TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - CUNG OÁN NGÂM KHÚC - NGUYỄN GIA THIỀU
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

CUNG OÁN NGÂM KHÚC - NGUYỄN GIA THIỀU

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7285

Bài gửiGửi: Mon Sep 12, 2011 8:23 am    Tiêu đề: CUNG OÁN NGÂM KHÚC - NGUYỄN GIA THIỀU




CUNG OÁN NGÂM KHÚC






CUNG OÁN NGÂM KHÚC


Được sửa bởi MAI THO ngày Mon Sep 12, 2011 2:35 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7285

Bài gửiGửi: Mon Sep 12, 2011 8:30 am    Tiêu đề: ÔN NHƯ HẦU NGUYỄN GIA THIỀU : TÁC GIẢ CUNG OÁN NGÂM KHÚC




ÔN NHƯ HẦU NGUYỄN GIA THIỀU
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7285

Bài gửiGửi: Mon Sep 12, 2011 8:35 am    Tiêu đề: Cung Oán Ngâm Khúc - Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều

Cung Oán Ngâm Khúc
Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều

001     Trải vách quế gió vàng hiu hắt
002     Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
003     Oán chi những khách tiêu phòng
004     Mà xui phận bạc nằm trong má đào
005     Duyên đã may cớ sao lại rủi
006     Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang
007     Vì đâu nên nỗi dỡ dang
008     Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình
009     Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa
010     Vẻ phù dung một đóa khoe tươi
011     Nụ hoa chưa mỉm miệng cười
012     Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung
013     Áng đào kiểm đâm bông não chúng
014     Khóe thu ba rợn sóng khuynh thành
015     Bóng gương lấp loáng trong mành
016     Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa
017     Chìm đáy nước cá lừ đừ lặn
018     Lửng lưng trời nhạn ngẩn ngơ sa
019     Hương trời đắm nguyệt say hoa
020     Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình

021     Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
022     Nét đan thanh bậc chị chàng Vương
023     Cờ tiên rượu thánh ai đang
024     Lưu Linh Ðế Thích là làng tri âm
025     Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã
026     Ðịch lầu thu đường gã Tiêu Lang
027     Dẫu nghề tay múa miệng xang
028     Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng
029     Tài sắc đã vang lừng trong nước
030     Bướm ong còn xao xác ngoài hiên
031     Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn
032     Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng
033     Hoa xuân nọ còn phong nộn nhị
034     Nguyệt thu kia chưa hé hàn quang
035     Hồng lâu còn khóa then sương
036     Thâm khuê còn rấm mùi hương khuynh thành
037     Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ
038     Khách công hầu ngấp nghé mong sao
039     Vườn xuân bướm hãy còn rào
040     Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương
041     Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển
042     Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai
043     Hương trời sá động trần ai
044     Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi
045     Ngẫm nhân sự cớ gì ra thế
046     Sợi xích thằng chi để vướng chân
047     Vắt tay nằm nghĩ cơ trần
048     Nước dương muốn rẩy nguội dần lửa duyên
049     Kìa thế cục như in giấc mộng
050     Máy thuyền vi mở đóng khôn lường
051     Vẻ chi ăn uống sự thường
052     Cũng còn tiền định khá thương lọ lạ
053     Ðòi những kẻ thiên ma bách chiết
054     Hình thì còn bụng chết đòi nau
055     Thảo nào khi mới chôn nhau
056     Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !
057     Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
058     Ai bày trò bãi bể nương dâu
059     Trắng răng đến thuở bạc đầu
060     Tử sinh kinh cụ làm nau mấy lần
061     Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc
062     Lớp cùng thông như đúc buồng gan
063     Bệnh trần đòi đoạn tâm toan
064     Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da
065     Gót danh lợi bùn pha sắc xám
066     Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
067     Nghĩ thân phù thế mà đau
068     Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
069     Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ
070     Ðường thế đồ gót rỗ kỳ khu
071     Sóng cồn cửa bể nhấp nhô
072     Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh
073     Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán
074     Chết đuối người trên cạn mà chơi
075     Lò cừ nung nấu sự đời
076     Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương
077     Ðền vũ tạ nhện giăng cửa mốc
078     Thú ca lâu dế khóc canh dài
079     Ðất bằng bỗng rấp chông gai
080     Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương
081     Mồi phú quí dữ làng xa mã
082     Bả vinh hoa lừa gã công khanh
083     Giấc Nam Kha khéo bất bình
084     Bừng con mắt dậy thấy mình tay không
085     Sân đào lý mây lồng man mác
086     Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng
087     Cánh buồm bể hoạn mênh mang
088     Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh
089     Quyền họa phúc trời tranh mất cả
090     Chút tiện nghi chẳng trả phần ai
091     Cái quay búng sẵn lên trời
092     Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm
093     Hình mộc thạch vàng kim ố cổ
094     Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong
095     Tiêu điều nhân sự đã xong
096     Sơn hà cũng ảo côn trùng cũng hư
097     Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
098     Quán thu phong đứng rũ tà huy
099     Phong trần đến cả sơn khê
100     Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
101     Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy
102     Kiếp phù sinh trông thấy mà đau
103     Trăm năm còn có gì đâu
104     Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì !
105     Mùi tục lụy đường kia cay đắng
106     Vui chi mà đeo đẳng trần duyên
107     Cái gương nhân sự chiền chiền
108     Liệu thân này với cơ thiền phải nao
109     Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
110     Mối thất tình quyết dứt cho xong
111     Ða mang chi nữa đèo bòng
112     Vui gì thế sự mà mong nhân tình !
113     Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
114     Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên
115     Thoát trần một gót thiên nhiên
116     Cái thân ngoại vật là tiên trong đời
117     Ý cũng rắp ra ngoài đào chú
118     Quyết lộn vòng phu phụ cho cam
119     Ai ngờ trời chẳng cho làm
120     Quyết đem dây thắm mà giam bông đào
121     Hẳn túc trái làm sao đây tá
122     Hay tiền nhân hậu quả xưa kia
123     Hay thiên cung có điều gì
124     Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi
125     Kìa điểu thú là loài vạn vật
126     Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng
127     Có âm dương có vợ chồng
128     Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê
129     Ðường tác hợp trời kia run rủi
130     Trốn làm sao cho khỏi nhân tình
131     Thôi thôi ngoảnh mặt làm thinh
132     Thử xem con tạo gieo mình nơi nao ?
133     Tay nguyệt lão khờ sao có một
134     Bỗng tơ tình vướng gót cung phi
135     Cái đêm hôm ấy đêm gì
136     Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng
137     Chồi thược dược mơ mòng thụy vũ
138     Ðóa hải đường thức ngủ xuân tiêu
139     Cành xuân hoa chúm chím chào
140     Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai
142     Áo vũ kia lấp ló trong trăng
143     Sênh ca mấy khúc vang lừng
144     Cái thân Tây Tử lên chừng điên Tô
145     Ðệm hồng thúy thơm tho mùi xạ
146     Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh
147     Mây mưa mấy giọt chung tình
148     Ðình trầm hương khóa một cành mẫu đơn
149     Tiếng thánh thót cung đàn thúy địch
151     Càng đàn càng địch càng mê
152     Càng gay gắt điệu càng tê tái lòng
153     Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ
154     Sắp song song đôi lứa nhân duyên
155     Hoa thơm muôn đội ơn trên
156     Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời
157     Trên chín bệ mặt trời gang tấc
158     Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu
159     Phải duyên hương lửa cùng nhau
160     Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào
161     Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt
162     Lúc cười sương cợt tuyết đền phong
163     Ðóa lê ngon mắt cửu trùng
164     Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu
165     Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt
166     Lòng quân vương chi chút trên tay
167     Má hồng không thuốc mà say
168     Nước kia muốn đổ thành này muốn long
169     Vườn Tây Uyển khúc trùng Thanh Dạ
170     Gác Lâm Xuân điệu ngã Ðình Hoa
171     Thừa ân một giấc canh tà
172     Tờ mờ nét ngọc lập lòa vẻ son
173     Trên trướng gấm chí tôn vòi vọi
174     Những khi nào gần gũi quân vương
175     Dẫu mà tay có nghìn vàng
176     Ðố ai mua được một tràng mộng xuân
177     Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu
178     Ghẹo hoa kia lại diễu gót sen
179     Thân này uốn éo vì duyên
180     Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời
181     Lan mấy đóa lạc loài sơn dã
182     Uổng mùi hương vương giả lắm thay
183     Gẫm như cân trất duyên này
184     Cam công đặt cái khăn này tắc ơ
185     Tranh tỷ dực nhìn ưa chim nọ
186     Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia
187     Chữ đồng lấy đấy làm ghi
188     Mượn điều thất tịch mà thề bách niên
189     Hạt mưa đã lọt miền đài các
190     Những mừng thầm cá nước duyên may
191     Càng lâu càng lắm điều hay
192     Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm
193     Ai ngờ bỗng mỗi năm một nhạt
194     Nguồn ân kia chẳng tát mà vơi
195     Suy di đâu biết cơ trời
196     Bỗng không mà hóa ra người vị vong
197     Ðuốc vương giả chí công là thế
198     Chẳng soi cho đến khóe âm nhai
199     Muôn hồng nghìn tía đua tươi
200     Chúa xuân nhìn hái một hai bông gần
201     Vốn đã biết cái thân câu chõ
202     Cá no mồi cũng khó nhử lên
203     Ngán thay cái én ba nghìn
204     Một cây cù mộc biết chen cành nào !
205     Song đã cậy má đào chon chót
206     Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người
207     Nào hay con tạo trêu ngươi
208     Hang sâu chút hé mặt trời lại râm
209     Trong cung quế âm thầm chiếc bóng
210     Ðêm năm canh trông ngóng lần lần
211     Khoảnh làm chi bấy chúa xuân
212     Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi
213     Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
214     Gác thừa lương thức ngủ thu phong
215     Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng
216     Gương loan bẻ nửa dải đồng xé đôi
217     Chiều ủ dột giấc mai khuya sớm
218     Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ
219     Thâm khuê vắng ngắt như tờ
220     Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo
221     Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ
222     Dấu dương xa đám cỏ quanh co
223     Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu
224     Gối loan tuyết đóng chăn cù giá đông
225     Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng
226     Ðêm năm canh tiếng lắng chuông rền
227     Lạnh lùng thay giấc cô miên
228     Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u
229     Tranh biếng ngắm trông đồ tố nữ
230     Mặt buồn trông trên cửa nghiêm lâu
231     Một mình đứng tủi ngồi sầu
232     Ðã than với nguyệt lại rầu với hoa
233     Buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoải
234     Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ
235     Hoa này bướm nỡ thờ ơ
236     Ðể gầy bông thắm để xơ nhụy vàng
237     Ðêm năm canh lần nương vách quế
238     Cái buồn này ai dễ giết nhau
239     Giết nhau chẳng cái lưu cầu
240     Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa !
241     Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ
242     Xe thế này có dở dang không ?
243     Ðang tay muốn dứt tơ hồng
244     Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra !
245     Nào dạo lối vườn hoa năm ngoái
246     Ðóa hồng đào hái buổi còn xanh
247     Trên gác phượng dưới lầu oanh
248     Gối du tiên hãy rành rành song song
249     Bây giờ đã ra lòng rẻ rúng
250     Ðể thân này cỏ úng tơ mành
251     Ðông Quân sao khéo bất tình
252     Cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân
253     Nào lúc tựa lầu Tần hôm nọ
254     Cành liễu mành bẻ thuở đương tơ
255     Khi trướng ngọc lúc rèm ngà
256     Mảnh xuân y hãy sờ sờ dấu phong
257     Bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy
258     Ðể thân này nước chảy hoa trôi
259     Hóa công sao khéo trêu ngươi
260     Bóng đèn tà nguyệt tẻ mùi ký sinh
261     Cảnh hoa lạc nguyệt minh hôm ấy
262     Lửa hoàng hôn như cháy tấm son
263     Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng
264     Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa !
265     Buồn vì nỗi nguyệt tà ai trọng
266     Buồn vì điều hoa rụng ai nhìn
267     Tình buồn cảnh lại vô duyên
268     Tình trong cảnh ấy cảnh bên tình này
269     Khi trận gió lung lay cành bích
270     Nghe rì rầm tiếng mách ngoài xa
271     Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra
272     Ðốt phong hương hả mà hơ áo tàn
273     Ai ngờ tiếng dế than ri rỉ
274     Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng
275     Vắng tanh nào thấy vân mồng
276     Hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh
277     Khi bóng nguyệt chênh vênh trước ốc
278     Nghe vang lừng tiếng giục bên tai:
279     Ðè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi
280     Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má nheo
281     Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả
282     Ðiệu thương xuân khóc ả sương khuệ
283     Lạnh lùng nào thấy ỏ ê
284     Khí bi thu sực nức hè lạc hoa
285     Tiếng thúy điện cười già ra gắt
286     Mùi quyền môn thắm rất nên phai
287     Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi
288     Thì thong thả vậy cũng thôi một đời
289     Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng
290     Dẫu thuê tiền cũng chẳng mang tình
291     Nghĩ mình lại ngán cho mình
292     Cái hoa đã trót gieo cành biết sao !
293     Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm
294     Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon
295     Cùng nhau một giấc hoành môn
296     Lau nhau ríu rít cò con cũng tình
297     Ví sớm biết phận mình ra thế
298     Dải kết điều ỏe ọe làm chi
299     Thà rằng cục mịch nhà quê
300     Dầu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này
301     Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ
302     Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn
303     Muốn đem ca tiếu giải phiền
304     Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu
305     Ngọn tâm hỏa đốt dàu nét liễu
306     Giọt hồng băng thấm ráo làn son
307     Lại buồn đến cảnh con con
308     Trà chuyên nước nhất hương đùn khói đôi
309     Trong gang tấc mặt trời xa bấy
310     Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu ?
311     Sinh ly đòi rất thời Ngâu
312     Một năm còn thấy mặt nhau một lần
313     Huống chi cũng lạm phần son phấn
314     Luống năm năm chực phận buồng không
315     Khéo vô duyên bấy cửu trùng
316     Son nào nhuộm được má hồng cho tươi
317     Vườn thượng uyển hoa cười với nắng
318     Lối đi về ai chẳng chiều ong
319     Doành Nhâm một dải nông nông
320     Bóng dương bên ấy đứng trông bên này
321     Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục
322     Chốn phòng không như giục mây mưa
323     Giấc chiêm bao những đêm xưa
324     Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày
325     Trên chín bệ có hay chăng nhẽ
326     Khách quần thoa mà để lạnh lùng !
327     Thù nhau ru hỡi Ðông phong
328     Góc vườn đãi nắng cầm bông hoa đào
329     Tay tạo hóa cớ sao mà độc
330     Buộc người vào kim ốc mà chơi
331     Chống tay ngồi ngẫm sự đời
332     Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm !
333     Nơi lạnh lẽo nơi xem gần gặn
334     Há phai son lạt phấn ru mạ
335     Trêu ngươi chi bấy trăng già
336     Trao con chỉ thắm mà ra tơ mành !
337     Lòng ngán ngẫm buồn tênh mọi nỗi
338     Khúc sầu tràng bối rối đường tơ
339     Ngọn đèn phòng động đêm xưa
340     Ðài hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn
341     Mà lượng thánh đa đoan kíp bấy
342     Bỗng ra lòng ruồng rẫy vì đâu ?
343     Bõ già tỏ nỗi xưa sau
344     Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng
345     Ðêm phong vũ lạnh lùng có một
346     Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh
347     Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh
348     Vách sương hót gió đèn xanh lờ mợ
349     Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn
350     Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao
351     Buồn này mới gọi buồn sao ?
352     Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình
353     Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi
354     Những hương sầu phấn tủi bao xong
355     Phòng khi động đến cửu trùng
356     Giữ sao cho được má hồng như xưa
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7285

Bài gửiGửi: Mon Sep 12, 2011 10:11 pm    Tiêu đề: Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều

Tiểu sử

Nguyễn Gia Thiều sinh ngày 5 tháng 2 năm Tân Dậu[1], tức ngày 22 tháng 3 năm 1741, cuối thời vua Lê chúa Trịnh, ở làng Liễu Ngạn, tổng Liễu Lâm, huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, có nhiều người làm tướng, làm quan cho triều đình.

Ông nội Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Châu, một võ quan nhưng thông kinh sử được phong tước công. Cha của Nguyễn Gia Thiều là Nguyễn Gia Cư, một võ quan cao cấp được phong tước hầu. Mẹ của ông là quận chúa Quỳnh Liên, con gái chúa Trịnh Cương. Nguyễn Gia Thiều gọi chúa Trịnh Doanh đang cầm quyền lúc bấy giờ là cậu ruột, và là anh em họ với chúa Trịnh Sâm. Vợ của Nguyễn Gia Thiều là con gái trưởng của quan Chưởng phủ sư Đại tư đồ Bùi Thế Đạt.

Vì gia đình bên ngoại thuộc họ nhà chúa, nên từ lúc lên năm, sáu tuổi Nguyễn Gia Thiều đã được vào học trong phủ chúa. Năm 1759 khi mới 18 tuổi, ông giữ chức Hiệu úy, quản Trung mã tả đội. Sau đó ông làm chỉ huy Thiêm sự, năm 1782 thăng Tổng binh coi giữ xứ Hưng Hóa. Nguyễn Gia Thiều là một người rất được chúa Trịnh tin dùng. Vì có công nên ông được phong tước hầu - Ôn Như Hầu. Các em của ông cũng lần lược được phong tước hầu, tước bá, như Nguyễn Gia Thưởng là Thưởng Vũ Bá; Nguyễn Gia Xuyên là Du Lãnh Bầu.

Thời gian làm Tổng binh ở Hưng Hóa, mặc dù có công được khen thưởng, Nguyễn Gia Thiều vẫn thường hay bỏ về nhà riêng ở gần hồ Tây để vui chơi, làm thơ và cùng bạn bè bàn luận về triết học. Ông tự xưng là Hy Tôn tử và Như ý thiền, lấy biệt hiệu là Tân Thi viện tử và Sưu Nhân. Có người bảo giai đoạn này chúa Trịnh không còn tin ông như trước, mới đẩy ông đi trấn giữ Hưng Hóa, và Nguyễn Gia Thiều biết điều đó, nên ông chán nản bỏ về.

Năm 1786, khi Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt chúa Trịnh, Nguyễn Gia Thiều trốn lên miền núi xứ Hưng Hóa. Năm 1789, Nguyễn Huệ đánh thắng quân Thanh, lập ra triều Tây Sơn. Vua Quang Trung trọng người tài, thu dụng một số quan lại cũ của triều đình Lê - Trịnh, Nguyễn Gia Thiều được mời ra cộng tác, nhưng ông cáo bệnh từ chối. Nguyễn Gia Thiều về lại làng cũ, sống ở đấy cho tới khi mất vài ngày 9 tháng 5 Mậu Ngọ, tức ngày 22 tháng 6 năm 1798, thọ 57 tuổi.
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7285

Bài gửiGửi: Mon Sep 12, 2011 10:14 pm    Tiêu đề: Sự nghiệp văn học Nguyễn Gia Thiều

Sự nghiệp văn học

Nguyễn Gia Thiều là người có sự hiểu biết sâu rộng về văn học, sử học và triết học. Ông còn tinh thông nhiều bộ môn nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, kiến trúc, trang trí. Về âm nhạc, Nguyễn Gia Thiều sở trường các bài ca, bài tán, ông là tác giả các bản Sơn trung âm và Sở từ điệu. Về hội họa, ông có bức tranh lớn Tống sơn đồ, dâng vua xem được khen thưởng. Về kiến trúc, trang trí, ông là người được chúa Trịnh giao cho trông nom việc trang hoàn phủ chúa và điều khiển xây tháp chùa Thiên Tích. Các công trình nghệ thuật của Nguyễn Gia Thiều đến nay không còn được lưu lại.

Về sáng tác, Nguyễn Gia Thiều có hai tập thơ chữ Hán là Ôn Như thi tập, khoảng một nghìn bài, nhưng đã thất truyền. Những tác phẩm chữ Nôm, ngoài Cung oán ngâm khúc, ông còn có Tây hồ thi tập và Tứ trai thi tập, hiện cũng chỉ còn vài ba bài chép trong tập Tạp ký của Lý Văn Phức như Cảnh trong vườn và Miếng tình.

Nguyễn Gia Thiều tuy thuộc tầng lớp quý tộc, nhưng sống trong một thời kỳ nhiều biến động, loạn lạc. Tác phẩm Cung oán ngâm khúc của ông nói lên tâm trạng ai oán của một cung phi sống trong hoàng cung. Nhiều nhà phê bình đánh giá Cung oán ngâm khúc chịu ảnh hưởng bởi Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn qua bản dịch của Đoàn Thị Điểm, từ thể loại ngâm khúc viết bằng song thất lục bát đến cách phát triển chủ đề cũng như bút pháp nghệ thuật.

Nguyễn Gia Thiều có nhiều con, trong số đó bốn người con đầu giỏi văn chương, có một tác phẩm chung là Tứ trai thi tập, gồm sáng tác của Tâm Trai - tức Nguyễn Gia Thiều, Kỷ Trai - Nguyễn Gia Cơ, Hoà Trai - Nguyễn Gia Diễm và Thanh Trai - Nguyễn Gia Chu.

Tên của ông được đặt cho một phố yên tĩnh, có nhiều biệt thự kiến trúc Pháp ở thủ đô Hà Nội, gần hồ Thiền Quang và ở nhiều thành phố khác của Việt Nam. Ở Hà Nội, có một ngôi trường trung học phổ thông khá nổi tiếng được vinh dự mang tên danh nhân Nguyễn Gia Thiều .
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân