TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Địa ngục du ký của Cô Ba cháo gà
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Địa ngục du ký của Cô Ba cháo gà

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
lyquochoang



Ngày tham gia: 16 Mar 2011
Số bài: 116
Đến từ: VN

Bài gửiGửi: Sat Dec 01, 2012 3:44 am    Tiêu đề: Địa ngục du ký của Cô Ba cháo gà

Địa ngục du ký của Cô Ba cháo gà
     
Tự Trần:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Mô Phật.

Bạch thầy.

Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh, Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong chờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo. Không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.

Vì lời dại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Địa ngục để xử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà, vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi ngục thứ bảy: Vì thấy sự hình phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt.

Đáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Địa ngục, hầu nhắc nhở bà con cô bác sớm thức tỉnh tu hành.

Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nổi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: Nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.

Con nghĩ: Đạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc Khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, điều đồng một mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.

Mô phật.

Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút.
Tục danh Cô Ba Cháo Gà.

Nằm Mộng

Nam mô A Di Đà Phật, nay tôi xin nói chuyện Địa ngục, vì người thế gian ít biết về Địa ngục được. Nhân vì tôi là người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Địa ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về Diêm phù này để nói cho cô, bác được rõ những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Địa ngục?

Tôi đi Địa ngục là đền tội lỗi và nhờ lục nguyện có duyên lành để nói lại cho cô, bác biết sự quả báo, phòng tránh làm việc sát sanh hại mạng, không phạm tội sa Địa ngục như tôi. Trước khi đi Địa ngục có nguyên nhân: Vì tôi là Cô Ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ cho đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: “Ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?” Ông ấy đáp: “Mày chết! Chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!” Tôi hỏi: “Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?” Ông đáp: “Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, bò, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao còn giống được mà con biết.

May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm Chúa cho về bảo con cháu biết. Con ráng tu đừng sát sanh hại vật phải đọa Địa ngục như ông quá khổ sở”. Tôi hỏi “Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên gì?”. Ông đáp: “Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mày là Huỳnh Văn Thình, mày là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?” Tôi đáp: “Ông nói đúng sự thật, nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi”. Ông bèn tiếp: “Thôi con ráng tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh, không những gà vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con nên cố gắng tu đi, để cầu siêu cho ông với”. Đến đây đồng hồ ré, tôi giựt mình xem đúng 3 giờ khuya. Thường khi nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhầm ngày 17 tháng 11 vía phật A Di Đà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.

Chết Đi Địa Ngục Lần Thứ Nhất

Thời gian sáu, bảy năm tu cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Đà, Phổ Môn là niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Địa Tạng, Pháp Hoa. Tính ra từ 17 tháng 11 năm Mùi cho đến ngày 23 tháng 4 năm Dần, khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng thấy từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oải, náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh. Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chứ không phải người dương, là ma quỷ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con đang ôm đầu tôi khóc và kêu: “Má, má” còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay, cạo gió, đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi bây giờ ráng niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nhìn vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy các vị thần đổi sắc mặt, vui vẽ kêu tôi: “Sư nữ, Sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi”. Tôi suy nghĩ có lẽ là ma hay quỷ gạt mình đặng bắt hồn chớ gì, bèn nói: Các ngài làm trước rồi tôi làm sau. Khi ấy tôi thấy các vị thần đều hòa hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bỗng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau trải qua mấy lớp mây rồi ra khỏi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe như thần nói đã tới ranh giới nước Mã lai tôi nhìn xuống cũng còn thấy nhà cửa, cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rải rác đó đây, lô nhô dưới biển tàu xuôi ngược, đèn đuốc lập lòe, vì trời đã tối. Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển cả mênh mông, mây nước một màu bầu trời đen thẩm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống dày đặc cả mình lạnh buốt, tay chân tê cứng chịu không nổi, nên buông tay nhào xuống biển.

Khi đó chư thần vớt tôi lên đem vào đền vua được biết đây là Long Vương hỏi: Chư thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm Phù sao không bỏ trong hồ lô mà để hồn ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi? Lúc ấy Chư thần trả lời sao tôi nghe không rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị thần lên lưng ngồi, Xong xuôi rồng bay tới chân núi thì dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vị. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đã tối mà khi đến núi này lại thấy cảnh mờ mờ. Chư thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: “Sư nữ có sao không?” Tôi đáp: “Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi”. Có một vị thần lấy ra cái y ở trong tay áo đưa tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị thần nói: “Bồ Tát đến rồi”. Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đầt rộng lớn bao la ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga, to lớn, trước đền hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về tây phương, lòng mừng khấp khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.

Quả Báo

Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong xa là đền rồng của vua Nhứt Diện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà, vịt chận mình phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: “Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Điện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã quy đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạng sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thay, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng chút xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ này. Ngày nay nhà ngươi xuống đây, chúng tôi phải phân thân trả hận”. Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ, con thì đá, lớp gà, lớp vịt, mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng. Không còn chịu nổi nữa, liền té quỵ xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi, nhưng lạ lùng thay, tôi còn nghe văng vẳng tiếng Bồ Tát Quán Âm nói: “Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Điều thứ nhất, là các người tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình, số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân xử cho nổi.

Trả thù xong rồi, tùy theo nghiệp lực của các ngươi mà đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào mãn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép”.

Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nữa. Bồ Tát bảo tiếp: “Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi”. Các con vật trả lời: “Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!”. Bồ Tát bèn sai vị thần đem nước rưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy. Nhớ lại mình đã cắt cổ gà, vịt quá nhiều lòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quán Âm dạy rằng: “Nhờ người thức tỉnh tu hành, thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây kiện ngươi, xin trả thù có một lần. Bằng không, tự nhiên sau này ngươi phải đầu thai làm thú trong một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Vì chúng sanh mê muội, không rõ luật nhân quả, cứ tưởng chết rồi là hết, cho rằng: “Vật phải dưỡng nhơn” rồi thẳng tay sát hại, chừng khi quả báo đến thì kêu Trời, kêu đất ai cứu được. Nhà ngươi có biết các con vật ấy là chi của ngươi không?” Tôi đáp: “Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó chỉ là con vật thôi”. Bồ Tát nói: “Nó là Ông Bà, cha mẹ, nhiều đời, nhiều kiếp. Trước kia nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa thân làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà, cha mẹ của ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả vay vay trả như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm Phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưởng thân thể, hoặc bắt cá cua để nuôi cháu. Vì thương mà hại, đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hãy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến sanh làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó ráng lo tu Phật và quy y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó.

Kết Án

Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát, lại nghe ngài phán rằng: “Người tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong cho một kiếp, có chịu nổi không?” “Bạch, con chịu nổi”. Bồ Tát nói: “Vậy thì vào Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh án”. Đến Nhất Điện tôi quỳ xuống nghe ngài phán án: “Tội lỗi của người rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong trong một kiếp thì cứ khai đi”. Tôi bèn khai: “Bạch Diêm Chúa, con sát sanh vì con giết vật rất nhiều, tội cắp vì buôn bán gian xảo, tội tà dâm vì có 7 đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết đã vậy mà con còn uống rượu nữa”. Nói đến đâu thì có vị phán quan giở sổ xem đến đó, kế Diêm Chúa quở: “Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình, chẳng biết thương ai”. Tôi nói: “Bạch ngài, tôi xin chịu tội”.

Nhất Điện bèn phán: “Tôi sát sanh rất nặng, theo lẽ thì phải thường mạng, nhưng hôm nay ngươi xuống đây cho chúng nó trả hận, và ngươi cầu siêu cho chúng nó như đã xong, xong còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt hết oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.

Nhờ lòng hiếu thảo nên nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hằng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láo. Còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hãy lắng nghe ta nhắc lại tiền kiếp của ngươi: Trong 6 kiếp kia ngươi quy y theo Phật, Pháp, Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay, kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng cũng đông cho nên được làm Hòa thượng, trụ trì chùa Tổ Đình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước cho nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị tăng ni mến phục. Vì học giỏi được mọi người kính nể, người sanh cống cao ngạo mạn, tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ý, để tâm ý dong ruổi theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đãi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đòi nợ trong kiếp vừa qua đã cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh mà trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có quy y với Đại Đức Thích Hoằng Nghĩa mà ngài dậy ngươi niệm Phật và tụng chú Đại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ.

Chịu Quả Báo

Nhất Điện, Tần Quảng Vương phán tiếp: Ngươi hãy nghe cho rõ lời trẫm phán: Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà nên lãnh tội đui. Đã là hàng Đại Đức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: “Vật dưỡng nhơn”, không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lãnh tội câm. Đã xuất gia đầu Phật còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lãnh tội điếc. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh, kiếp thứ hai làm người đui mù, kiếp thứ ba chịu câm và điếc, nhưng ngươi biết sớm ăn năn tu hành theo Phật và cũng nhờ theo lời đại nguyện của người xin trả nghiệp trong một kiếp, thôi hãy lãnh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành thì xuống đây sẽ định lại”. Tôi nói: ” Bạch Diêm Chúa, tội câm và điếc tôi xin lãnh, còn tội đui xin Ngài khoan hồng cho tôi”. Nhất Điện phán: “Vì nghiệp lực của ngươi Trẫm không thể nào tha thứ được, ngươi hãy đến Bồ Tát mà xin”. Nghe lời Ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quán Âm. Ngài hỏi: “Ngươi muốn sáng mắt để làm gì?” ” Bạch Bồ Tát con thấy chúng sanh nơi địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi”. Đức Địa Tạng nói: “Nên có lời đại nguyện phải đốt tâm”. Liền đó có một vị thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ trước Bồ Tát Quán Âm, vị khác đến gắp một cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám cãi, cứ nhắm mắt, há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra lửa ngọn, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: “Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc phải chết”. Vừa nghĩ thế, vị thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốc lên dữ dội và đến cục thứ ba cũng thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: “Nghỉ một chút” tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời. Vị thần đứng kế bảo: “Ngài ráng tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nuốt nữa”. Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình là người đại ác nên nay phải trả nghiệp thời đành phải chịu vậy. Vừa nghĩ tới đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa nhưng lạ thay, tới cục lửa thứ tư này nghe trong mình không sao hết, tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dẫu có nuốt bao nhiêu nữa tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đã nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: “Thôi cho ngươi an tọa”. Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất. Khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị thần ở phía sau bưng hộp ra hiện trước Bồ Tát Quán Âm xem và nói: “Tham, sân, si của người hãy còn, ba cục đem là chỉ lòng tham, sân, si của người đấy! Còn cục đỏ này là chỉ người sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của người. Vì người quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành cho ba cục đen này, hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời Đại nguyện nên phải khám phá Địa ngục”. Lúc ấy tôi ngẩn ngơ, tôi biết phá Địa ngục bằng cách nào? Nghe chư thần nói: “Ngài hãy dùng gươm Trí huệ mà phá”. Tôi bèn suy nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lãnh ấn nơi Nhất điện cùng các chư thần đi khám phá Địa ngục.

Bảy Tầng Địa Ngục

Ngục Thứ Nhất.

Khi đó hai vị quan đi trước dẫn đầu, 2 quỷ sứ cùng 18 vị thần vào ngục. Trong ngục thứ nhất không có sự hành phạt, chỉ gồm có 4 số người:

1) Số công.
2) Số oan
3) Số ưng.
4) Số phạt.

Số công là mãn số rồi chết và cũng không tạo nghiệp sát nhơn. Số oan là kiếp trước không giết người, nhưng kiếp này bị người giết. Số ưng là vì kiếp trước giết người, nên kiếp này bị người giết lại để trả nghiệp. Còn số phạt là khi chết oan mà không chỉ theo chư thần xuống địa ngục, cứ mãi lẫn trốn ở cõi Diêm Phù tìm người trả hận, hay phá quấy người, bận cho chư thần phải quan sát, nay bị bắt xuống đây để chờ xử phạt. Đó là địa ngục thứ nhất.

Ngục Thứ Hai.

Trong ngục thứ hai cũng có bốn số như ngục thứ nhất, nhưng còn ở ngục thứ nhất là xử án, khi xử án rồi qua ngục thứ hai chờ lãnh án mà đi, hoặc được lên làm người, hoặc vào ngục khác mà chịu tội, hoặc qua ngục nhơn hiền tu thêm. Có một vị quan đi theo nói: “Nếu vong này có lòng hỷ xả, trước kia mình không giết ai, nay bị người giết, sự chết sống ở đời chỉ là giả dối, nay không hận thù, dù vong ấy có tạo tội cũng được ân xá qua cảnh nhơn hiền tu thêm, chỉ có tội ngũ nghịch không trừ được.

Còn vong nào cứ xin đi trả thù thì Nhất điện Tần quảng Vương cho quỷ sứ dẫn vào ngục ngay không xét xử, nếu chúng sanh cứ mãi gây thù kết oán thì cõi ta bà biết ngày nào dứt được chiến tranh đáng thương xót chúng sanh bị giam cầm nơi địa ngục những vong cứ mãi hận thù.

Ngục Thứ Ba.

Trong ngục thứ ba có một số người rất đông sau một thời gian bị hành phạt ở các địa ngục tùy theo tội ác của họ, nay chờ xét lại rồi lãnh án để sanh làm người hay qua cõi nhơn hiền tu thêm. Số người này lo đập gạo nấu cơm (vì hột gạo ở đây như trái dừa khô ở dương thế). Nấu xong, đem phát cho các vong ở các ngục ăn. Mỗi địa ngục rất lớn ước bằng châu thành Mỹ Tho vậy, đó là đại địa ngục. Trong một đại địa ngục chia ra làm 16 tiểu địa ngục. Mỗi địa ngục các vong hồn nhiều thôi vô số, ngồi có hàng có lớp, gục tới gục lui thật là sầu khổ.

Qua ba ngục trên tôi đều khuyên các vong niệm Phật. Tôi nói: “Tôi coi các vong ở địa ngục này như bà con, cô bác của tôi vậy. Cô bác hãy niệm Phật, có niệm Phật tôi mới được tiêu trừ, tôi bèn niệm:

Nam mô A Di Đà Phật

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô tầm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục này Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Nhờ lời khuyên của tôi mà các vong đều niệm theo, hễ vong nào chí tâm niệm Phật, thì ra khỏi địa ngục ngay, còn vong nào cứng cỏi hay vì nghiệp chướng quá nặng nề mê muội không niệm được thì vẫn ở trong địa ngục. Nhờ thế mà trong ba ngục đầu các vong được ra rất nhiều.

Ngục Thứ Tư.

Trong ngục thứ tư hành phạt những người hủy hoại cơm gạo, đồ ăn uống, phải chịu tội khổ ăn dòi, chẳng hạn kẻ nhiều người ít. Có người một diệm kẻ một khạp, một lu lớn, cho đến kẻ nặng nhiều không kể xiết, ước nhiều như chợ Mỹ Tho vậy. Được biết tội nhân khi ăn hết dòi đó rồi, nếu còn tội khác phải đến ngục khác chịu tội, như hết thì đi đầu thai chịu quả báo xấu xa, bần cùng khổ sở.

Một số đông người vì tội nấu rượu, không biết bao nhiêu là lu, người một lu, kẻ hai lu đến 5, 6, 7 lu để dài dài ước chừng 3 cây số ngàn, hàng ngàn, hàng trăm chứ không phải đôi ba, được biết khi uống hết rượu trong lu, nếu còn tội khác thì đến ngục khác chịu hành nữa, còn như hết tội đi đầu thai làm thú hay làm người ngu dốt chẳng hạn tùy theo nghiệp.

Tôi thấy như vậy lòng chua xót vô cùng bèn khuyên các vong niệm Phật, hễ ai nghe lời niệm Phật theo tôi thì tự nhiên dòi trong khạp tiêu mất, rượu trong lu vơi cạn, vì thấy sự mầu nhiệm như thế nên nhóm này niệm Phật truyền đến nhóm khác. Tôi cũng bươn bả đi khắp nơi, vừa đi vừa niệm Phật và khuyên các vong hồn niệm Phật. Nhờ thế cửa ngục thứ tư này ra khỏi một số rất đông.

Ngục Thứ Năm.

Khi vào ngục thứ năm, ôi! Vô số người bị mang gông tra cùm, do vì tội phao phản thêm bớt, nói gian dối làm người phải bị tù đày, mang gông đi không nổi, bị quỷ sứ ở sau đánh tới, cứ một bước bị đánh một cái, đến bước không nổi, té xuống thì bị đánh liên tục bất tận đến chết đi sống lại, cũng có một số bị nhốt vào lồng sắt vì lúc còn sống bắt thú nhốt vào lồng để chơi cho vui thích, tôi cũng khuyên bà con niệm Phật, hễ ai niệm theo tôi, thì gông cùm tan rã, lồng sắt vỡ ra. Đây tôi chỉ nói sơ lược ở ngục thứ năm.

Ngục Thứ Sáu.

Vào ngục thứ sáu, được nghe tội báo ở đây là do sát sanh hại mạng để ăn uống như: Trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, rắn, rùa,… số nào giết trâu, bò, ngựa, chó thì vít lên núi lửa, giữa núi lửa có một cột đồng rất lớn, lửa cháy hừng hực. Số nào chỉ ăn mà không giết thì vít ở ngoài cột đồng, số nào vừa ăn vừa giết thì vít ngay lên cột đồng, lửa cháy xèo xèo, mùi hôi khét xông lên. Ở đây cũng có một số người bất hiếu chửi cha mắng mẹ hoặc bỏ cha mẹ bơ vơ khổ sở, cũng bị hình phạt như vậy. Thật khó mà khuyên họ niệm Phật vì nghiệp lực quá nặng, chỉ có một số ở ngoài còn khuyên niệm Phật được. Hễ số nào niệm Phật thì ngưng hành hình, còn không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành phạt mãi. Đi một đỗi nữa gặp một số người rất đông: Số thì giữ gà vịt, số thì giữ heo bò, dê ngựa…Tôi cũng lấy làm lạ mà nói: “Ủa? Ở địa ngực cũng có nuôi heo gà, bò dê nữa hay sao?” Có vị quan đi theo trả lời: ” Không phải, đây là những chúng sanh, khi còn sống nuôi bò dê heo gà vịt để sanh hại chớ không sát sanh. Chúng phải ở đây mà giữ số thú này, chừng nào số thú này mãn kiếp thú thì mới được đi đầu thai. Đó là chưa kể những tội khác, mà phải đến các ngục kia mà chịu tội nữa”.

Lại có một số người hay đi nghe những trò hát ca tình tứ khiêu động tình dục làm cho người say mê điên đảo, bị quỷ sứ hát lại cho các người giữ thú xem. Nếu hát được thì thôi, bằng hát không được thì quỷ sứ đập tơi bời. Có vị quan đi theo nói: “Những chúng sanh này khi còn sống được giàu sang rồi ăn xài lãng phí, phải chi chúng nó dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo đói hoặc in kinh, tạc tượng Phật, hoặc cúng chùa hộ quý Tăng Ni tu học thì quý báu biết bao! Lúc chết được sanh về trời hưởng phước tu thêm đặng về cảnh Niết Bàn, chớ có đâu mê muội xài phí đồng tiền vô ích mà nay phải vào địa ngục”.

Đi một đỗi nữa đến cầu Nại Hà bắt ngang qua một cái hầm rộng lớn ước chừng 5 mẫu đất, cầu thì nhỏ tròn như cây cau, ở dưới đủ các loại thú vật có từng đàn, đoạn đầu thì bầy trâu, bầy bò, bầy ngựa, bầy voi, bầy cọp, bầy rắn, kế đến là bầy gà vịt heo dê đủ loại, sau cùng là bầy chó, nếu ai giết thú nào, khi qua cầu, ngang qua bầy thú ấy do nghiệp lực tạo ác của mình mà phải té nhào xuống hố, mặt tình cho chúng nó giày bừa, đá đạp. Hễ giết voi thì bị voi dậm, giết chó thì chó xé, giết heo thì heo ủi, giết gà thì gà mổ, giết rắn thì rắn quấn… Cho đến thân thể nát nhừ hôi thúi rồi đi thường mạng, những người nào không sát hại sinh vật thì đi qua cầu được bình an, vì nhờ đã cầu siêu cho đám gà vịt rồi, khi đó có một con chó chạy theo tôi, cái thân thì người ta mà đầu chó, thấy nó tôi phát run, nó kêu: “Cô Ba, Cô Ba, tôi là chó nô đây, cô quên tôi sao?” Tôi nói: “Ủa nô mày chết lâu rồi sao còn ở đây?” Nó nói: “Tôi kiếp trước là đệ tử của thầy Giác Tân, vì lòng tham lấy của Tam bảo, nên phải làm kiếp chó để giữ chùa, kiếp tôi chưa mãn, bị một người thuốc tôi chết, tôi quyết chờ nó xuống đây, trả hận”. Tôi bèn khuyên: ” Thôi mày xin đi đầu thai đi, thù oán làm gì cho khổ, chẳng lẽ mày đợi mãi sao”. Miệng nói mà chân tôi đi riết.

Ra khỏi ngục, gặp Lục Biện, Ngài nói: “Ngươi thấy chưa, chúng nó vì tội sát sanh hại mạng mà khổ sở như vậy. Khi về cõi Diêm Phù, ráng khuyên người đừng sát sanh hại vật và cũng đừng đốt giấy tiền, vì chỉ có tội chứ không có phước”. Sơ lược như vậy.

Ngục Thứ Bảy

Khi đến Thất điện tôi nghe vua Thất điện dạy rằng: “Sư nữ của các ngươi, oai thần đã giảm, nếu vào ngục có xỉu thì nên đưa ra cấp tốc, kẻo nhiễm khí độc”. Bước vào ngục, tôi thấy tội nhơn bị quỷ sứ móc mắt, bẻ răng, cắt lỗ tai, xẻo lỗ mũi, cắt lưỡi, số người rất đông, tôi cũng còn vững tinh thần, đến chừng thấy người cậu (cậu chết tháng 2, tôi chết tháng 4) bị bẻ răng, móc ruột, máu ra lai láng, tôi xỉu luôn, chư thần liền đưa tôi ra.

Nói Chuyện Với Cậu.

Khi tỉnh lại, tôi liền xin với Thất điện cho tôi tiếp tục đi theo ngục thứ bảy, Ngài nói: “Không đặng vì oai thần của ngươi đã giảm, hãy về tu thêm”. Tôi nói: “Tôi có người cậu chết hôm tháng 2, đang chịu tội trong ngục, xin ngài cho tôi trở lại thăm”. Ngài nói: “Không được, để tôi cho quỷ sứ dẫn cậu ra”. Quỷ sứ đưa cậu ra, tôi hỏi: “Hồi đó cậu nói với tôi cậu tụng kinh Pháp Hoa 40 năm, sao nay cậu còn bị đọa vào địa ngục”. Cậu tôi trả lời: “Vì cậu nói láo nên nay mới bị hành phạt như vầy. Cậu còn cái tội khi dễ người đời, lại thêm hốt thuốc cắt cổ nữa. Vậy con về nói với thằng Khanh, thằng Chình con của cậu, phải bán hết gia sản làm chay bố thí, phóng sanh, hoặc ấn tống kinh cúng chùa mà cầu siêu cho cậu, vì của ấy là của mồ hôi nước mắt của người đời, cậu bóc lột họ nhiều quá”. Tôi nói: “Thôi cậu hãy ráng niệm Phật, khi trở về dương thế, tôi sẽ tụng kinh mà cầu siêu cho cậu, chớ con cậu dễ gì tin theo lời tôi nói”. Lúc ấy Thất Điện có phán: “Chúng sanh ở cõi Diêm phù thật quá mê muội, tưởng chết rồi là mất hết, nên thẳng tay tạo điều ác nghiệp, đến khi chết xuống địa ngục ăn năn cũng muộn. Khi về cõi Diêm phù. Trẫm có đôi lời nhắn nhủ với chúng sanh, mỗi ngày phải ráng tu một giờ, hay nửa giờ hoặc niệm Phật tụng kinh trì chú. Ngươi cũng khuyên chúng sanh đừng đốt giấy tiền mà cầu siêu cho ông bà. Nếu vậy Nhất Điện Tầng Quảng Vương đi ăn hối lộ của người thế hay sao? Muốn cho ông bà cha mẹ được siêu rỗi, phải bố thí cho kẻ nghèo đói, cúng chùa hộ Tăng Ni tu học, in kinh ấn tống, mua vật phóng sanh mà cầu siêu thì cha mẹ ông bà có chết bao nhiêu năm cũng được siêu độ”. Đến đây tôi xin kiếu Ngài để trở lại Nhất Điện.

Trở Về Nhất Điện

Khi về đến Nhất Điện, Ngài phán: “Ngươi khám phá địa ngục, thấy sự trừng phạt có công bình hay không?” Tôi đáp: “Bạch ngài, sự hành phạt rất công bình, nhưng chúng sanh tạo ác lúc nào không biết, nay thấy chúng bị hành phạt khổ sở, lòng cũng quá xót thương”. Ngài nói: “Chúng sanh khi còn sống chỉ lo cung phụng cái xác giả tạm mà gây bao tội ác: Nào sát sinh hại vật, nào cướp của giết người, lòng tham không đáy, muốn ngồi không mà hốt của thiên hạ để cho gia đình, thân tộc bè bạn vui say, cuối cùng, cái thần thức phải rơi vào địa ngục”.

Nhất Điện phán tiếp: “Thay vì nhà ngươi phải lãnh tội đui, câm, điếc mà trởû lại cõi Diêm phù trong 10 năm, nhưng nhờ công phá 7 cửa ngục mà chúng sanh được siêu độ rất nhiều, nên giảm được tội đui, chỉ còn lãnh tội câm và điếc trong vòng 3 năm rồi xuống đây sẽ định lại. Nếu tinh tấn tu hành, gia đình tu thiện, tránh sát sanh thì còn giảm nữa bằng không thì mang tật suốt đời”.

Kế ngài phán: “Nhà ngươi biết nhận tội ăn năn cải sửa, có lắm chúng sanh đến đây mà còn chối tội, trẫm bèn cho kiếng chiếu tiền ảnh thấy việc làm của mình trên trần thế, lúc ấy hết phương chối cãi, cũng có nhiều chúng sanh xin sống lại để đem của tiền bố thí cúng chùa. Nhưng xác thân của chúng đã rã rơi, đâu còn mà trở lại, vì một vong hồn xuất ra, quỷ sứ thâu nhỏ lại bỏ vào hồ lô mang xuống vua Đông Nhạc, kế giải qua Tây Nhạc, đến ngày Trẫm phân xử thì gần cả tháng lúc ấy thây thi đã rã, đâu còn mà trở lại. Nên Trẫm cho lên Nguyệt Cảnh Đài, nhìn về quê quán người thì chồng đã có vợ khác, hoặc vợ đã có chồng khác, của cải bị đám con phá tan, gia tài hao mất, tình nghĩa như đám mây bay, thấy cảnh đời như vậy gục đầu mà khóc”.

Tôi bèn nói: “Bạch ngài, tôi có thể xem các thứ ấy đặng không?” Ngài nói: “Đứa ác còn xem được, huống chi ngươi có ác có thiện”. Ngài vừa nói dứt có vị thần đem kiếng chiếu tiền ảnh ra cho tôi xem. Thật là hay quá: Lúc nào tôi làm gì nói chuyện với ai? Tính toán điều gì? đều hiện ra đầy đủ như ở cõi Diêm Phù ta coi hát vậy. Kế ngài bảo tôi nhắm mắt để lên Nguyệt Cảnh Đài, vừa mở mắt ra thì thấy mình đứng trên một tấm kiếng thật to lớn. Tôi đang nhìn qua ngó lại không biết phải xem cách nào thì bỗng có một vị cốt cách như Tiên, tóc đỏ, râu vàng bước tới. Tôi hỏi: “Ngài ở đâu đến đây?” Ông ấy đáp: “Tôi chẳng phải ở đâu, cũng chẳng phải từ đâu đến, hễ có ngài thì có ta”. Tôi nghe nói thế cũng lặng thinh. Ông bèn dẫn tôi xem về ngôi nhà của tôi thật là tỏ rõ vô cùng, thấy xác tôi nằm trên ván đó, chung quanh có bà con cô bác lân cận, cũng có thằng em của tôi ở Thủ Thừa qua thăm, con tôi nó đứng gần bên xác tôi và đang nói năng điều chi đó.

Xong rồi, người dẫn tôi xem Sài Gòn, cũng thấy nhà cửa, xe chạy, người qua kẻ lại, coi đến những đô thị trên thế giới, các đô thị này thật lộng lẫy nguy nga, lớn hơn Sài Gòn xa lắm. Tôi bèn nói: “Hay quá, thật hay quá. Xem được như vầy dẩu có chết hay sống cũng vui lòng”. Ông Tiên đáp: “Hay mà cũng chưa hay, ngài ráng tu chừng nào mà không cần đứng trên Nguyệt Cảnh Đài này mà thấy được tất cả mới thật là hay”. Đến đây ngài bảo tôi trở về, vì đã hết thời gian ấn định. Ngài vừa nói dứt câu thì thân tôi đứng ngay trước Nhất Điện. Nhất Điện bảo tôi đến lễ Bồ Tát đặng trở về cõi Diêm phù.

Trở Về Dương Thế

Khi đến lễ Bồ Tát vừa muốn bạch thì đã câm ngay. Bồ Tát khuyên: “Khi về cõi Diêm phù, ngươi nhớ lời Đại nguyện mà tinh tấn tu hành ba năm sau xuống đây xét lại”. Chư thần đưa tôi trở lại cung Long Vương, được vua Long vương cho rồng đưa qua bể lạnh, nhờ hơi rồng tôi thấy ấm áp hơn bận đi. Gần đến ranh giới loài người, rồng dừng lại, tôi cùng chư thần tạ ơn rồi bay thẳng vào nội địa. Đến nhà tôi chư thần hạ xuống vào nhà, tôi thấy cái xác của tôi nàm ngay trên ván, không cử động chi, nước da xanh mét, tôi bắt rùng mình. Trước kia tuy tôi tu hành nhưng cũng không chứng được cái hồn của mình như thế nào, ngày nay mới nhận được rõ ràng. Cái xác này là giả dối, có hồn nhập vào thì nói năng, cử động, hồn xuất ra thì cứng đờ xanh mét, rồi theo thời gian mà tan rã, chớ có chắc thật chi đâu. Vừa nghĩ thế thì thấy có một vị thần từ trong xác tôi xuất ra (đó là thần giữ xác điều hòa hơi thở, bằng không thì xác bị hoại, tôi về nhập vô không được). Các vị thần ở ngoài xô tôi nhập vào xác. Lúc còn ở ngoài xác, tôi tỉnh lắm có đâu nhức chi đâu, thế mà khi vào xác tâm hồn mê mẩn như người say ngủ, tay chân lạnh tê nặng nề. Cả mình đau nhức, một lúc nghe gân cốt trong mình chuyển, hơi thở nghe điều hòa tôi bèn mở mắt ra, thì thấy con tôi nó đứng kế bên đó. Lòng tôi buồn rười rượi, tự nhiên nước mắt chảy dài, chớ không nói năng gì được.

Một lúc lâu, tôi bàng hoàng ngồi dậy, thấy bà con đứng xung quanh, tôi chỉ lắc đầu, hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi mà miệng không nói chi được hết. Trong mình nhức mỏi, các bắp thịt cứng đờ, cổ khô hốc. Chắc con tôi cũng khổ lắm, nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ lấy mắt mà nhìn. Lúc ấy đồng hồ chỉ 12 giờ ngày 24 tháng 4 năm Dần. Trọn ngày hôm đó và liên tiếp cho đến ba bốn hôm sau, tôi ăn ngủ không được, lòng như còn hải hùng khiếp sợ, hễ nhắm mắt thì thấy Địa ngục hành hình. Con tôi nó thấy tôi quá khổ sở nên nó cầu nguyện ăn chay một tháng, để tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện cho tôi, sau một tháng tôi cũng chưa nói được, nó không thối chí, vẫn tiếp tục ăn chay cầu nguyện. Còn tôi hễ nhớ đến chúng sanh nơi Địa ngục thì lòng đau nhói, hàng ngày tôi tụng kinh Pháp Hoa bằng mắt, bằng tâm, chớ không ra lời. Mội ngày tôi tụng một cuốn hay hai ngày một cuốn, do đó tôi và con tôi tụng luôn sáu tháng.

Xuống Địa Ngục Lần Thứ Nhì

Dần, chư thần xuống rước tôi xuống âm phủ, chư thần cõng tôi qua địa phận loài người thì có rồng chờ sẵn mà đưa ngay vào địa ngục. Hai vị Bồ Tát đã đến lúc nào, thấy hai vị Bồ Tát tôi bèn đến đãnh lễ. Bồ Tát Quán Âm phán: “Quý thay, nhà ngươi giữ tròn lời đại nguyện, về cõi Diêm phù thọ trì kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh nơi địa ngục. Ta cho người biết, oai thần kinh Pháp Hoa rất lớn, và cũng nhờ ngươi đem hết thân tâm cầu nguyện nên mỗi bộ được siêu rỗ trên hai ngàn vong linh. Nhà ngươi có đứa con đại hiếu, ăn chay tụng kinh cầu nguyện cho mẹ, tội ngươi được ân xá thêm”. Ngài bèn bảo vị thần đưa tôi chung nước uống và rửa mặt. Lạ thay, rửa mặt xong thì tôi nói được. Bồ Tát nói tiếp: “Oai thần của ngươi đủ sức khám phá địa ngục, hãy đến Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh ấn”.

Tôi bèn đến Nhất Điện làm lễ lãnh ấn thì ngài hết vui mừng, từ trên ngai vàng bước xuống mà phán rằng: “Trẫm rất mừng cho Hiền Tăng, tưởng đâu 3 năm mới trở xuống nào ngờ chỉ trong 6 tháng. Ngày nay mới biết rõ tâm ngài vì thương xót chúng sanh nơi Địa ngục không qu
_________________
LQH
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân