TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - tinh túy của tôn giáo
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

tinh túy của tôn giáo

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
tonthattue



Ngày tham gia: 17 Jul 2010
Số bài: 209
Đến từ: Georgia USA

Bài gửiGửi: Wed Feb 03, 2016 10:20 am    Tiêu đề: tinh túy của tôn giáo


tinh túy của tôn giáo
an essential of religion
manas journal, Feb 1963, ttt dịch



Một thân hữu mới đây đã gởi cho Tập San nầy một bức thư than phiền rằng ngày nay các giáo phái
đã hũy hoại tính chất thần bí siêu nhiên của tôn giáo; trong lúc điều nầy mới là tinh lý của tôn giáo.
Các tín ngưỡng đã bỏ quên hay không đủ sức khơi dậy những cội gốc ngoài khu vực lý luận trong
nội tâm, những điều người ta tin là tối thượng, siêu thoát, “cao điểm” của kinh nghiệm tâm lý.
Đây là vùng suy nghiệm mà ngôn ngữ phân tích gọi là “eschatology”. Theo từ điển, ngành nầy bàn
về “sự chết, tái sinh, bất tử, tận thế, sự phán xét cuối cùng và đời sống về sau”.
Rõ ràng những vấn đề nầy đã bị loại ra khỏi sự học hỏi đứng đắng, khỏi các ngành học thuật ngày
nay; từ khi các phạm trù khoa học của “thực tế” được xem là nguyên liệu trong sự tìm tòi nghĩa lý
(của sự sống).
Sự thể nầy xẩy ra chẳng phải vì các khám phá trong khoa học tự nhiên đã mở đường cho thuyết duy
vật. Các nhà sáng lập thuyết duy vật, tại bản chất, là những nhà luân lý. Họ nghĩ rằng bằng cách
đào tận gốc nền móng của tôn giáo – tin ở Thượng Đế và linh hồn – họ có thể tận diệt sự đàn áp
thần học và các tương tranh tôn giáo. Thế kỷ 18 đã cung cấp hai phát ngôn viên lừng danh của
quan điểm nầy; họ cũng là những người đã hung đúc môi trường và sự biện giải thuyết vô thần
của thế kỷ 19 và thuyết hoài nghi cùng thuyết bất khả tri của thế kỷ 20.

Người thứ nhất Julien de la Mettrie viết trong cuốn Người Máy (L’Homme Machine –Man a Machine):
Nếu thuyết vô thần được loan truyền khắp nơi và toàn diện, các ngành tôn giáo sẽ bị đào tận gốc.
Lúc đó sẽ không còn chiến tranh thần học; sẽ không còn thứ lính tác hại gọi là lính tôn giáo. Thiên
nhiên – trước đây bị nhiễm các chất độc thánh thần hóa – nay lấy lại quyền năng và sự tinh khiết
của mình. Bưng tai không nghe bất cứ tiếng nói nào, con người sẽ theo các động năng và mầm
sống cá nhân; chỉ có những động năng mầm sống ấy mới đưa con người đến hạnh phúc theo con
đường vui tươi của phẩm hạnh.
De la Mettrie tiên phong mở đường cho thế kỷ Ánh Sáng Pháp. Vài năm sau xuất hiện Paul Dietrich
von Holbach, một bá tước Đức nói năng nhiều hơn vả được sự ngưỡng mộ của giới trí thức và văn
học đương thời. Chính Holbach đã quả quyết rằng bức tường duy nhất và quan trọng ngăn chận
hạnh phúc của con người nằm trong sự dối trá của tôn gáo. Lời tựa cuốn sách danh tiếng
The System of Nature mở đầu như sau.

Con người bất hạnh, đơn giản chỉ vì hiểu nhầm thiên nhiên. Trí óc bị tiêm nhiễm quá nhiều bởi
các thiên kiến đến mức ai ai cũng nghĩ con người luôn ở trong sự sai lạc; hằng loạt ảo tưởng chụp
lên đầu từ thời thơ ấu, lớn theo sự tăng trưởng đến độ bị trói tay không thoát được. Con người
tranh đấu một cách bất hạnh để vượt lên trên thế giới hữu hình, nhưng những kinh nghiệm đau
thương luôn luôn cho thấy những cố công ấy đều vô bổ. Con người ghét việc nghiên cứu học hỏi
thiên nhiên để theo các bóng ma hớp hồn xô ra khỏi con đường của sự thật, có nghĩa là mất con
đường đến hạnh phúc. Do đó đã đến lúc cần tìm kiếm trong thiên nhiên những liều thuốc khả dĩ
trị những tai ương mà óc cuồng tín đã nhấn sâu chúng ta vào trong đó. Chính vì sai lạc  mà các
bạo chúa và các giáo sĩ thành công trong việc dùng các gông cùm đau đớn xiềng xích các quốc
gia; từ sai lầm mà có sự nô lệ các quốc gia; nhờ sai lầm ấy mà các tôn giáo có thể khủng bố làm
dân chúng rục rã nát thân trong sợ hải hay cuồng nhiệt bóp cổ nhau tranh nhau những ảo vọng.
Từ sai lạc bắt nguồn mối căm thù thâm kiếp và những cuộc thanh trừng độc ác; những cuộc đổ
máu liền nhau và những thảm trạng kinh hãi, trong đó đất (trần gian) biến thành chiến địa phục
vụ những quyền lợi của trời. Do đó chúng ta hãy cố sức quét sạch, thổi sạch đám mây mù của
thiên kiến; gây hứng khởi cho con người, để có can đảm và sự tôn trọng lý trí.

Theo chân các nhà dẫn đạo nầy, các tư tưởng gia thời Ánh Sáng đã tẩy nạo các chủ thuyết tôn
giáo; vì mục tiêu của họ là thiết lập khoa học tự nhiên như một uy lực ấn định những gì là thật,
là hữu hiện, kiến tạo sự an lạc mà họ gọi là hạnh phúc, độc lập với sự dính líu can thiệp của siêu
nhiên. Họ yêu cầu hiểu nhân quả như một tác động máy móc, ít nhiều theo đường hướng của
thuyết nguyên tử thời xưa; quan niệm tâm lý học của họ đã ươm mầm cho thuyết Behaviorism
(hành vi) ngày nay. Bởi lẽ lời đe dọa hỏa ngục là vũ khí chính yếu trong quyền năng tâm lý của
giáo hội, họ hăng say gạt bỏ mọi tin tưởng về một linh hồn tồn tại; như vậy nếu không có linh
hồn hiện hữu thì lấy lý gì mà sợ một sự trừng phạt trong kiếp sau.

Holbach lập luận:
Tín điều linh hồn bất diệt đã biến luân lý thành một khoa phỏng đoán chẳng dạy chúng ta một
điều gì để tìm phương cách ảnh hướng nhân loại. Nếu, nhờ kinh nghiệm, chúng ta biết được các
thành tố căn bản tạo nên tâm thức của một cá nhân hay đại đa số các cá nhân trong một nước,
chúng ta sẽ biết điều gì thích hợp cho họ, luật nào cần thiết, định chế nào hữu dụng cho họ.
Nói gọn, luân lý và chính trị phải rút ra từ thuyết duy vật những mối lợi mà tín điều về một linh
hồn siêu nhiên không thể đem lại, và ngăn cản chúng ta nghĩ tới.

Chương trình giảng dạy trong 50 năm qua đã giúp học sinh nhận định dễ dàng rằng nền móng
tổng quát của các sự tin tưởng hiện thời nằm trong những tư tưởng chính yếu của thế kỷ 18.
Nhưng điều chúng ta đang suy xét là có chăng một dòng tư tưởng đứng đắng đang hình thành
chuẩn bị một sự chuyển đổi rộng lớn qua một nền móng mới. Nhưng sự bắt đầu không phải chỉ
từ tiến bộ khoa học. Sự giải tích của thể chất chuyển hóa thành những vờn (như tinh hệ) năng
lượng và điện từ trường – tiếp theo sự tìm thấy cấu trúc điện tử của nguyên tử vào đầu thế kỷ
(20) – đem lại một tác dụng thuận lợi cho lối suy tư chống duy vật.
Thế nhưng không có một lý do trong vật lý hiện nay làm cho chúng ta hướng về các tư tưởng
tâm linh; khác với trường hợp vật lý Newton đóng góp sự thành hình của thuyết duy vật. Sự
khát khao luân lý của nhân loại là nguyên do quyết định thay đổi triết lý chứ không phải sự
phát triển của khoa học; dẫu rằng khoa học mọi thời đều cung cấp khung sườn ý niệm cho sự
biện luận luân lý và thường cung cấp các danh từ để bút chiến.
Điều chúng ta theo đuổi ở đây là ý nghĩa của sự định hướng mới có tính chất lịch sử trong lãnh
vực suy tư về eschatology – không theo nghĩa của từ điển như đã nêu trên – mà là một sự
chiêm nghiệm sâu sắc, nghiền ngẫm về chính mình, về nguồn gốc và tương lai của chính mình;
về ý nghĩa của đời sống của chính mình, có đáng sống hay không, đời mình có giá trị như thế
nào. Chính Carl Jung là người đầu tiên trong mấy thập niên nhấn mạnh thường xuyên sự suy
nghĩ nầy. CJ đã thấy đó là đề tài đánh dấu một kỷ nguyên; xuyên qua các sách về tâm lý học
xuất bản trong mười năm nay, sự soát xét khảo nghiệm về ý nghĩa và bản sắc trở thành mối
ưu lo hàng đầu của những ai suy nghĩ đàn hoàng. Nó ở khắp nơi trong tiểu thuyết ngày nay,
thúc đẩy nghiên cứu tâm lý (ngã thể), và là đề tài chính yếu trong văn chương hiện sinh.
Không có điều gì trong vật lý và vũ trụ học hiện nay đã thúc đẩy hình thành chiều hướng nầy,
ngoại trừ nếu bạn muốn, bạn có thể kéo nguyên lý “bất định” của Heisenberg vào việc giải
thích tại sao có ý nguyện tự do; hoặc tìm gặp trong tân toán học Pythagore (liên quan đến
lý thuyết vật lý ngày nay) một kẻ tiên phong của ngành siêu hình học thăng hóa.
Rồi thì bây giờ, chúng ta có quyền làm kẻ hữu lý mà minh định rằng hai trăm năm lịch sử
hiện đại – từ thời Ánh Sáng – đã trôi qua không để lại một nguồn văn hóa sinh động nào
ngõ hầu vun xới một nền triết lý về đời sống nội tâm của người đời. Trái lại, hai trăm năm
ấy đã sản xuất những khát khao tuyệt vọng, những trông chờ mệt mỏi một sự dưỡng sinh
tâm linh mà các nền chính trị dân chủ cũng như tiến bộ kỹ thuật và khoa học không thể
cung ứng. Thảo nào (hèn chi) các cuộc cách mạng dận dữ của thế kỷ 20 được đun sôi, bốc
cháy, bởi các cảm xúc mang tính chất nội tại (là) tôn giáo. Và từ những chấn động nầy xuất
hiện những chính quyền, những chế độ độc đoán đóng vai trò thế vì tôn giáo.
Con người muốn gì, cần gì ở tôn giáo? Đáp: Tự thân trực diện với sự xác quyết nghĩa lý, ý
nghĩa của cuộc đời. Nếu tôn giáo đương thời đã chết hay hấp hối, hắn ta sẽ tìm nó ở nơi
khác, tiếp tục truy lùng cho đến khi tìm được nó hay cái thế vì nó; hoặc cho đến khi kiệt
sức, bỏ cuộc,thất vọng thảm hại vì cuộc “hành quân” không đi đến đâu.
Có câu ngạn ngữ rất đúng: phải mất cuộc đời mình để mà tìm ra nó. Các tôn giáo cổ đại
đã dạy như thế. Trong nền chính trị hiện đại với tôn giáo thế vì, con người có thể mất chính
mình trong cộng đồng chính trị nhưng không bao giờ tìm gặp chính mình nơi đó. Không có
qua lại, chỉ một chiều, vĩnh viễn đánh mất bản chất. Đó là mối nguy hại của thứ tôn giáo
thế vì.
Về tâm lý, tôn giáo cho ta điều gì? Đáp: Phương tiện thực hiện tự tại, hoặc vài cảm quan
hướng nội với khả thể giao tiếp sự xác quyết nghĩa lý cá nhân. Lời hứa hẹn một nghĩa lý
trong các ý thức hệ luôn mang tính chất tập thể; khi lời hứa ấy theo gió bay mất, tín hữu
khánh tận, tâm thần suy sụp; không thể tự đứng một mình; trong lúc trên hành tinh nầy
ai ai cũng cần biết cách tự đứng vững một mình để hiện diện, để sống còn.
Ý niệm bất diệt có thế giúp ích khá nhiều, nhưng thời nay người ta dùng nó qua những
biểu hiện ngoại vi, thay vì tìm hiểu nghiên cứu để đạt tinh lý của điều gọi là “linh hồn”.
Trong một bài viết cho tập san Tâm Lý Nhân Bản số mùa thu 1962, bác sĩ A.H.Maslow
cho rằng ngành tâm lý cần nghiên cứu thảo luận về cứu cánh, trạng thái hoàn tất (sự
thỏa mãn và hạnh lạc nội tại, linh thiêng, duy nhất, có giá trị phổ quát như mọi người
bình đẳng có được); chứ không phải xem đó là một phương tiện để đạt cứu cánh khác.
Tâm lý học cần nghiên cứu trạng thái sung mãn, thành đạt với viễn đích chung cuộc;
trạng thái hạnh phúc thuần túy, niềm vui, thể hiện nội tâm, các mục tiêu đã thành tựu,
ức mơ đã hiện thực.
Tâm lý học cần biết thế nào là tự tại; đã đến rồi chứ không phải trên đường đi tới. Đó
là trạng thái vượt quá, và quên, thời gian không gian. Trạng thái linh thiêng, tâm linh,
nằm trong cốt lõi, siêu thoát, vô tận trường cửu; thế giới hằng ngày, vật thể, nhân thể …
đều được trông thấy dưới ánh sáng của sự miên viễn trường tồn. Các trạng thái tôn
giáo ấy mang tính chất trực khởi, hồn nhiên và tự nhiên. Một đời sống nhất quán, một
ý thức nhất quán. Sự qua lại lui tới giữa thời gian ngắn hạn và trường cửu; giữa khu
vực nhỏ hẹp và hoàn vũ, giữa tương đối và tuyệt đối.

Như vậy, đây chắc hẳn là những thành tố thiêng liêng (hay linh thiêng huyền bí) được
trừu tượng hóa và tổng quát hóa trong ngôn ngữ tâm lý học. Những yếu tố nầy, theo
cách nói hiện thời, đã phô bày các phẩm chất của kinh nghiệm mà trước đây đã được
đồng hóa với lý thuyết eschatology của tôn giáo. Tín hữu Christian đạt đến kinh nghiệm
nầy bằng cách gì? Đáp: Tô điểm, củng cố hiệu ứng của sự nhiệt tình đồng hóa hội nhập
với đời sống của Chúa Jesus Christ. Một mặt, JC là nguyên tắc điều hợp giữa hữu
chung và vô chung (hữu tận và vô tận), giữa thiên tính và địa tính; và mặt khác, JC
là một hình bóng nhân thể có khả năng mãnh liệt khơi động thiện tâm của người trần.
Đời sống của JC đậm nét màu sắc của thời gian và địa thế nhưng mang một ý nghĩa
vượt qua thời gian và địa thế. JC rất khiêm tốn thấp bé nhưng vô cùng to lớn. JC rộng
lượng bao dung hoài hoài mãi mãi nhưng đã khổ đau chua chát thậm tệ. JC chỉ là một
(thể thân) nhưng là nhiều (hóa thân) phục sinh trong tim của người trần thế.
Phê bình về các ý tưởng tôn giáo cần được thực hiện với thiện ý và tính cách vô tư trí
thức; nhờ vậy mới hy vọng thẩm định chính xác những hậu quả rộng lớn về mặt xã
hội và tâm lý học của các tín ngưỡng tôn giáo. Và đấy cũng là phương tiện giúp các
cá nhân hoàn tất thuần nhuyễn các sự khám phá nội tâm.
Trở lại bức thư của một thân hữu đề cập ở đầu bài, nó giúp chúng ta hiểu hoàn cảnh
nhân thế. Lời bàn của ông ấy là một luận cứ vững chắc cho nhận định sau đây. Hình
thái mới của truyền thống tôn giáo Tây Phương – không nặng mùi giáo điều nhưng ý
thức về xã hội – đi theo khuynh hướng tẩy bỏ các yếu tố eschatology bởi lẽ các thành
tố ấy là nguyên liệu cấu tạo tôn giáo mà tôn giáo lại không có chỗ đứng trong khái
niệm khoa học tân thời về thực tại; cho nên chúng không được ôm cầm nâng niu bởi
những đầu óc tiến bộ và duy lý. Huyền nhiệm không thể lên khung bằng lý luận bàn
thảo, không thể thành một công thức như thuốc phụ cho thức ăn.
Thi ca, nghệ thuật và kịch nghệ được thêm vào “thời khóa biểu” tôn giáo; điều nầy
công nhận một cách thô bạo sự thiếu sót trầm trọng, thiếu sót phương cách gây xúc
động chân thành và hướng thượng. Các hình thái tôn giáo tân thời không làm cho tín
đồ tin chắc có một cánh cửa sổ trổ ra vùng trời vô tận vô biên, rằng đầu óc tăm tối
đến đâu cũng thấy chút đom đóm lập lòe có chung bản thể với nguồn ánh sáng của
vũ trụ. Trong lúc ấy, những tôn giáo huyền nhiệm cổ đại luôn đưa ra lời hứa như vậy;
Ai Cập, Hy Lạp và cả Christian.
Có thể nói rằng con người hiện thời sẽ bị giật mất khỏi bàn tay sự khám phá trở lại sự
tương cảm tương giao với đời sống toàn diện của nội tâm cho đến khi hắn ta dùng đầu
óc khai phóng tìm về con tim, cho con tim trí huệ sáng suốt mà xưa nay tim mong
mỏi, thứ trí huệ không bị lệch lạc bởi sự áp bức thần quyền và các điều sai lầm từ bao
thế kỷ. Hy vọng nầy rất đơn giản, vì chúng ta đều là người; kẻ khác làm được thì mình
làm được. Sự tìm kiếm sẽ lan rộng theo hướng nầy. Ngày lại ngày, chúng ta sẽ thấy các
dấu hiệu giải thoát khỏi các thiên kiến ngàn năm, sự rụt rè và lo âu.

Từ chỗ nhận chân tầm quan trọng của cá thể ửng lên như một vừng đông ướm nhụy
là tuệ giác tri kiến rằng cá thể chẳng ra tích sự gì nếu không được kết nối, một cách bí
mật ở nội tâm, với sự phổ quát hoàn vũ, mà nhờ đó người đời được sung mãn từ một
suối nguồn vượt trên ngã chấp, đạt được sự yên ổn và trong lành không cần nợ chính
trị mà tạo mãi; đạt một bản sắc không cần tài trợ của màu da và quốc tịch.--

tham luận vụn vặt của ttt


An Essential of Religion là bài thứ ba trích dịch từ Manas Journal, tiếp theo Yoga Nhìn
Về Đông Phương và Trống Không và Cách Mạng trên blog nầy. Viết từ năm 1963, những
dòng nầy, khác với bài Yoga vừa nêu, không có một chữ nào rõ rệt nằm trong ngôn từ
đạo học Á Châu. Nhưng tất cả những ý chính mà tác giả đưa ra trong chiều hướng mới
có thể hiểu một cách dễ dàng song song với quan niệm và từ ngữ Phật Giáo, nhất là
đối với quý vị nào đã quen thuộc với giai đoạn Pháp Hoa Niết Bàn.
Những ai đã sống chết với “vô ngã, vô thường” sẽ rất khó chịu khi Maslow viết: thế giới
hằng ngày, vật thể, nhân thể … đều được trông thấy dưới ánh sáng của sự miên viễn
trường tồn. (Everyday world, objects, people seen under the aspect of eternity).
Nhưng thật ra Kinh Niết Bàn (kinh cuối cùng) phá sự phá chấp khi thuyết về vô ngã
vô thường. Những chương chính đều xoay quanh thường, lạc, ngã, tịnh. [sơ lược là bàn
về sự thường tồn chân chính, hạnh phúc thực sự chứ không phải là ảo giác, một chân
ngã (tức là Phật tính bẩm sinh), sự bình thản tuyệt đối]. Phật nhấn mạnh rằng ai nói
Phật tánh là vô thường chịu ảnh hưởng của giác quan thì như cắt đứt mạch máu của
muôn loài, người, súc vật và cây cỏ. Theo kinh Pháp Hoa, Phật có thọ lương vô cùng
vô tận, hằng triệu kiếp đã giáo hóa vô số loài chúng sinh khiến nhập vào Phật đạo.
Tác giả cho rằng Jesus Christ là nguyên tắc dung thông giữa điểm Ngài thuộc về địa
giới và điểm Ngài thuộc về thiên giới; thiết nghĩ ông căn cứ vào lời JC: ta vừa là con
của người vừa là con của trời. Con của người vì mẹ ta là bà Marie; “con” của Trời, ta
xuống trần để thuyết giảng bác ái ... Theo như ý chỉ của Thế Tôn, Phật cũng sinh ra
trong bào thai như trâu bò; Tất Đạt Đa là con của vua Tịnh Phạn, nhưng là một Như
Lai thị hiện để dễ bề hóa độ, (xin xem Ý Nghĩa Thị Hiện, Lữ Hồ), rất gần với câu: He
was only one, yet He is also the many in his rebirth in human hearts.Tây Phương rất
chi là “moniste”; JC chỉ là, phải là con của Trời, không rộng rãi như chủ nhiệm Manas
Journal ghi nhận màu sắc thời  gian và địa điểm hạn hẹp mà không quên thấy sự
thăng hóa của JC.
Đối tượng nghiên cứu mà Maslov đưa ra cũng như ý nguyện thiết tha của tác giả, nằm
trọn trong thường lạc ngã tịnh, bên cạnh bản lai diện mục và lý luận “biện chứng” (?!)
sắc không.
Nêu lên mấy nét Phật học bên trên không nhằm giành phần thắng cho “phe ta” mà
chỉ để hiểu thêm ý người. Nhưng rồi tiểu đệ cũng phải tự nhũ là bỏ đi quên đi, đừng
lẩn quẩn trong vườn dù là chuồng gà tre hay thượng uyển trong cung thành họ Thích;
nếu không thì không "thấy chút đom đóm lập lòe có chung bản thể với nguồn ánh sáng
của vũ trụ";  không "được sung mãn từ một suối nguồn vượt trên ngã chấp", không "đạt
được sự yên ổn và trong lành không cần nợ chính trị mà tạo mãi"; không "đạt một bản
sắc không cần tài trợ của màu da và quốc tịch".

ttt cẩn bút,
ngày hăm ba đưa anh và hai chị Táo về trời

xuất xứ đây
Web Page Name
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân