháng Bảy, 1945, trong sa mạc ở tiểu bang New Mexico. Chưa tới một tháng sau Hoa Kỳ thả hai quả bom nguyên tử trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Trước sự tàn phá chưa từng có của bom nguyên tử Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện và Thế Chiến Thứ 2 chấm dứt.
Sau Thế Chiến sự phát triển năng lượng hạt nhân được chú trọng nhiều về những áp dụng thương mại và tàu thủy, nhất là tàu ngầm.