TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - KINH DỊCH CUẢ NGƯỜI VIỆT NAM
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

KINH DỊCH CUẢ NGƯỜI VIỆT NAM

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
Mây tím



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 9611

Bài gửiGửi: Sat Mar 26, 2011 12:03 am    Tiêu đề: KINH DỊCH CUẢ NGƯỜI VIỆT NAM

Anh Lê Hàn Sơn, TD, DH và gia đình Duy Tân ...xin cho biết ý kiến .

KINH DỊCH CUẢ NGƯỜI VIỆT NAM


Người Trung Hoa đã có 2000 năm để nói Kinh Dịch là của họ, có hơn vài ngàn tác giả với hơn mấy ngàn đầu sách luôn luôn khẳng định điều này khiến nó đã thành một sự thật hiển nhiên khó ai cãi lại được. Nhưng ngày nay đã có những chứng cứ cho chúng ta thấy rằng nguồn gốc của Kinh Dịch không thể tìm thấy ở Trung Hoa, mà Việt Nam mới chính là nơi khai sinh Kinh Dịch.




Mặc dầu những người bày tỏ quan điểm này chỉ đếm được trên đầu ngón tay, quả là “mãnh hổ nan địch quần hồ”, nhưng chân lý không phải là dựa vào số đông.

Một người làm khoa học chân chính chỉ nên đưa ý kiến phản biện sau khi đã đọc kỹ quan điểm đối lập, cân nhắc chính xác những bằng chứng họ đề ra xem chỗ nào mình đồng ý, chỗ nào không đồng ý, rồi chính mình phải trưng cho được những chứng cứ ngược lại để làm sáng tỏ vấn đề, không nên nói chung chung, nói theo cảm tính. Cho rằng Kinh Dịch là của Trung Quốc hay của Việt Nam là quyền của mỗi người, nhưng muốn bảo vệ niềm tin này phải dựa vào chứng lý.

Người Trung Hoa nói về nguồn gốc Kinh Dịch dựa trên những chứng lý nào?

1/ Trước hết họ cho Phục Hy nhìn những hình đồ trên con long mã vẽ nên bát quái. Đây là chuyện hoang đường chỉ hợp với những người mê tín, ưa sự huyền hoặc, thế mà cũng được vô số người tin như thật. Nhưng Phục Hy dù là nhân vật huyền thoại vẫn không phải là thủy tổ chính thống của người Hoa hạ.

Phục Hy là tổ của một tộc trong đại chủng Bách Việt phía Nam Trung Quốc, người Hoa mượn làm tổ của mình. Tư Mã Thiên không đồng ý nên đặt Hoàng Đế ở đầu Sử ký. Vậy nếu Phục Hy có làm ra Bát quái cũng không thể nói là của Trung nguyên. Thừa nhận Phục Hy chế ra Kinh Dịch là người Hoa đã nhận Kinh Dịch là của dân Bách Việt, vậy sao cứ nói mãi Kinh Dịch của Trung Hoa và gọi đó là niềm tin chính thống. Hoàng Tông Viêm (16161 0 1686) người ở cuối đời nhà Minh, đầu đời nhà Thanh đã cực lực phủ nhận vai trò của Phục Hy trong Kinh Dịch, sao người Việt Nam vẫn cứ tin!
2/ Sau Phục Hy, người Hoa tin là Văn Vương khi bị Trụ Vương cầm tù ở Dữu Lý đã nâng cấp 8 quẻ thành 64 quẻ và viết quái từ hào từ Kinh Dịch. Người đưa ra thuyết này Tư Mã Thiên, sử gia hàng đầu và uy tín của Trung Quốc. Chính vì Tư Mã Thiên có uy tín nên người ta đã theo đó mà tin không cần kiểm chứng.

Từ Văn Vương đến Tư Mã Thiên cách nhau hơn nghìn năm trung gian có Khổng Tử cách mổi ông chừng 500 năm. Khổng Tử rất tôn sùng Văn Vương, thế mà chưa bao giờ nói với Văn Vương soạn Kinh Dịch. Ở đầu quyền Sử ký, lương tri Tư Mã Thiên còn ray rứt nên chỉ đưa ra giải thuyết “có lẽ Văn Vương diễn Dịch”, nhưng gần cuối sách thì lại xác định hẳn là Văn Vương diễn Dịch, và nhiều người hùa theo đó mà tin.

Kinh Thi là sách đại tụng Văn Vương, kể rất nhiều công tích của văn Vương nhưng không hề đả động đến Kinh Dịch. Các con Văn Vương như Võ Vương, Chu Công dùng bói toán để cúng lễ Văn Vương nhưng chưa bao giờ nói Văn Vương bói Dịch chứ đừng nói đền chuyện Văn Vương soạn dịch.

Chính nhóm Ngô Bá Côn đã xác định điều này: “Từ thời cận đại đến nay, cách nhìn nhận này đã bị các học giả phủ nhận” (Dịch học, Nxb Văn hóa – Thông Tin, Hà Nội, 2003, tr.90). Sách Tả truyện dẫn nhiều câu chuyện bói Dịch nhưng không hề nói Văn Vương soạn Dịch. Các nhà Dịch học Trung Quốc đầu thế kỷ XX đã có người muốn dứt bỏ Văn Vương khỏi vương quốc Kinh Dịch, nhưng có một số người nhiễu sự ưa chuyện huyễn hoặc cứ cố níu kéo Văn Vương, nhất là một số Dịch học người Việt.

3/ Sau khi loại bỏ Phục Hy và Văn Vương, một số nhà Dịch học Trung Quốc lại cho rằng Kinh Dịch có nguồn gốc từ các nhà Vu Hịch là các quan coi việc bói toán (Có Hiệt Cương, Lý Kính Trì), Kinh Dịch có các từ phán đoán giống các từ bói toán: cát, hung, hối lận, cữu, vô cữu, nhiều lời hào trùng hợp với lời bói, nhưng quan điểm này không mấy thuyết phục vì hai cơ cấu Dịch và bói khác nhau, bốc từ là những câu hỏi sẵn đưa ra để hỏi về một vấn đề mà người hỏi thắc mắc, câu trả lời là nhận hoặc phủ nhận, có hay không, còn hào từ phải tùy thuộc vị trí của hào, bản chất của hào, thời của quẻ.

4/ Phát hiện mới nhất là quan điểm của Trương Chính Lương khi cho rằng nguồn gốc của quẻ Dịch đến từ quẻ số khắc trên Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Nhóm Chu Bá Côn cũng đã có ý kiến về vấn đề này “Song dùng các chữ số trong phép bói cỏ như 1,5,6,7,8 … không đủ chứng cứ để chứng minh tại sao trong Kinh Dịch lại chỉ có 8 kinh quái và 64 biiệt quái” (Dịch học, tr.63).

Sau cùng nhóm Chu Bá Côn kết luận: “Tóm lại, đối với việc tìm hiểu nguồn gốc của quái, hào, tượng tuy đã có một số ý kiến có ảnh hưởng nhất định trong mấy năm gần đây, nhưng những điều được đề cập tới đầu không ngoài loại tượng và số, vẫn chưa thể nói là đã có một đáp án được gọi là công nhận. Có lẽ trong tương lai gần, theo đà phát hiện tư liệu ngày càng nhiều, chúng ta sẽ có được một đáp án xác đáng.” (Dịch học, tr.63). Còn Vương Ngọc Đức thì bi quan hơn: “Cuộc tranh luận kéo dài hai ngàn năm vẫn không có câu giải đáp chính xác. Nếu vẫn theo phương thức tư duy của các học giả thời xưa, thì hai ngàn năm nữa vẫn chưa làm rõ được vấn đề”. (Bí ẩn của Bát Quái – Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. 1996, tr.27).

Như vậy, đối với vấn nạn nguồn gốc Kinh Dịch, các học giả Trung Quốc đành chịu “bó tay” không truy vấn được. Vậy thì người Việt Nam hà cớ gì cứ đi theo họ để xác nhận một điều họ đã phủ nhận, cứ trân trọng mãi cái họ đã ném đi.

Vậy để xác định Kinh Dịch có nguồn gốc từ Việt Nam, chúng ta có những chứng cứ gì?

Năm 1970, Giáo sư Kim Định đã tuyên bố “Kinh Dịch là của Việt Nam” trong tác phẩm Dịch Kinh linh thế, tiếp sau đã có nhiều người mạnh dạn đề xuất những chứng cứ như Nguyễn Xuân Quang, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Trần Quang Bình, Hà Văn Thùy, Nguyễn Quang Nhật, Nguyễn Việt Nho, Trúc Lâm …

Riêng cá nhân tôi từ năm 1999, đến nay, tôi đã trình với công luận những chứng cứ khả dĩ chứng minh được Kinh Dịch là di sản của tổ tiên Việt Nam qua mấy điểm sau:

Căn cứ vào những hoa văn trên đồ gốm Phùng Nguyên và đồ đồng Đông Sơn thì Việt tộc đã ghi khắc những quẻ Dịch trước Trung Quốc và sớm hơn chứng liệu của Trung Quốc (xin xem Phát hiện Kinh Dịch thời đại Hùng Vương – Thanhnienonline).

Chứng liệu của Việt tộc trực tiếp từ tượng quẻ không phải qua suy luận từ số đến tượng như Trung Quốc. Có đầy đủ 8 quẻ đơn và một số quẻ kép trên đồ đồng Đông Sơn. Những quẻ này có thể đọc thành văn bản phản ánh tư tưởng quốc gia Văn Lang (Sứ giả Văn Lang – Anviettoancau.net).

Quẻ Dịch trên đồ Phùng Nguyên và Đông Sơn chứng tỏ hào dương vạch liền và hào âm vạch đứt của Trung Quốc là biến thể của hào dương vạch liền và hào âm vạch chấm của Việt Nam, Trung Quốc đã nối những chấm âm lại thành vạch đứt để vạch cho nhanh (cải biên) (Chiếc gậy thần – dạng thức nguyên thủy của hào âm dương – thanhnienonline).

Các từ Dịch/Diệc, Hào, Càn, Khôn, Cấn, Chấn, Khảm, Ly, Tốn, Đoài chỉ là từ ký âm tiếng Việt (Bàn về tên gọi tám quẻ cơ bản của Kinh Dịch – Dunglac.net).

Quan trọng nhất theo tiêu chuẩn tam tài của Trung Quốc chỉ sử dụng Tiên Thiên đồ, Hậu Thiên đồ mà không có Trung Thiên Đồ, một đồ cốt yếu đã được tổ tiên Việt Tộc sử dụng đễ viết quái, hào từ Kinh Dịch. Đồ này được tổ tiên Việt tộc giấu trong truyền thuyết, trên trống đồng, nên có thể khẳng định Trung Quốc không thể nào là người khai sinh Kinh Dịch cũng như phân bố vị trí các quẻ. (Trung Quốc đã công bố hơn 4000 Dịch đồ nhưng không có đồ nào phù hợp với Trung Thiên Đồ) (Kinh Dịch di sản sáng tạo của Việt Nam – Thanhnienonline)

Truyền thuyết Việt Nam một phần là những câu chuyện liên hệ với Kinh Dịch, như chuyện Con Rồng cháu tiên là chuyện của Trung thiên Đồ, chuyện Sơn Tinh Thủy Tinh là chuyển kể lại từ những lời hảo quẻ Mông, người Trung Hoa chỉ cần thay đổi bộ thủy trong hai chữ “chất cốc” là đổi câu chuyện nói về lũ lụt thành chuyện dạy trẻ mông muội là xóa được gốc tích của Kinh. Truyền thuyết được lưu giữ chính là để báo tồn Kinh Dịch (Các bài trên Anviettoancau.net – cùng tác giả).

Trong một bài báo ngắn, chúng tôi không thể trình bày hết mọi chứng cứ nhưng thiết tưởng bấy nhiêu đó cũng đủ để hy vọng các bậc đại thức giả Việt Nam nên xét lại vấn đề, cân nhắc phân minh trả lại sự công bằng cho tổ tiên. Thái độ thờ ơ của quí vị chỉ làm tăng thêm nỗi đắng cay chua xót của liệt tổ ở chốn u linh. Xin hãy chung tay làm sáng tỏ huyền án này.

Theo Nguyễn Thiếu Dũng (Tạp chí Xưa & Nay)
Về Đầu Trang
LE HAN SINH



Ngày tham gia: 12 Feb 2011
Số bài: 91
Đến từ: PHÁP QUỐC

Bài gửiGửi: Sat Mar 26, 2011 2:53 am    Tiêu đề: TIÊU ĐỀ : NGHI ÁN VỀ KINH DỊCH

Thưa quý vị ,
Để nói tiép theo bài viết vưà được đưa lên diễn đàn , liên quan đến Kinh Dịch , Trước khi đi vào phần chính , nghiả là chứng minh rằng Kinh Dịch là cuả người Bách Việt , hay kinh dịch cuả Trung Hoa , ( vấn đề nầy là một quá trình lâu dài và nhiều khúc mắc , đã gây ra biết bao nhiêu sự tranh cải cuả nhiều học giả thức giả Trung Hoa lẩn Việt Nam . ) Theo thiển ý cuả Hàn Sinh Họ Lê ( các bạn đã quên , hay là sơ xuất khi ghi nhầm Lê Hàn Sinh hoá ra Lê Hàn Sơn , ) Đây là vấn đề tương đối khá lớn , không thể một sớm một chiều mà chúng ta có thể giải quyết được , nhất là chúng ta cần nên có một Hội thão về vấn đề nầy . Nhưng ..... khi đề nghị hội thão như thế , cần phải có một sự tập hợp , gồm nhiều thành phần người Việt sống rải rát khắp nơi , còn một điều nưả , nếu hội nghị như thế lại diễn ra ở VN trong lúc nầy , hoá ra là người Việt Quốc Gia lại đương nhiên nhìn nhận chính quyền cộng sãn Việt nam là hợp pháp , chớ họ không phải là bè lũ Việt gian bán nước . Xin quý vị hảy thực là dè dặt và thận trọng , chớ rơi vào cái bảy cuả BỘ PHẬN NGHIÊN CỨU CHIẾN LƯỢC CUẢ TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SÃN VIỆT NAM . Hiện thời ngay trong nước , họ đã thành lập chính thức Trung tâm nghiên cứu Kinh Dịch , Một ở Sài Gòn , hai ở ngoài Hà Nội , Đũ thấy thâm ý cuả chính quyền cộng sãn như thế nào .  
Nguyên lai , trước khi người Hán thôn tính lãnh thổ cuả Bách Việt , thì người Việt đã cư ngụ trên lảnh thổ rộng lớn tận bờ sông Hoàng hà . Sau khi nhiều cuộc chiến tranh xâm lăng xảy ra , thì người Việt yếu thế luì dần về phương nam . Khi chiếm đóng lảnh thổ cuả Bách Việt , họ thiết lập hệ thốnh hành chính , cấm truyền bá văn hóc củ cuả người Việt , giống như thời Pháp thuộc , khi bước chân vào trường học ngay trên đất nước Việt nam , người học sinh vẩn phải nói tiếng Pháp như người Pháp , tiếng Việt bị cấm hẳn . củng như thế người Tàu đã huỷ diệt văn hoá cũ cuả người Việt , Và thay thế vào đó bằng thứ văn hoá ngoại lai , vì phải học hành thứ văn hoá ngoại lai lâu dần người Việt sẻ tiêm nhiểm văn hoá cuả quân xâm lược , và quên đi văn hoá truyền thống , hiện nay sau hơn ba mươi mấy năm , sau khi miền nam VNCH thất thủ , và miến nam hoàn toàn bị thôn tính bởi người Việt phương bắc , hiện thời lối ăn nói cuả người trẻ ở VN rất hổn hào trịch thượng ,Đó là do kết quả cuả một sự đồng hoá , điểm đầu tiên , đó là Vô Tổ Quốc , Vô Gia đình , và Vô Tôn Giáo , khi đả vô tổ quốc , thì ta đâu có còn tôn trọng thờ kính Tổ Tiên , Vì thế ta đâu còn biết ta xuất xứ từ đâu . khi đã không còn khái niệm Gia Đình , thì đâu cần phải Kính Trên Nhường Dưới . Nên con cái giết cha me , học sinh đánh thầy cô giáo , Tình trạng vô tổ chức hổn loạn xảy ra lan tràn trên khắp mọi lãnh vực . Rất tiếc , Lê Hàn Sinh lại không muốn gây ra tình trạng cải nhau trên diễn đàn , biết đâu nguyên nhân lại do một thứ nghi quyết 36 nào đó gây ra mầm phân hoá , vì người cộng sản họ chuyện môn gậy ra bất hoà để thao túng , và để cai trị nếu thích hợp . Nhiều sự hổn loạn đã diễn ra trên nhiều Diễn Đàn cuả người Việt Quốc Gia . Bởi thế nên khi lập lại vấn đề lai lịch Kinh Dịch , chúng ta nên ý thức , hiện thời , trong nước Việt Nam , cộng sản đả lập ra bao nhiêu diẽn đàn Web site , nói về đủ thứ chuyện linh tinh , cố để tạo ra hoả mù , để lèo lái người dân đi theo hướng họ vạch ra , để quên đi ý chí và con đường tranh đâu chống lại bạo quyền cộng sản .  
Trước khi nói đến Lảnh thổ hiện tại mà người Tàu đang chiém đóng , là lãnh thổ cuả Bách Việt ,Thì chúng ta neê xem bài viết nói về Một số đồng bào người Việt hiện sống trên lảnh thổ Trung Hoa cộng Sản .

                                        Việt học
 lê văn lân  
 Người Hoa gốc Việt

Ba Làng Việt Tộc Trong Nội Ðịa Biên Thùy Trung Quốc



Ba làng người "Trung Hoa gốc Việt tộc" đang sinh sống phát triển trong nội địa nước Tầu hiện nay không phải là một điều bí mật hay rất ít người biết nữa như trước đây. Trái lại, nó được chính thức kể như một trong số hơn 50 sắc dân thiểu số tại Trung Hoa,

chiếm cứ khoảng 6.6% toàn thể của dân số của quốc gia này là 1.3 tỉ nhân khẩu.

Riêng về Việt tộc - còn gọi chính thức là Kinh tộc (the Jings) - có con số nhân khẩu khiêm tốn gồm khoảng hơn 15,000 người, tụ cư sinh sống trong ba hòn đảo nhỏ là Vạn Vĩ (Wanwei), Ô Ðầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin) trong vùng tỉnh Quảng Tây. Hình ảnh cô gái Việt hay Kinh tộc xinh đẹp với cái nón lá hình chóp đã được tài liệu hay bích chương du lịch của Trung Hoa trưng lớn lên như mời mọc du khách quốc tế.

Tôi tự hỏi tại sao người Việt mình ngày nay sẵn sàng đi du lịch Trung Quốc một cách dễ dàng lại không tạo dịp đi thăm ba làng Việt tộc nói trên. Trước hết là tỏ một mối tình thâm trầm man mác đối với những người vốn là đồng bào đồng tộc với chúng ta nhưng vì hoàn cảnh lịch sử xa xưa lại không còn ở chung một địa bàn địa lý với chúng ta; sau là chúng ta có dịp sưu tầm lại những di sản quí báu về tinh thần mà những người Việt tộc này vẫn còn lưu giữ sau gần 500 năm xa lìa quê hương gốc như 30 điệu hát đúm vào ngày hội Tết đầu xuân và những tài liệu viết bằng chữ Nôm của họ.

Mục tiêu vấn đề du lịch thăm ba làng Việt tộc ở Trung Quốc là như thế nhưng muốn thực hiện chúng ta cần phải thu thập những yếu tố dữ kiện nào trên thực tế.

Sau đây là những điều cụ thể mà tôi đã tra cứu cẩn thận nên trình bày ra để chia xẻ cho những ai đồng chí hướng thích sự ngao du thích thú sưu tầm:

Tài liệu về lịch sử và sự phát triển, sinh hoạt của những người Kinh hay Việt tộc (mà tôi tạm dùng chữ Kinh Việt viết tắt là KV trong bài này) được mô tả rất đầy đủ trong những sách của Trung Hoa như Dân Tộc Tri Thức Thủ Sách (Dân tộc Xuất bản xã năm 1982) viết bằng Hoa ngữ -China's Minority  Nationalities (Foreign Language Press năm 1989) bằng Anh ngữ.
Qua hai tài liệu trên, chúng ta được đọc về Kinh Việt tộc như sau:

Nguồn gốc Kinh Việt tộc

Kinh tộc - ngày xưa xưng là Việt tộc - là một trong những dân thiểu số của Trung Hoo. Kinh Việt tộc chủ yếu nằm rải ra ở các địa khu của những dân tộc tự trị ở vùng duyên hải thuộc khu Phòng Thành của tỉnh Quảng Tây. Theo thống kê 1982, Kinh Việt tộc có 11,995 nhân khẩu. Hồi trước Kinh Việt tộc là một bộ phận của nòi Lạc Việt thời xa xưa, nhưng vào đầu thế kỷ thứ 16, họ đã từ vùng Ðồ Sơn của Việt Nam hiện giờ lục tục di cư đến địa điểm bây giờ, tụ cư trên ba hòn đảo nhỏ gọi là ba làng là Vạn vĩ, Vu đầu và Sơn Tâm thuộc huyện Giang Bình nên người ta quen gọi là "Kinh tộc tam đảo."

Tiếng nói và Văn tự của người Kinh Việt thế nào?
"Dân Kinh Việt tộc tam đảo vốn nói tiếng Kinh hay Việt và có một văn tự gốc gọi là "chữ Nôm, nhưng từ lâu họ cũng nói tiếng địa phương Quảng Châu và xử dụng Hán tự."

Tiếng nói Kinh Việt

"Nguồn gốc Kinh ngữ (hay Việt ngữ) theo Dân tộc Từ điển của Thượng hải (1987) có thể thuộc vào hai giả thuyết trên ngữ hệ: thứ nhất là thuộc Hán Tạng ngữ hệ, thứ hai là thuộc Nam Á ngữ hệ. Theo sự phân tách của sách này, Kinh (hay Việt) ngữ rất gần tiếng các dân tộc Choang (Tráng) và Ðồng được phân bố tại các huyện tự trị lân cận. Kinh Việt ngữ có 28 thanh mẫu, 106 vận âm. Nguyên âm KV chia thành nguyên âm dài và nguyên âm ngắn. Phụ âm vận ở cuối từ có 6 vận là: (-k), (-m),(-n),(-ng), (-p), (-t), ví dụ như cac(k), nam, man, mang, map, mat. Thanh điệu có năm bực là: trung bình, đê giáng, khúc triết, cao thăng, đê bình, tức là năm dấu giọng. Về ngữ pháp, dân KV không nói ngược như dân Hán như họ gọi Ông Thôn để chỉ chức trưởng thôn xã, Ông Kiểm để chỉ chức kiểm soát an ninh trật tự.

Chữ Nôm Kinh Việt

"Viết về chữ Nôm của ba làng KV này, tài liệu Anh ngữ ChinaỖs Minority Nationalities (CMN) nói thật rõ như sau: "Người Kinh có một thứ văn tự ghi chép riêng của họ gọi là chữ Nôm (chữ Hoa ghi là Tự Nam, chữ Anh phiên âm là Zinan). Ðược cấu tạo dựa trên căn bản của Hán tự vào cuối thế kỷ 13, chữ Nôm nay được lưu truyền trong những sách thi ca cũ và những bộ kinh tôn giáo." Chúng ta chưa thấy tự dạng và cấu trúc của nó ra sao, nhưng chắc chắn nó phải là chữ Nôm của Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê chắc chắn nó phải cổ và chính thống hơn chữ Nôm của ta từ nhà Nguyễn về saụ Nếu ta sưu tầm được chữ Nôm Kinh Việt này, chúng ta có thể hiểu nhiều tiếng Việt thời cổ hơn.

Diễn biến quá trình định cư của dân Kinh Việt

"Tổ tiên người Kinh di cư từ Việt Nam sang Trung Quốc vào khoảng đầu thế kỷ 16. Thuở ban đầu thì họ định cư trên ba hòn đảo không người ở vì các vùng lân cận đã có người Hán và người Choang (Trang tộc) chiếm cứ sinh sống rồị Tuy sống chen vai thích cánh với người Hán và người Choang, người Kinh đã tạo dựng nên một khu lãnh giới riêng cho mình nhưng qua nhiều thế kỷ, họ đã hàn chặt nhiều mối liên lạc mật thiết với dân tộc láng giềng. Theo tài liệu bằng chữ Nôm mà người Kinh còn lưu giữ trong một ngôi đình của họ, tổ tiên của Việt tộc tam đảo đã từ bãi Ðồ Sơn (tỉnh Hải Phòng Việt Nam) đến vùng đất này vào năm Hồng Thuận. Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Hồng Thuận vào cuối đời Hậu Lê tức là đời vua Lê Tương Dực (1510 - 1516), như vậy dân Kinh hay Việt tộc đã sinh sống lập nghiệp trên đất Trung Hoa gần như tròm trèm 500 năm.

Hiện nay, chúng ta chưa rõ tại sao dân Kinh Việt lại di cư qua Trung hoa? Vì vùng đất của họ nằm gần như sát biên thùy Việt Hoa tức là huyện Móng Cáy tỉnh Quảng Ninh của Việt Nam ngó qua Ðông Hưng của Trung Hoa, nên chúng ta có thể phóng đoán rằng ngày xưa giữa Trung Hoa và Việt Nam không có con đường phân định rõ ràng về biên giới có tọa độ rõ ràng. Do đó, đám người Kinh Việt cứ thấy vùng nào không có ai ở thì tới cắm dùi lập nghiệp sinh sống, chẳng chính quyền nào kiểm soát. Lằn biên giới Hoa Việt mới chính thức vạch ra sau Hiệp ước Fournier-Lý Hồng Chương, chạy dọc theo kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây, vùng nào về phía tây của kinh tuyến thuộc về Việt nam (thời ấy do Pháp đô hộ), còn vùng nào ở phía đông kinh tuyến thì thuộc về lãnh thổ Trung Hoa. Do đó, vùng đất mà dân Kinh Việt chiếm cứ định cư trong bao nhiêu thế kỷ bỗng nằm lọt vào lãnh thổ Trung Quốc. Rồi trải bao nhiêu thời gian, dân Kinh Việt cứ yên thắm sống trong vùng mà nhà nước Trung Hoa gọi là "Tự trị khu" chung với những sắc dân thiểu số như Choang, Dao trong tỉnh Quảng Tây. Cho đến cuối 1952 - sau năm 1949 khi chính quyền Trung Cộng chiếm toàn lục địa Trung Hoa thì mới bắt đầu thành lập ba thôn làng là Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn Tâm để rồi 1958 thì ba làng Kinh Việt này hợp cùng các làng khác của dân Choang và Dao để làm thành huyện tự trị Ðông Hưng. Vào cuối năm 1979 thì các huyện tự trị này họp thành trấn Phòng Thành tự trị cho đến nay.

               

              Phong tục tập quán của dân Kinh Việt

"Ta thử xem 500 năm qua xa xứ người Kinh Việt còn giữ dấu tích gì của quê hương mẹ không?

Họ mặc áo quần ra sao?

"Y phục của người Kinh rất đơn giản và thực tế. Phụ nữ ăn mặc theo cổ truyền với những chiếc áo ngắn, không cổ, chẽn bó vào thân mình, cài nút phía trước, trên đầu đội quấn một cái khăn rằn, dưới mặc những tấm quần rộng nhuộm đen hay nâu. Khi ra ngoài, phụ nữ thường mặc thêm áo dài tay chật nhuộm màu sắc nhạt hơn. Họ đeo bông tai. Tóc phụ nữ phần lớn rẽ ngôi ở giữa và tóc xỏa hai bên, phía sau lại dùng vải đen hay khăn đen buộc lại. Dân quê còn đi chân đất. Còn đàn ông thì thường mặc áo cộc để làm việc, cổ quấn khăn, nhưng khi có hội hè thì họ mặc những áo dài chùng tới gối, hai vạt trước sau đối nhau và có giải quấn ở eo lưng.

Bây giờ người Kinh ăn mặc giống như người Hán láng giềng, mặc dù còn một số ít bà cụ già còn giữ lối ăn mặc theo cổ tục và một thiểu số phụ nữ trẻ còn búi tó và nhuộm răng đen vì vẫn còn tục ăn trầu, còn đàn ông thì đương nhiên ăn mặc thực tế theo hiện đại như những dân lân cận khác.

Một điểm về mầu sắc là phụ nữ Kinh Việt khoái mầu vàng và mầu nâu non, vì hàng năm vào ngày quốc khánh của Trung Quốc thì có đội nữ dân quân Giang Bình "chít khăn vàng, mặc áo nâu non, quần đen, vai đeo súng, lưng thắt băng đạn đi diễu binh trước khán đài" (Làng Việt biên thùy- báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 20 tháng Tám năm 1995).

Họ ăn uống thế nào?

"Về ẩm thực, dân Kinh Việt ăn cơm là chính, ngoài ra còn ăn khoai sắn, khoai sọ, thích ăn cá tôm cua. Ngày Tết, họ thích ăn xôi chè (hỉ hoan cật nhu mễ phạn hòa nhu mễ đường chúc). Họ làm nước mắm cá để chấm và nêm thức ăn.

Một điểm lý thú là dân Kinh Việt thích ăn hai món sau, ăn hoài không ngán: Ðó là "bánh đa" bằng bột gạo có rắc mè nướng trên than hồng mà sách Tầu gọi là Phong xuy hỉ - bánh phồng do gió thổi! - và "bún riêu, bún ốc" mà sách Hán tự ghi là Hỉ ty tức là sợi bún nấu với canh cua và ốc.

Phong tục, tín ngưỡng và văn hóa Kinh Việt ra sao?
"Nhà cửa của dân Kinh Việt thì thấp, làm bằng gỗ hay tre đan thành phên.

Phong tục hôn nhân thì một vợ, một chồng, thuở trước thì thường do cha mẹ hai bên xếp đặt bao biện. Trai gái cùng họ và anh em cô cậu cấm lấy nhau.

Về tang ma thì chôn dưới đất.

Trừ một thiểu số theo đạo Thiên chúa, phần lớn dân Kinh Việt theo Phật giáo, cúng vái đủ thứ thần thánh và sùng bái tổ tiên.

Sinh hoạt văn hóa và văn nghệ Kinh tộc ra sao?
Dân tộc Kinh rất ưa thích lối hát đối đáp giao tình (antiphonal songs) nghe du dương và trữ tình, kiểu như hát Quan họ hay hát đúm quen thuộc ngoài Bắc ta bây giờ. (Tài liệu Anh ngữ CMN của Trung hoa về Kinh tộc đã dùng chữ rất đúng để dịch chữ hát đối hay hát đúm vì "Antiphon" là lối hát chia thành nhiều phần đối đáp và xen kẽ luân phiên - Antiphon is a hymn, psalm etc... chanted or sung in responsive and alternating parts - Webster's New World Dictionary). Lối hát đúm hát đối này thường được dân Kinh long trọng diễn vào ngày Tết của họ mà họ gọi là "Hát Tết." Hát đúm, hát đối là do những cô gái gọi là "Hát muội" (Muội là em gái).

Tài liệu Hoa ngữ DTTT về Kinh tộc trang 91 đã đặc biệt khen rằng: "Người Kinh trên phương diện sinh hoạt phấn đấu trường kỳ đã sáng tạo một nền văn hóa rực rỡ muôn màu, nội dung của nền văn học truyền khẩu thật phong phú, ca khúc và khúc điệu đạt đến 30 loại. Ðàn bầu là một nhạc khí chỉ riêng Kinh tộc có mà thôi. Phê bình về âm nhạc và dân ca của Kinh tộc, sách Hoa ngữ nói rằng: "Lời ca thuần phác, khúc điệu bình dị ít biến hóa."

"Về phương diện nghệ thuật, tài liệu Anh ngữ CMN nói thêm thật rõ về Kinh tộc như sau: "Nhạc cụ cổ truyền của người Kinh gồm có đàn nhị (two-stringed fiddle), sáo trúc, trống, cồng và cây độc huyền cầm (single-stringed fiddle) là cây đàn đặc thù của họ. Những truyện dân gian và cổ tích của họ rất nhiều. Những điệu múa ưa chuộng củ a người Kinh là múa đèn, múa gậy sặc sỡ nhiều màu, múa rồng và múa y phục thêu thùa.

Theo sách Dân Tự Trị Thủ Sách của Trung hoa, câu chuyện cổ tích mà dân Kinh hay kể là Truyện chàng Thạch sanh (mà cái tên Lý Thông phản phúc trong truyện được gọi và cải lại là Nguyễn Thông).
Ðàn kêu tích tịch tình tang,
Ai đem công chúa trên hang mà về!
Cái đàn "tích tịch tình tang" gẩy bằng que tre chính là cây đàn bầu nói trên.

Kinh tế của ba làng Kinh Việt

Dân Kinh Việt sống trong một vùng bán nhiệt đới, có mưa nhiều và lắm tài nguyên khoáng sa. Vịnh Bắc Bộ ở phía nam là một nơi lý tưởng cho ngư nghiệp. Trong 700 loại cá đánh ở đây thì hơn 200 loại có giá trị kinh tế cao và thu hoạch nhiều. Ngọc trai, cá ngựa và sea otters sinh sản lắm ở đây và thường quí về phương diện dược liệu. Nước biển của vịnh Bắc Bộ tốt cho sự làm muối. Mùa màng chính ở đây là gạo, khoai lang, đậu phọng, khoai sọ, và kê. Những loại trái cây bán nhiệt đới như đu đủ, chuối, nhãn thì rất nhiều. Những khoáng sản dưới đất gồm sắt, monazite, titanium, magnetite và silica. Những giải rộng của rừng tràm mọc trên vùng nước lợ là một nguồn lợi phong phú về chất tannin dùng làm nguyên liệu tất yếu cho kỹ nghệ thuộc da.

Dân Kinh Việt sinh nhai chính bằng ngư nghiệp, còn nông nghiệp là thứ yếu, ví dụ ở làng Sơn Tâm thì 70% lợi tức của làng do ngư nghiệp, 27% do nông nghiệp còn lại 3% do các hoạt động khác. Trước đây, ngư nghiệp không phát đạt vì trang bị của ngư dân còn nghèo, phươngpháp còn vụng về chậm tiến và nhất là không thể đánh cá ở biển sâu. Nông nghiệp cũng kém, mỗi mẫu tây chỉ thâu hoạch 750 kg thóc, chỉ đủ dự trữ ăn trong ba, bốn tháng. Do đó, dân Kinh Việt phải sống chật vật, đổi cá lấy gạo và các thứ nhật dụng hoặc làm thêm thủ công nghệ như đan đát tre hay nghề mộc.

Hiện nay, tình trạng thay đổi nhiều trên ba làng dân Kinh Việt. Dự án ý nghĩa nhất để chuyên trị những cù lao đất bồi nghèo nàn là xây đắp 11 con đê để lấn đất ra biển và nối các hòn cù lao với đất liền. Một diện tích khoảng 400 mẫu đất được tạo dựng tương đương với bốn lần diện tích đất canh tác cụ China's Minority Nationalities đã khoe. Về ngư nghiệp, những ghe thuyền gắn động cơ và nhiều dụng cụ đánh cá mới trang bị làm tăng gia sự có thể đánh cá ở biển sâu. Ngành nuôi ngọc trai đã thành một kỹ nghệ phát triển từ năm 1958 khi những trại nuôi trai sản xuất ngọc được thiết lập vào những vũng biển nước sâu lý tưởng cho loài trai tăng trưởng. Cũng từ năm 1958, cây cối được trồng trên một diện tích 433 mẫu đã tạo thành một bờ đai hàng rào chắn gió và cát di chuyển. Qua nhiều năm, trái cây như chuối, đu đủ, dừa, nhãn di thực từ vùng khác đã mọc sum xuê trên các vùng hải đảo.

Làm sao thực hiện một chuyến du lịch vào vùng



Kinh Việt Tam đảo?

Trước đây, Trung Quốc đã có chánh sách đóng kín bức màn tre nên chuyện du lịch Trung Hoa là một vấn đề khó khăn thiên nan vạn nan với bao thủ tục và gần như mạo hiểm như chúng ta có thể phối kiểm những bài viết du khảo về Trung Quốc của nguyệt san tạp chí National Geographic. Nhưng cho đến cuối tháng Giêng năm 1986, thì 244 đô thị của Trung Quốc được mở ra để du khách ngoại quốc có thể thăm với thông hành có chiếu khán và giấy phép hợp lệ. Kể từ đó, cơ quan Dịch Vụ Du Lịch Quốc Tế của Trung hoa - China International Travel Service - cùng nhiều công ty khác đã phối hợp chặt chẽ với công ty China Focus Inc. hay Ritz Tours... tổ chức thường xuyên nhiều chuyến tuần du Trung Quốc với giá cả tương đối rẻ bao gồm bao nhiêu thứ nào là vé phi cơ, vé xe lửa, vé xe buýt, vé thăm thắng cảnh, vé coi show cùng với những bữa ăn. Ðiều này chứng tỏ chính quyền Trung Quốc rất hoan nghênh sự thăm viếng của du khách để thâu ngoại tệ. Riêng về du lịch vùng Tam Ðảo ở tỉnh Quảng Tây thì tôi chưa thấy phổ biến rộng rãi mặc dù trên nhiều tài liệu và bích chương du lịch của Trung Hoa thường in hình cô gái Kinh Việt đội nón lá rất tươi với dáng vẻ mời mọc. Tôi nghĩ họ đang cần quảng cáo cho nhiều đô thị hay thắng cảnh nổi danh trước đã, để thu vào nhiều lợi từ khách quốc tế mà họ gọi là nguồn lợi big spenders. Tuy nhiên, theo sự dọ hỏi của tôi với vài hướng dẫn viên du lịch địa phương ở Trung Hoa thì công ty của họ sẵn lòng phối hợp với China Focus tổ chức những chuyến du lịch nhỏ kiếm ăn kiểu cò con phụ thêm (extension trip) vào những tours chính mà chỉ cần trả phụ trội một phí tổn tương ứng. Ví dụ chúng tôi vừa đi một chuyến 15 ngày du lịch trả khoảng 1,550 mỹ kim để đi một vòng qua các nơi như Bắc Kinh, Tây An, Quế Lâm, Nam Kinh, Hàng, Tô Châu, Thượng Hải, nhưng lại muốn đi thăm hai ngày ở Hàng Châu (gần Thượng Hải) nên chỉ trả thêm mỗi người 350 mỹ kim thôi. Tính ra mỗi ngày chỉ trả 150 mỹ kim. Vùng Kinh Việt Tam Ðảo thuộc tỉnh Quảng Tây nên tôi nghĩ có thể dàn xếp với công ty du lịch cho chúng ta thăm phụ thêm khi cái tour chính của chúng ta đi qua gần đấy như thăm Quế Lâm, Quảng Châu hay Hồng Kông miễn là chúng ta có ít nhất là 10 người cùng đi.

Nếu chúng ta cố tình muốn thăm ba làng Việt tộc, thì vấn đề không khó mà có thể tổ chức một thuận lợi nếu có nhiều người cùng thích đi.

Lê Văn Lân
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> TÌM HIỂU VĂN HỌC Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân