Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu .
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự ,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Hai bài thơ Đường nổi tiếng trên đây có rất nhiều người dịch - kể cả GS Nguyễn Quảng Tuân, cựu hiệu trưởng Duy Tân của chúng ta . Chúng tôi sẽ đăng bài dịch của thầy Tuân sau, bây giờ xin quí bạn thưởng thức bản dịch của Tản Đà :
GÁC HOÀNG HẠC
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu ?
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ !
Hạc vàng đi mất từ xưa,
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay .
Hán dương sông tạnh cây bày,
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non .
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai ?
Ngày Nay số 80 (10-10-1937)
BAN ĐÊM THUYỀN ĐẬU BẾN PHONG KIỀU
Trăng tà, tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài, cây bến sầu vương giấc hồ .
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San .
Cả hai bài thơ trên chúng tôi lấy ra từ cuốn THƠ ĐƯỜNG, TẢN ĐÀ DỊCH của Nguyễn Quảng Tuân, nxb Trẻ, TP/HCM, 1989.
Và sau đây là bản dịch của GS Nguyễn Quảng Tuân :
LẦU HOÀNG HẠC
Người xưa cỡi hạc đã xa bay,
Hoàng Hạc lầu không vẫn chốn này .
Mây trắng ngàn năm lơ lửng mãi,
Hạc vàng một tếch khuất trùng ngay .
Hán Dương sông tạnh cây phô sắc,
Anh Vũ cồn xa cỏ mọc dày .
Chiều muộn quê nhà đâu khuất bóng,
Trên sông khói sóng gợi buồn thay .
Riêng bài Phong Kiều Dạ Bạc, thầy Tuân không dịch, chỉ giải thích nghĩa thôi .
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn