Gửi: Mon Jun 20, 2016 10:38 pm Tiêu đề: Những điểm mốc lớn trong xảo thuật làm phim
Những điểm mốc lớn trong xảo thuật làm phim
Loại phim action là một trong những loại có sức thu tiền nhiều nhất, đều đặn nhất trong điện ảnh, nhất là ở những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Dĩ nhiên, thành phần nòng cốt của loại phim action là những màn action táo bạo hấp dẫn. Và với sự tân tiến của kỹ thuật computer, những màn action “hốt bạc” ngày càng “giống thiệt” hơn. Sau đây là những điểm mốc đáng kể trong xảo thuật làm phim để tạo nên những cảnh action nói trên
Thời điểm: 1976
Steadicam trong The Shining – nguồn slashfilm.com
Sáng kiến: Steadicam
Chuyên viên quay phim Garrett Brown đã chế ra một hệ thống để quay những cảnh di động trên mặt đất lồi lõm và qua những chỗ đông người từ đầu thập niên 1970, với một dàn máy đòi hỏi người điều khiển là một nửa người cử tạ và một nửa người múa ballet.
– Dẫn đến: Rocky, Marathon Man, The Shining
Thời điểm: 1978
Sáng kiến: Một người bay được
Ngoài thế giới hoạt họa ra, khả năng căn bản nhất của siêu-anh hùng là một điều không thể làm được trên màn ảnh, cho đến khoảnh khắc này. Trong những phim “Superman” thời xưa, George Reeves chỉ “chui ra khỏi cửa sổ ” và nối tiếp với cảnh “đáp xuống” ở một nơi khác. Giám đốc xảo thuật Roy Field đã giải quyết vấn đề với một bộ dây cần câu dùng cho lúc cất cánh và hạ cánh, màn ảnh xanh cho những cảnh đang bay trên trời, và hệ thống “Zoptic” với ống kính đặc biệt dùng để quay cả hai tài tử và cảnh giả cùng một lúc. Kết quả? Bạn sẽ tin thật là con người có thể bay.
– Dẫn đến: Toàn bộ thể loại superhero.
Thời điểm: 1982
Sáng kiến: Đoạn phim hoàn toàn làm bằng CG (computer graphics) đầu tiên
Cảnh một hành tinh khô khốc được biến thành một hành tinh xanh tươi đầy sức sống trong phim Star Trek II: The Wrath of Khan – sáu mươi giây CGI. Một nhóm nhỏ trong đội làm phim của hãng Lucasfilm đã lãnh thành tích cho đoạn phim “bể đất” này. Bốn năm sau, nhóm đó đã tách khỏi Lucasfilm và trở thành Pixar.
Sáng kiến: Nhân vật CG (computer graphics) đầu tiên nhìn giống thật
Một đoạn dài 90 giây trong phim Young Sherlock Holmes đã đề cao một nhân vật hoàn toàn làm bằng CG trên màn ảnh. Chịu trách nhiệm cho xảo thuật này – tốn bốn tháng để thực hiện – là John Lasseter, mười năm trước khi đạo diễn phim Toy Story, và nhóm Pixar trong tương lai.
– Dẫn đến: Transformers, Ted, Jar-Jar Binks (của Star Wars)
Năm mốc: 1992
The Abyss (1989) – nguồn thedissolve.com
Sáng kiến: Kim loại lỏng
Mặc dù một số người có thể nói xảo thuật này đã được giới thiệu trong phim The Abyss (1989) với đoạn “vòi nước có mặt”, nhưng, cảnh đó đã giúp phát triển “đủ lông đủ cánh” thành nhân vật T-1000 kim loại lỏng trong phim Terminator 2: Judgement Day. Cảnh “hợp kim giả dạng” chỉ lấy một phần nhỏ thời gian của phim, nhưng đã để lại một ấn tượng khó quên, tốn 35 chuyên viên vẽ mười tháng để thực hiện. Một phần của nhu liệu được dùng về sau đã lập thành phần lõi của Photoshop.
– Dẫn đến: nhân vật Odo trong Star Trek: DS9, Jurassic Park, Photoshop
Thời điểm: 1993
Sáng kiến: Khủng long!
Có lẽ chúng ta đã tới điểm mà dường như, với CGI, bất cứ điều gì cũng có thể làm được. Giờ chúng ta có thể làm những con khủng long như đang sống: còn gì để làm nữa? Chuyên viên xảo thuật Stan Wilson đã dựng lên những con dinosaurs trong phim với vật liệu thật, kích thước như thật, nhưng những cảnh có nguyên đàn khủng long chạy đã được thực hiện trong thế giới kỹ thuật số – CGI (Computer-generated imagery)
– Dẫn đến: Dragonheart, Godzilla, The Lord of the Rings, Cloverfield
Năm mốc: 1999
Đạn bay trong Matrix – nguồn gordonnapier.com
Sáng kiến: Thời gian đạn bay
Thật ra là sự tổng hợp của vài kỹ thuật và xảo thuật đã có sẵn, sự sử dụng “thời gian đạn bay” trong phim The Matrix đã làm cho cả Hollywood giựt mình, làm như đã chưa từng thấy nó bao giờ. Kỹ thuật này gồm nhiều máy quay phim được đặt ở nhiều vị trí xung quanh chủ thể và đều quay cùng một lúc.
– Dẫn đến: Blade, Underworld, Equilibrium, Max Payne
Thời điểm: 2008
Sáng kiến: IMAX
IMAX đã xuất hiện từ những năm 1970, và các hãng phim đã thí nghiệm với sự nâng cấp IMAX của những phim “thường” từ đầu thập niên 2000. Nhưng Christopher Nolan là người đầu tiên đã mạo hiểm quay một phần phim “bom tấn” với những máy quay phim IMAX. 30 phút của phim The Dark Knight đã được quay với loại phim vĩ đại, tăng lên hơn một tiếng với The Dark Knight Rises.
– Dẫn đến: Transformers 2, Mission Impossible: Ghost Protocol, Star Trek Into Darkness
Phim Gravity đã dùng mọi kỹ thuật làm phim để bắt chước trạng thái trôi nổi trong không gian và đã một cách chính xác tái tạo những vật di chuyển nhanh giữa hai nguồn ánh sáng, mặt trời và trái đất. Một cải tiến rất ngầu (trong số nhiều cái) là “hộp ánh sáng”, một khối vuông được cấu tạo bởi những dãy bóng đèn LED. Thay vì phải quay tài tử Sandra Bullock nhào lộn ở tốc độ nhanh từ một nguồn ánh sáng đều đặn (hơi nguy hiểm và khó làm), một cánh tay máy và màn ảnh chiếu hình trái đất xoay vòng quanh cô ta trong khi cô chỉ nhúc nhích chút xíu cho phép những chuyên viên lấy đúng điều kiện ánh sáng cho công việc của họ với đạo diễn Alfonso Cuaron và cinematographer Emmanuel Lubezki.
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn