TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Linh Hồn Không Có
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Linh Hồn Không Có

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Huyền Bí Vấn Đáp
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:19 pm    Tiêu đề:

CHÚNG TA SẼ LÀM GÌ, KHI BIẾT LINH HỒN KHÔNG CÓ?

Khi biết linh hồn không có thì những tục lệ thờ cúng từ xưa đến nay sẽ phải làm như thế nào để đúng với phong tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ v.v… mà không trở thành mê tín, dị đoan, lạc hậu.

Đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà là một đạo đức của dân tộc Việt Nam. Một  đạo đức ân nghĩa sâu dày luôn tỏ lòng biết ơn “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn.”
Thế mà từ lâu chỉ vì ông bà chúng ta từ xa xưa đã lầm lạc tưởng là có sự sống sau khi chết. Cho nên mới có sự cúng tế cầu an, cầu siêu, mới có làm tuần, làm tự, mới có mở cửa mả, đốt tiền vàng mã, kho đụn, quần áo bằng giấy cho người chết. Và vì thế, ngày tư ngày tết mới có đưa ông táo, rước ông bà v.v… Cho nên đạo thờ cúng tổ tiên, ông bà để tỏ lòng biết ơn đã biến trở thành đạo thờ cúng mê tín, dị đoan.  

Khi thờ cúng mê tín dị đoan như vậy trong tinh thần của mọi người đều dựng lên một thế giới có linh hồn người chết. Vì thế, đến ngày giỗ, ngày Tết, ngày lễ thì làm mâm cao, cỗ đầy để cúng tế những linh hồn người chết mà họ tin tưởng rằng những linh hồn người chết này sẽ về thọ hưởng những thực phẩm của chúng ta dâng cúng.

Nếu quả chăng có Linh Hồn người chết mà một năm chỉ có cúng một, hai ngày thì những ngày khác Linh Hồn sẽ chết đói mất. Quý vị cứ suy ngẫm có đúng không? Đó là một việc làm mà người xưa thiếu cân nhắc suy tư. Chỉ biết tin theo “xưa bày nay làm” không cần phải đắn đo suy nghĩ thiệt hơn, đúng hay sai.

Nên người xưa mù quáng đã trở thành những người mê tín, lạc hậu rồi truyền thừa những điều mê tín này cho con cháu nhiều thế hệ mai sau. Đến ngày nay là một thời đại văn minh khoa học, thế mà tục lệ mê tín này vẫn còn tồn tại không bỏ được.

Con người thời đại này mà thiếu sáng suốt, sống trong điên đảo tưởng, điên đảo tình cảm, mê tín, lạc hậu v.v… thì sao được gọi là con người văn minh khoa học hiện đại hóa. Người xưa đâu phải là thần thánh cái gì cũng biết, cái gì cũng làm đúng. Cho nên đâu phải những gì của người xưa làm là đều đúng hết sao?

Không có Linh Hồn mà bảo có Linh Hồn nên mới bày ra cúng kiếng. Nếu linh hồn thật sự ăn uống thì những linh hồn ông bà cha mẹ của chúng ta đã chết đói từ lâu, vì mỗi năm con cháu chỉ cúng bái tế lễ có một hoặc hai lần trong năm thì còn những ngày khác linh hồn lấy cái gì mà ăn. Quý phật tử cứ suy ngẫm có đúng không?

Mà nếu linh hồn có ăn thật thì liệu chúng ta có làm nuôi những linh hồn này nổi không. Khi họ ăn không ngồi rồi mà còn rủ rê các linh hồn khác nữa. Bởi có những phong tục tập quán lạc hậu và mê tín mà mọi người không chịu bỏ nên đành phải tốn hao một số tiền rất lớn về việc ma chay, tuần tự, cầu siêu, cầu an, đốt giấy tiền vàng mã một cách nhảm nhí, vô ích.

Như quý vị đều biết con người cũng là một loài động vật như bao nhiêu loài động vật khác, nhưng con người là một loài động vật cao cấp nên sự hiểu biết phát triển của con người lần lần tách ra khỏi loài động vật. Nhờ tách ra khỏi loài động vật nên con người không còn sống đời sống hoang dã như các loài động vật khác.

Sự tiến hóa từ cơ thể đến tinh thần của con người hôm nay chúng ta thấy rõ rệt. Con người có nhiều tiến bộ về mọi mặt. Chúng ta cứ thử đem so sánh người xưa với người nay từ cách thức ăn uống, cho đến cách thức ăn mặc và cuối cùng là ngôn ngữ. Loài người đã sử dụng một cách tiến bộ mà không có một loài thú vật nào trên hành tinh này sánh kịp.

Từ chỗ mê mờ chúng ta hiểu sai lầm con người có Linh Hồn, bây giờ chúng ta lại hiểu biết Linh Hồn không có. Cho nên cách thức lễ bái cúng kiếng là để tượng trưng lòng biết ơn sâu xa của chúng ta đối với những người đã khuất chứ không phải cúng cho linh hồn những thực phẩm về ăn uống. Sự cúng bái là để tỏ lòng biết ân; là để kỷ niệm nhớ lại ngày mất mát to lớn trong kiếp làm người của chúng ta.

Cho nên chúng ta chọn lấy ngày mất mát đó làm một ngày kỷ niệm để con cháu đoàn tụ và cũng để nhắc nhở cho con cháu nhớ đến công ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã dày công để lại cho con cháu một sự sống có ý nghĩa.

Đứng trước những phong tục tập quán mê tín, dị đoan, lạc hậu chúng ta phải mạnh mẽ gạt bỏ đừng sợ những dư luận theo lối mòn của người xưa lên án như thế này, như thế khác. Đó là những người quá thủ cựu nhằm để bảo vệ những phong tục văn hóa hủ lậu, mê tín, lạc hậu.

Mục đích của chúng ta là gạt bỏ những phong tục mù quáng, mê tín, lạc hậu là vì những văn hóa mê tín, lạc hậu đó thường làm hao tiền, tốn công, tốn của mọi người mà chẳng có ích lợi gì thiết thực.

Chúng ta gạt bỏ những phong tục văn hóa mê tín, lạc hậu nhằm để xây lại một nền văn hóa có ý nghĩa đạo đức làm người. Vì làm người luôn luôn phải giữ gìn ơn nghĩa trọn vẹn của nền đạo đức dân tộc Việt Nam “ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”, mà không bị ảnh hưởng mê tín, lạc hậu v.v… của nước khác.

Trong cơ thể con người có năm uẩn, nhưng mỗi uẩn phải làm việc theo nhiệm vụ của nó. Nếu một con người bình thường thì có ba uẩn làm việc gồm như sau:
1- Sắc uẩn.
2- Hành uẩn
3- Thọ uẩn.

Ba uẩn này hoạt động thì con người không có gì mầu nhiệm, nhưng khi có Tưởng Uẩn hoạt động với ba uẩn kia thì con người có nhiều điều mầu nhiệm mà trí thức con người không thể giải thích được, dù khoa học hiện đại cũng không làm sáng tỏ. Khi người ta không giải thích được những hiện tượng kỳ lạ của thân tâm con người thì người ta thường gọi là thiêng liêng hay là tâm linh.

Khi Tưởng Uẩn hoạt động nơi hai bàn tay thì chúng ta gọi là Sự Mầu Nhiệm Của Những Bàn Tay. Thường Tưởng Uẩn hoạt động theo sáu căn của con người, có khi đồng thời nó hoạt động cả hai căn, có khi nó chỉ có một căn, khi nó hoạt động vào đôi bàn tay thì nó sờ vào thân chỗ nào có bệnh là bệnh giảm bớt và lành hẳn. Chúng ta hãy đọc những câu chuyện sau đây thì sẽ rõ.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:19 pm    Tiêu đề:

SỰ MẦU NHIỆM CỦA NHỮNG BÀN TAY

Mùa thu năm 1989 tại Athen, thủ đô Hy Lạp, đã tiến hành Hội nghị Quốc tế về những phương pháp trị bệnh ngoài tiêu chuẩn. Tại hội nghị này người ta trao đổi và tặng cho cô Djouna Davitasivili huy chương vàng của Viện Hàn Lâm Ngoại giao Liên hợp quốc, và huy chương “Tiến sỹ y học”.

Vậy cô Djouna là ai và có gì đặc biệt để xứng đáng được hưởng những phần thưởng cao quý này? Cô Djouna sinh ra và lớn lên ở Cuban (Liên Xô cũ), hồi nhỏ cô đã cảm thấy có khả năng kỳ lạ mà người khác không có. Cô có khả năng trị các bệnh (cho bạn bè và người thân) như cục bướu, mụn cơm, hay cầm máu cho những vết thương nhẹ. Ở thôn quê, nơi cô sinh sống, những bệnh lặt vặt đều được chữa trị bằng đôi tay của Djouna. Dù thời đó, người ta sẵn sàng kết luận là ma quỷ đồng bóng, nhưng mọi người không cho cô bé Djouna là phù thủy, vì trên thực tế cô chữa hết bệnh bằng tay không.

Và với đôi bàn tay nhiệm mầu này, Djouna đã cứu cha mình khỏi tử thần vì ông lên cơn động kinh lớn do chấn thương sọ não. Cô chỉ vuốt lên đầu người cha khi ông ngất đi, và ông đã khỏi.

Lớn lên Djouna vào đại học y khoa. Cái kiến thức y học giúp cô chữa trị tốt hơn. Với đôi tay mầu nhiệm, Djouna có thể chuẩn đoán bệnh mà không cần thiết bị dụng cụ y tế. Djouna đã đạt đến điểm cốt yếu: “Tất cả những gì đang sống đều phải có một môi trường sinh vật học.”  Song nó tượng trưng cho cái gì? Điều đó còn huyền bí.

Khi người ta không hiểu tại sao đôi bàn tay trị bệnh mầu nhiệm của Djouna như thế nào nên dùng những danh từ mù mờ để che lấp những gì khoa học và tri thức của con người chưa biết “Tất cả những gì đang sống đều phải có một môi trường sinh vật học.” Những danh từ môi trường sinh vật học người ta không thể hình dung được sự sống trong vũ trụ, nhưng khi nói đến sự sống trong vũ trụ do một vòng tròn 12 nhân duyên, hễ duyên này có thì duyên kia có và khi hợp đủ 12 duyên thì thế giới đau khổ hiện bày. Nếu 12 duyên này bắt đầu diệt một duyên thì các duyên kia đồng thời diệt theo và như vậy thế giới khổ đau sẽ bị diệt. Cho nên nói môi trường sinh vật học là những danh từ khoa học. Vậy đôi tay của Djouna là môi trường sinh học gì?

Khi người ta không trả lời được thì bảo rằng đó là Tâm Linh. Vậy tâm linh là cái gì? Có phải chăng Tâm Linh là những gì mà con người không thể giải thích được phải không?
Đúng vậy khi những gì không giải thích được thì chỉ còn biết dùng những từ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt, sự không hiểu biết của mình.

Con người rất kỳ lạ, cái gì không hiểu, không giải thích được thì phủ nhận hoặc cho đó là Tâm Linh chứ không chịu khó tìm hiểu những điều Kỳ Lạ đó là do cái gì làm ra.

Theo chúng tôi nghĩ trên đời này không có cái gì Kỳ Lạ và cũng không có cái gì Mầu Nhiệm. Những kỳ lạ và mầu nhiệm là vì chúng ta chưa hiểu biết mà thôi. Có rất nhiều chuyện về đôi tay, vậy chúng ta hãy đọc tiếp “Sự Mầu Nhiệm Của Đôi Bàn Tay.” Vài nhà bác học và hầu hết những người không tin những điều kỳ lạ này đều phủ nhận. Nhưng đối với Djouna tuy không giải thích được nhưng nó vẫn nó tồn tại.

Đối với mọi người dù tin hay không tin nhưng đôi bàn tay trị bệnh của Djouna trị bệnh thì nó vẫn trị được bệnh. Với bàn tay mình, Djouna điều trị được một số bệnh với chứng thực khoa học. Cô đã giúp các bác sĩ xác định đúng căn bệnh, phương pháp trị liệu tốt hơn.

Năm 1988, tại Matxcơva đã xuất hiện cuốn sách “Tôi nghe bàn tay mình” của Djouna (Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Hà Nội dịch và xuất bản năm 1995). Cuốn sách này nói về khả năng Thiên Phú Tuyệt Vời và nỗi đau của chị khi chưa được công nhận, vì có nhiều người hiểu sai rồi bài xích. Viện giám định Quốc gia Liên Xô năm 1989 đã quan tâm đến những kết luận của Bộ Y tế, chính thức công nhận phương pháp chữa bệnh bằng đôi bàn tay của Djouna. Thế nhưng Djouna vẫn chỉ là người duy nhất có hai bàn tay mầu nhiệm qua ngần ấy năm. Cô vẫn chưa hiểu nguyên nhân vì đâu mà có và chưa thể huấn luyện lại cho người khác hay cho cộng đồng biết chữa bệnh. Không hề có thế hệ thứ hai của Djouna biết chữa bệnh.

Đúng vậy chính Djouna tự không biết đôi tay của mình làm sao mà có khả năng trị bệnh như vậy. Hầu hết mọi người trên thế gian này cũng không hiểu biết huống là Djouna. Những điều khó hiểu này chỉ có những người am tường Phật giáo tu hành chứng đạo thì biết rất rõ sự mầu nhiệm này từ đâu lưu xuất ra. Sự mầu nhiệm này thật sự thì không mầu nhiệm chút nào cả, nếu chúng ta biết rằng Tưởng Uẩn trong thân chúng ta làm ra những sự mầu nhiệm này thì không còn gì là mầu nhiệm được nữa.

Theo Phật giáo, trong thân người có Năm Uẩn, Sắc Uẩn hoạt động thì con người sống bình thường không có cái gì là mầu nhiệm cả, chỉ khi nào Tưởng Uẩn hoạt động thì tri thức con người không giải thích được nên gọi nó là Mầu Nhiệm. Nếu Tưởng Uẩn hoạt động nơi căn nào thì căn đó mầu nhiệm. Như Djouna thì Tưởng Uẩn hoạt động nơi đôi tay nên đôi tay của Djouna trị hết bệnh cho mọi người.

Ở Việt nam có một thời xuất hiện một ông thầy trị bệnh bằng nước lã, ông ta chỉ dùng tay mình rờ vào chai hoặc ly nước rồi cho người bệnh uống là bệnh hết, rồi lại có xuất hiện một ông thầy lá cây, cứ ông ta rờ lá cây bất cứ lá cây nào, khi được tay ông ta rờ vào rồi đem về nấu uống là hết bệnh.

Tất cả những hiện tượng này xảy ra đều do Tưởng Uẩn hoạt đông. Khi người ta không hiểu thì cho rằng: “Bao sự kỳ lạ quanh ta mà khoa học hiện đại chưa có lời giải trình thỏa đáng.”Trái tim Thích Quảng Đức, nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường để lại đang thờ tại chùa Đậu đâu có gì là lạ mà chỉ là sự không hiểu biết của mọi người mà thấy kỳ lạ.

Khi trái tim của Hòa Thượng Thích Quảng Đức đốt không cháy là do Tưởng Uẩn của Hòa Thượng Thích Quảng Đức xen vào hoạt động trong khi ý chí dũng cảm ngút ngàn của Hòa Thượng quyết liệt chống lại chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo của gia đình trị Ngô Đình Diệm.

Còn nhục thân của Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường được duy trì đến ngày nay còn để lại như hai bộ xương khô cũng là do Tưởng Uẩn của hai Ngài, khi còn sống hai Ngài tu tập thân tâm đều rơi vào Không Tưởng Định nên Tưởng Uẩn của hai Ngài hoạt động tác dụng vào thân nên khi chết nhục thân hai Ngài không bị hoại diệt, sình trương hôi thối như các thân người khác. Cho nên khi biết Tưởng Uẩn thì cuộc sống quanh chúng ta đâu còn cho là Bí Ẩn Kỳ Lạ đâu còn cho là Tâm Linh.

Có một nhóm người không hiểu biết Tưởng Uẩn nên khi nghe nói đôi tay trị bệnh của Djouna thì tuyên bố ở Việt Nam sẽ có những người biết dạy cho nhau cách tạo ra và sử dụng năng lượng sinh học (mà gọi là “nhân điện”, “ngoại cảm”, “trường sinh học”…) để chữa bệnh bằng đôi tay mầu nhiệm, nhất là từ năm 1991 tới nay. “Phương pháp chữa bệnh bằng năng lượng sinh học (nhân điện) đã được các nước trên thế giới công nhận như Liên Xô, Mỹ, Venezuela… Tính đến nay, ở nước ta có hàng ngàn đôi bàn tay mầu nhiệm như vậy. Gia đình Nhân điện Việt Nam ra đời theo quy luật khách quan và nhu cầu bức thiết của cuộc sống đời thường. Bước đầu những người có “đôi bàn tay mầu nhiệm” làm từ thiện, chữa bệnh cho những ai tự nguyện, kể cả các trường hợp đã cùng đường, sau khi qua nhiều bệnh viện, nhiều thầy thuốc.

Theo những tư liệu mà một số cơ sở nhân điện ở Việt Nam còn lưu giữ được (hồ sơ bệnh án, ảnh chụp, băng video, thư cảm ơn, giấy xác nhận…) thì họ đã tự chữa hoặc chữa cho người khác khỏi hoặc đỡ hẳn một số chứng bệnh như: hội chứng đau (đầu, cổ, lưng, tứ chi, bụng, ngực…) mất ngủ kéo dài, suy nhược, cao huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, động kinh, suy tim, viêm tấy phần mềm…

Vậy đấy, những điều bình thường đang xảy ra trong cuộc sống quanh ta, trong đó có những bàn tay mầu nhiệm chữa bệnh bằng nhân điện - Năng lượng sinh học.”
GS.TS. NGUYỄN ĐÌNH PHƯ
(Trong tập “Nhân điện – những phát hiện và ứng dụng” NXB VHTT 1996)

Chúng ta đã nghe GS. TS. Nguyễn Đình Phư quảng cáo Nhân Điện như bài viết trên đây. Vậy nhân diện là gì? Người ta cứ nghĩ rằng trong mỗi thân con người có những dòng điện vô hình nhưng luyện tập có kết quả thì dùng nó sẽ trị được nhiều thứ bệnh. Khi luyện tập họ dùng cái gì để luyện tập, vì là nhân điện vô hình thì không thể dùng ý thức được, cho nên họ dùng TƯỞNG UẨN để tập luyện khi thành công trị bệnh được có phải là do TƯỞNG UẨN không?

Cô Djouna không dùng TƯỞNG UẨN luyện nhân điện mà tự đôi tay cô có công năng trị hết tất cả các thứ bệnh thì như vậy đâu phải là nhân điện. Khi quý vị luyện tập nhân điện thì quý vị cho cái gì trị bệnh đều là nhân điện hết sao. Trước khi có nhân điện quý vị đã dùng TƯỞNG UẨN để luyện tập như thế nào quý vị biết không? Nếu quý vị quả quyết có nhân điện trị bệnh mà bệnh nào cũng hết thì từ khi có nhân diện đến bây giờ thì bệnh viện sẽ đóng cửa vì còn ai đến bệnh viện trị bệnh. Quý vị đừng quảng cáo ca ngợi nhân điện nhiều quá mà thành quý vị nói không thật. Hiện giờ quý vị cứ đến bệnh viện mà xem. Bệnh viện không còn giường cho bệnh nhân nằm.

Nhân điện do luyện tập bằng TƯỞNG UẨN mới có nhân điện. Cho nên khi trị bệnh không phải bệnh nào cũng hết. Bệnh nhân nào hết bệnh là bệnh nhân ấy phải hợp với TƯỞNG UẨN của người trị bệnh tức là TƯỞNG UẨN người trị bệnh và người bệnh phải tương ưng còn nếu không tương ưng thì không bao giờ hết bệnh.

Đôi tay của Djouna tuy trị hết bệnh nhưng bệnh nhân nào có TƯỞNG UẨN tương ưng với TƯỞNG UẨN đôi tay của Djouna thì mới hết bệnh. Nên khi TƯỞNG UẨN không hoạt động thì đôi tay không còn mầu nhiệm trị bệnh được nữa. Hầu hết những người trị bệnh bằng TƯỞNG UẨN thì chỉ có thời gian rồi sau đó không còn trị được ai cả.

Do biết TƯỞNG UẨN nên chúng ta không thấy có TÂM LINH, có sự MẦU NHIỆM mà đó chỉ là một sự hoạt động tự nhiên NĂM UẨN của con người. Nhưng tại sao người có TƯỞNG UẨN hoạt động mà cũng có người TƯỞNG UẨN không hoạt động.

Thường con người ai cũng có TƯỞNG UẨN, nhưng TƯỞNG UẨN vẫn nằm im lìm không hoạt động, chỉ khi nào có một cú “sốc” chết đi sống lại thì TƯỞNG UẨN mới hoạt động như nhà ngoại cảm Bích Hằng bị chó điên cắn. Theo chúng tôi hiểu biết hiện giờ có một số người có khả năng TƯỞNG UẨN hoạt động. Để chứng minh được những điều này chúng ta nên nghiên cứu lại những chuyện đã xảy ra được báo chí và được viết ra thành sách. Chúng ta hiện giờ chỉ chịu khó nghiêm cứu thì sẽ biết rõ những điều kỳ lạ và mầu nhiệm.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:20 pm    Tiêu đề:

SỰ BÍ ẨN KỲ LẠ CỦA MỘT TRÁI TIM

Ngọn lửa tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức phản đối Mỹ – Diệm đã gần 40 năm đã đi vào lịch sử đấu tranh của giới Phật giáo Việt Nam chống xâm lược. Thân xác Ngài sau 40 giờ hỏa táng, xương thịt của Ngài đã trở về tro bụi – nhưng kỳ lạ thay: trái tim của Ngài vẫn còn nguyên vẹn!

Khi miền Nam giải phóng – năm 1975, trái tim đó được chuyển gửi và giữ gìn ở Ngân hàng nhà nước Việt Nam và sau đó được đưa ra Hà Nội để các nhà Khoa học làm công việc nghiên cứu. Với người dân thì trái tim Hòa Thượng Thích Quảng Đức vẫn là điều bí ẩn. Nhưng đối với chúng tôi thì không có bí ẩn gì cả, vì đó là lúc Hòa Thượng còn sống trước cái chết tự nguyện, tự thiêu vì Phật pháp nên tinh thần ý chí dũng cảm sắt đá của Hòa Thượng rất mạnh, do đó TƯỞNG UẨN của Hòa Thượng bắt đầu hoạt động trong ngọn lửa tự thiêu, vì thế trái tim không bao giờ cháy. Cháy làm sao được khi TƯỞNG UẨN hoạt động mà người đời không hiểu gọi là mầu nhiệm.

KHOA HỌC TÂM LINH CỦA CON NGƯỜI

Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho rằng câu chuyện này kỳ lạ: “Theo ông Dalai Lama thì khi trải qua một quá trình thiền định lâu dài con người có thể loại bỏ được những ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu cực và thù địch. Trong khi đó các nhà tâm lý học Tây phương lại không đồng ý với luận điển này. Họ cho rằng những ý nghĩ và cảm xúc như vậy là thuộc về bẩm sinh của con người. Đạo Phật Tây Tạng lại cho rằng luận điểm của Tây phương là không rõ ràng.”

Thiền định của các ông Dalai Lama khác với thiền định của Đức Phật. Trong khi Đức Phật dạy: “Ý làm chủ, ý dẫn đầu các pháp và tu tập phải làm chủ các cảm thọ” thì các Dalai Lama lại dạy: “loại bỏ ý nghĩ và cảm xúc mang tính tiêu cực và thù địch.”
Các ông Dalai Lama dạy: “loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực và thù địch.” Vậy lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ mang tính tiêu cực? Các ông nói được mà các ông không biết lấy cái gì loại bỏ ý nghĩ ác Trong khi Đức Phật dạy rất dễ hiểu: Lấy ý thức “Ngăn ác diệt ác pháp.”

Bởi trong kinh Pháp Cú dạy: “Ý làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp….” Sự chống đối giữa các nhà khoa học Tây phương và ông Dalai Lama chưa ngã ngũ ai đúng ai sai thì các nhà khoa học thí nghiệm cuộc ngồi thiền của Dalai Lama. “Cuộc thử nghiệm diễn ra khi ông Dalai Lama đang ngồi thiền thì cho nổ một phát súng ngay bên cạnh. Nhưng lạ thay, ông Dalai Lama vẫn ngồi thiền bình thường không hề có một chút phản ứng nào – điều mà các nhà khoa học Mỹ chưa từng thấy ở bất kỳ một cuộc thử nghiệm trước đây!”

Khi các vị Dalai Lama không ngồi thiền, không nhập định tâm rất bình thường như mọi người mà cho một tiếng nổ rất lớn gần bên mà các vị Dalai Lama không giật mình thì đó các Ngài ở trong tâm bất động. Đó mới chính là thiền định của Phật giáo, còn các ông ngồi thiền nhập định mà không giật mình thì đó là tà thiền tà định của ngoại đạo Khi thân tâm đều rơi vào Định Không Tưởng thì dù cho bom nổ bên cạnh thân tâm cũng không nhúc nhích. Bình thường mọi người nghe tiếng nổ lớn đều phản ứng giật mình, đó là một phản xạ tự nhiên nhưng ở người nhập định thì tâm bất động vì thế sự phản xạ tự nhiên cũng không còn.

Cho nên các nhà khoa học thử nghiệm với một người nhập thiền định thì sự thử nghiệm vẫn hoài công vô ích. Vì thiền định mà đem thử nghiệm với người bình thường thì cho đó là điều kỳ lạ, chớ sự thật không có gì kỳ lạ cả. Vì thiền định là Tưởng Uẩn hoạt động nên mới có Định Không Tưởng.

HOA NHIỆM MẦU VÔ ƯU

Chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Người ta nói đến hoa Vô Ưu là nói đến sự không buồn phiền, đó là người ta khéo tưởng tượng một Đức Phật sinh ra nơi gốc cây Vô Ưu có nghĩa là một bậc Thánh không còn phiền não.

Bao đời con người cũng hay tưởng tượng huyền thoại một đấng Giáo Chủ rồi bịa ra hoa Vô Ưu để ca ngợi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một bậc Thánh từ cung Trời Đâu Suất sinh về thế gian nên mới có những hiện tượng hoa Vô Ưu nở.

Hiện giờ ở Việt Nam người ta trồng cây Vô Ưu rất nhiều, hoa nở liên tục mùa nào cũng có hoa nở. Do đó chứng tỏ người ta khéo ca ngợi Đức Phật mà thành dối trá lừa đảo mọi người. Cho nên trên cuộc đời này đừng bao giờ nghe người ta nói mà hãy nhìn rõ mọi việc người ta làm rồi mới có tin.

Khi thấy hoa Vô Ưu tại đền thờ Phật và đền thờ đức Trần Nhân Tông tại TP Hồ Chí Minh ở Việt Nam mùa nào cũng nở thì người ta lại lý luận Phật giáo Việt Nam hưng thịnh.  Chúng ta hãy nghe trích bài ca ngợi Phật giáo Việt Nam của Ngô Văn Quán viết: “Đức Phật ra đời, do năng lượng bởi nguồn tâm vô nhiễm của Ngài đã chiêu cảm cho Vô Ưu nở hoa. Đạo Phật truyền vào Việt Nam được sự gia trì của Phật, các Tổ, các Thánh Hiền, các bậc Giác Ngộ của dân tộc với năng lượng của nguồn tâm vô nhiễm đã chiêu cảm để đất nước và con người Việt Nam thăng hoa. Cũng có thể do tâm Phật của những hội viên Trung tâm trong cả nước phát nguyện và quyết tâm ứng dụng những lời Phật dạy vào cuộc sống đã giúp cho mọi người thăng hoa trong tâm hồn, hăng hái xây dựng đất nước. Chính tâm từ bi ấy đã chiêu cảm cho loài hoa này nở liên tục.” Lời ca ngợi này có đúng không?

Phật giáo Việt Nam đang đi lên hay đang xuống dốc, nếu chúng ta không lầm thì Phật giáo Việt Nam đang lúng túng trước hai ngả đường, không biết sẽ đi đường nào: Nam Tông và Bắc Tông. Nam Tông thì ức chế tâm, còn Bắc Tông thì mê tín. Còn con đường chính gốc của Phật giáo làm chủ sinh, già, bệnh, chết thì không biết đâu mà tu tập. Còn hoa Vô Ưu nở hay không nở thì có liên hệ gì với tâm con người. Nếu bảo rằng nhờ hoa Vô Ưu nở thì Đức Phật đâu cần tu tập làm gì. Sáu năm khổ hạnh tưởng như thân xác Ngài như gần chết, nếu không nhờ bát sữa của cháu bé chăn bò thì Đức Phật có chứng đạo được không?

Trong sự tu tập rất gian khổ vô cùng, nhất là khi chưa biết pháp tu tập còn mò mẫm đường đi như người mù dùng gậy dò đường. Vì thế Đức Phật phải dũng cảm phát nguyện: “Nếu không chứng đạo thề nát xương không rời khỏi cội bồ đề.” Như vậy hoa Vô Ưu nở hay không nở có gì liên hệ với sự tu tập của Đức Phật đâu.

Cho nên ở đời người ta hay thêu dệt và ca ngợi một cách vô lý, thế mà ai cũng nghe và tin theo một cách mù quáng, thật là điên đảo tưởng mà không biết.

NHÀ SIÊU NGOẠI CẢM VANGA

Chúng tôi xin giới thiệu một câu chuyện nữa mà người đời không hiểu cho là mầu nhiệm:
Nhà siêu ngoại cảm Vanga là một nữ tiên tri người Bungari đã làm cả thế giới phải ngưỡng mộ lên khuôn mặt, với đôi mắt không nhìn thấy ánh sáng của bà, như vậy bà Vanga là một người mù.


Một người cháu của bà thuật lại: “Mỗi khi bà tiên tri một việc gì thì mặt bà tự nhiên tái nhợt, miệng thốt ra những điều khó hiểu, giọng nói bỗng to lên một cách không tự nhiên, tiếng nói không giống bà, thậm chí đầy đe dọa, làm chúng tôi kinh ngạc vì cái sức nào đó tiềm ẩn trong bà.”

Quý vị lưu ý lời thuật lại ở trên của người cháu bà, khi bà Vanga muốn tiên tri một điều gì thì toàn thân bà không còn bình thường, giống như có ai nhập xác bà. Theo chúng tôi hiểu không có ai nhập xác bà cả mà chỉ có Tưởng Uẩn của bà hoạt động. Cho nên tất cả những hiện tượng gọi là tâm linh đều hoàn toàn do Tưởng Uẩn mà chỉ có Phật giáo mới vạch trần bộ mặt tâm linh mầu nhiệm của thế giới siêu hình.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:21 pm    Tiêu đề:

CÔ GÁI CÓ ĐÔI MẮT THẦN KỲ

Nữ bác sĩ quân y Trịnh Tường Linh mới 23 tuổi, người Thiểm Tây Trung Quốc có đôi mắt thần kỳ mà không ai lý giải nổi, nhìn cành hoa thì cành hoa đứt ngang, nhìn cá thì cá chết.

Dùng tai đọc chữ, nếu ai viết một tờ giấy rồi xếp lại nhét vào tai Tường Linh thì Tường Linh đọc không sai chữ nào cả.

Dùng đôi mắt nối được chỉ đứt, kim gãy và cũng đôi mắt đó nhìn thì kim gãy và chỉ lại bị đứt.

Dùng đôi mắt khám bệnh, Trịnh Tường Linh đã khám bệnh cho 4 vạn người. Bệnh nhân thuộc mười mấy tỉnh thành ở Trung Quốc đã mời cô hội chẩn.

Dùng đôi mắt khám thai nhi như máy X quang, như máy siêu âm B và máy rà quét CD.
Ở đây chúng ta thấy rất rõ, nếu mọi người không hiểu biết đều cho tai và mắt Tường Linh là mầu nhiệm, nhưng sự thật không có mầu nhiệm chút nào cả, chỉ Tưởng Uẩn của Tường Linh hoạt đông ở tai, ở mắt thì việc làm như trên của Tường Linh làm rất dễ dàng.

Trên đời này không có gì mầu nhiệm vì thân người có năm uẩn đầy đủ khả năng làm bất cứ việc gì, nhưng năm uẩn có chịu làm việc hay không, nếu chịu làm việc thì người nào cũng giống như người nào. Người ta chỉ thấy có người làm được và có người không làm được, vì thế mà mọi người mới cho nó là mầu nhiệm.

Tất cả mọi sự mầu nhiệm chẳng qua chỉ là Tưởng Uẩn hoạt động mà thôi. Chúng tôi xin kể lại một số người có khả năng tưởng uẩn hoạt động như sau:

1- Cháu Bích Hằng người Việt Nam đã nổi tiếng là nhà ngoại cảm có một cảm nhận chính xác tìm hài cốt liệt sĩ.

2- Bà Vanga người Bungari có đôi mắt không bị thời gian ngăn cách.

3- Trịnh Tường Linh người Trung Quốc có đôi lỗ tai nghe chữ, có đôi mắt nhập định đã cắt đứt cành hoa, nối chỉ và nối kim bị gãy, nhìn cá cá chết.

4- Ông B.Kajinxki người Liên Xô (cũ) có ý thức giao cảm với mọi việc xảy ra (thần giao cách cảm).

5- Trung sĩ Ivan Petrov người Liên Xô (cũ) nằm mộng thấy mọi việc xảy ra đúng như thật.

6- Ông Nguyễn Văn Chiều chữa bệnh bằng đôi tay, khi bị điện cao thế giật tưởng ông đã chết vì cơ thể bị bỏng nặng, nhưng khi ông tĩnh lại được và dùng đôi tay của mình vuốt các vết bỏng liền phục hồi lại như xưa. Ông Chiều cũng nghe được những âm thanh của những người đã chết.

7- Nguyễn Thị Hằng được hồn liệt sĩ Nguyễn Văn Tự nhập vào dẫn tìm hài cốt anh ta.

8- Trương Thị Phước nằm mộng thấy đúng như thật.

9- Em trai liệt sĩ Nghiêm Xuân Phú theo giấc mộng tìm hài cốt của anh.

10- Hài cốt Nguyễn Bá Hòa được một người bạn đồng đội 13 lần đi vào Nam tìm kiếm, đó là bác sỹ Trần Văn Bản.

11- Đỗ Bá Hiệp có khả năng tìm hài cốt như cháu B.H. Tìm hài cốt người con cho bà mẹ Mỹ.

12- Phạm Văn Mẫn có khả năng tìm hài cốt như cháu B.H.

20- Một cháu gái bé khi thấy bộ hài cốt liệt sĩ được người cha dấu trong khóm chuối hoảng hồn ngất xỉu, khi tỉnh dậy cháu bé như người mất hồn giống như người lên đồng nhập xác.

21- Nguyễn Văn Liên người tỉnh Hải Dương thường ngồi tại nhà dùng Tưởng Uẩn của mình giao cảm chỉ cho những người thân của các liệt sĩ đi tìm hài cốt, tìm đâu được đấy. Ngay cả giữa thành phố Hà Nội ông chỉ cho những người thân tìm hài cốt những người đã bị giặc Pháp sát hại trong nhà giam Hỏa Lò.

22- Năm Chiến tức là Bùi Đăng Chiến người Thăng Bình (Quảng Nam – Đà Nẵng), ông đã từng đảm nhiệm những chức vụ như: phó Bí thư Huyện đoàn; Trưởng công an xã, vào năm 38 tuổi ông bị một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Hai năm sau bệnh tật qua khỏi, bỗng một hôm ông bị “nhập đồng” và tìm được nơi chôn người chết dưới lớp đất sâu. Sau này trước khi mỗi lần tìm hài cốt ông phải thắp nhang, lâm râm khấn khứa… Rồi lặng người theo kiểu “nhập đồng” mới chỉ mọi người tìm hài cốt.

Đây là một hiện tượng ngoại cảm, đó là cách thức để Tưởng Uẩn hoạt động. Cho nên ngoài Tưởng Uẩn con người không có cách thức nào giao cảm với các từ trường người còn sống cũng như người đã chết.

23- Nguyễn Thị Nghi người tỉnh Hải Dương chữa được bệnh điên, bệnh mắt, tìm xác người chết bị mất tích, tìm mộ bị thất lạc. Cô chỉ ngồi tại nhà mà hướng dẫn mọi người bằng khả năng của mình qua chiếc đĩa cũ và hai đồng tiền xu để gieo quẻ âm dương như những ông thầy bói ở nơi đền thờ Bà Chúa Xứ, Trần Hưng Đạo, Quan Thánh Đế Quân, Bà Chúa Tiên, Bà Đen v.v… Đó cũng là một hành động đánh thức Tưởng Uẩn hoạt động.

24- Phạm Ngọc Hiền dùng con lắc để tìm hài cốt liệt sĩ, có khi dùng quả trứng vịt còn sống đặt trên đầu đũa. Con lắc và đầu đũa đều có một lực hút, vậy lực hút từ đâu mà có. Có phải từ hài cốt liệt sĩ không? Ngoài Phạm Ngọc Hiền thì mọi người dùng con lắc và đầu đũa sao không có sức hút. Như vậy rõ ràng không có linh hồn người chết mà lực hút đó có từ anh Phạm Ngọc Hiền. Lực hút của anh Phạm Ngọc Hiền do đâu mà có? Lực hút của anh Phạm Ngọc Hiền do từ Tưởng Uẩn của anh hoạt động mà có. Do sự hoạt động này tác động vào sáu căn của con người mà mọi người không biết nên mới gọi là Tâm Linh Mầu Nhiệm.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:21 pm    Tiêu đề:

CHUYỆN CÓ THẬT Ở TRƯỜNG TRƯNG VƯƠNG

Ngày 20 - 07 - 2003, khi tới trường Trưng Vương (Hà Nội) công tác, bằng khả năng đặc biệt của mình, Phan Bích Hằng - người từ lâu được coi là nhà ngoại cảm tài năng đã phát hiện ít nhất chừng 7, 8 bộ hài cốt vẫn còn nằm dưới lòng đất trong khuôn viên trường, đồng thời xác định cả tên và vị trí nằm của 3 bộ hài cốt nói trên. Chị đã đề nghị với trường, khi nào có điều kiện, những hài cốt này sẽ được khai quật.

Dịp may đó đã đến khi dự án cải tạo nâng cấp trường được chính thức phê duyệt và thi công. Ngày 15 – 9 - 2004, ba bộ hài cốt nói trên đã được tìm thấy ở đúng vị trí chị đã xác định, với những đặc điểm đúng như nhận định ban đầu của chị.

Ngay sau khi phát hiện ra hài cốt (mà Bích Hằng khẳng định là của chiến sĩ cảm tử trong trận 60 ngày đêm chiến đấu bảo vệ Thủ đô mùa Đông năm 1946), Bích Hằng đã báo cho Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặc biệt của Con người, nơi chị đang là cộng tác viên. Vấn đề này, giáo sư Đào Vọng Đức (Giám đốc Trung tâm) và nhà văn - tiến sỹ - Thiếu tướng Chu Phác (Chủ nhiệm Bộ môn) trước đó đã cử ba nhà ngoại cảm khác với tính chất độc lập trắc nghiệm. Tất cả đều xác nhận thông tin này là chính xác.

Nhưng trớ trêu thay, theo bản sơ đồ của Bích Hằng và ba nhà ngoại cảm kia thì vị trí của ba bộ hài cốt lại nằm ngay dưới chân cầu thang nhà C (còn gọi là dãy Côn Sơn - giáp đường Lý Thường Kiệt), không thể vì lý do đó mà khai quật được.

Cho mãi tới ngày 15 - 9 - 2004, trường Trưng Vương chính thức bàn giao mặt bằng để khởi công. Theo hình thức xây cuốn chiếu nên dãy nhà Côn Sơn được phá dỡ trước. Ngay sau đó, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng đặc biệt của con người và Phan Bích Hằng đã có cuộc trao đổi với nhà trường và bên thi công, đề nghị được tìm kiếm hài cốt nói trên. Ngay trong hai ngày khai quật đầu tiên (23 và 24 / 9) ở đây đã tìm được hai bộ hài cốt và tối 25 / 9 là bộ hài cốt thứ 3 ở đúng vị trí trong sơ đồ của Bích Hằng đã khẳng định. Đông đảo đại diện các cấp ngành, cùng các thầy cô giáo Trường THCS Trưng Vương đã chứng kiến việc làm trên.

Điều đặc biệt là mặc dù những bộ hài cốt đã khá mủn, nhưng các đặc điểm nhận dạng trên từng bộ đều khớp với những tình tiết mô tả của Bích Hằng một năm trước đó như: ông D. là người hy sinh đầu tiên. Hài cốt của ông D. bị mất sọ khi ông vừa nhô người lên khỏi giao thông hào thì bị pháo địch phạt ngang, đồng đội thương ông nên trước khi chôn đã lấy chiếc bát (loại Bát Tràng thời đó có đáy bằng, thành đứng) úp lên cổ (hiện hay chiếc bát đó được đặt trong tiểu cùng hài cốt có tên là D). Bích Hằng còn cho biết chị đã “nói chuyện” và biết được tên và chức danh của ba người hy sinh, nay là ba bộ hài cốt nói trên, đó là Phan Hào (còn gọi là Hào Professeur) - trung đội trưởng, Nguyễn Văn Dư (còn
gọi là Dư đen, Dư còi) là trung đội phó, chính trị viên và Nguyễn Văn Đẳng. Cả ba đều thuộc Trung đội 1, Đại đội 1, Tiểu đoàn 77, hy sinh ngày 21-12-1946.

Ông Hàn Thụy Vũ - đại tá, hiện là phó trưởng bộ môn Cận Tâm lý, nguyên phóng viên báo Quân đội nhân dân, trước đây cũng là chiến sĩ Trung đoàn 48 - Trung đoàn Thăng Long (hai trung đoàn của Hà Nội là Thủ đô và Thăng Long) xác nhận: Về tiểu sử trung đội trưởng Phan Hào đã được nhắc đến trong cuốn lịch sử 60 ngày đêm toàn quốc kháng chiến.

“Trung đội của ông Hào còn được gọi là Tiếp hoàn quân, chọn lọc toàn những trí thức, giỏi tiếng Pháp. Đêm 19 rạng ngày 20, các lực lượng vũ trang, nhân dân thủ đô Hà Nội và các thành phố nổ súng chiến đấu - toàn quốc bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Ngày 20 / 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cũng trong ngày 20 / 12 / 1946, bộ đội ta và quân Pháp giao tranh ở Tòa thị chính (tức UBND thành phố Hà Nội ngày nay), Bưu điện và Bắc Bộ phủ. Các chiến sỹ của ta tuy lực mỏng nhưng đã dũng cảm ngăn cản được nhiều đợt tấn công của giặc Pháp, cầm cự được 01 ngày để cho nhân dân và bộ đội chủ lực rút qua cầu Long Biên về chiến khu an toàn.

Đến ngày 21-12-1946, địch tăng cường lực lượng viện binh nên đã chiếm được một số chốt, trong đó có chốt ở Trường THCS Trưng Vương. Và ba ông Hào, Dư, Đẳng có thể đã hy sinh trong ngày 21-12” (Theo báo Hà Nội Mới điện tử 15 / 11 / 2004).

Chuyện có thật ở trường Trưng Vương do cháu Bích Hằng giao cảm hướng dẫn lấy hài cốt là một sự thật, nhưng chúng ta phải xác định cháu Bích Hằng làm sao lại có khả năng đó mà mọi người khác không có, không làm được.

Qua câu chuyện tìm hài cốt cô Khang em gái của giáo sư Trần Phương chúng tôi đã xác định rất rõ ràng. Cháu Bích Hằng có khả năng đó được là nhờ Tưởng Uẩn của cháu hoạt động. Tưởng Uẩn của cháu hoạt động là nhờ nọc độc chó dại. Cháu không chết mà lại có sự giao cảm với các từ trường bên ngoài bằng hình thức như linh hồn người chết nhập và nói chuyện với cháu. Toàn bộ những sự việc này xảy ra đều do năng lực Tưởng Uẩn của cháu.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:22 pm    Tiêu đề:

HIỆN TƯỢNG NGƯỜI CHẾT SAO CƠ THỂ CÒN GIỮ NGUYÊN VẸN NHIỀU NĂM THÁNG

Đây là những bức tranh của nữ thánh Bernadette đã chết cách đây 122 năm tại Lourdes, nước Pháp và được chôn, xác của cô chỉ được khám phá cách đây 30 năm sau khi người của nhà thờ quyết định khám tử thi. Xác của cô vẫn còn tươi tới tận nay và nếu có dịp rảnh tới thăm  Lourdes, nước Pháp bạn có thể thấy thi thể của cô trong nhà thờ tại Lourdes. Xác của cô không thối rữa bởi vì trong thời gian cô còn sống, mẹ của chúa Jesus đã hiện ra với cô và cho cô những tín nhắn cùng lời khuyên đến nhân loại sống đúng có đạo đức trên trái đất này.

Nhiều hiện tượng lạ đã diễn ra tại chỗ này của Lourdes và cho tới tận ngày nay. Những bức tranh này cho thấy xác cô sau 122 năm Nhìn xác chết của cô Bernadette cách đây 122 năm mà vẫn còn tươi như người đang ngủ. Tại sao một người chết cơ thể không bị vi khuẩn hủy hoại mà lại còn tươi như người đang ngủ?

Thân xác ấy còn lưu giữ tại nhà thờ Lourdes ở bên Pháp. Đây là một bằng chứng cụ thể mà không ai lý giải dù các nhà khoa học cũng không giải thích được. Vậy có bàn tay thần thánh nào đã giúp cho thân xác của cô Bernadette không hư hoại?

Muốn biết rõ điều này chúng ta hãy đọc câu chuyện kể về đời sống của cô Bernadette thì thấy rất rõ không có bàn tay nào cả mà chỉ có tưởng uẩn của cô đã giữ gìn thân xác suốt 122 năm. Thật là tưởng uẩn của mỗi con người đã làm nên những phép mầu kỳ diệu mà không ai ngờ được. Nếu một người nào biết cách tu tập làm cho tưởng uẩn hoạt động thì trong cuộc đời không còn có một sự việc gì xảy ra mà người ta gọi là mầu nhiệm hay là tâm linh nữa.

Thiếu nữ Bernadete

Vậy chúng tôi xin mời quý vị tiếp tục đọc “Vài sự kiện về cuộc đời thôn nữ Bernadette” do Đức Long thuật lại như sau: “VietCatholic News (Thứ Tư 26 / 03 / 2008 10: 46)

Bernadette sinh ngày 7 tháng 01 năm 1844 trong căn nhà kinh doanh máy xay bột ông Boly, đến tháng 02 năm 1856, gia đình dọn về ở căn phòng “Cachot”, Cachot là phòng giam nhà tù xưa. Từ ngày 11 tháng 02 đến 16 tháng 06 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với Bernadette. Ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Cha Laurence, giám mục giáo phận Tarbes công nhận sự thật Đức Mẹ hiện ra. Ngày 04 tháng 07 năm 1866, Bernadette xin vào Dòng thánh Gilard, dòng nữ tu Bác Ái ở Nevers. Ngày 30 tháng 10 năm 1867, Bernadette tuyên khấn và lấy tên là chị Marie-Bernard. Tháng 09 năm 1874, Bernadette ngã chứng bệnh hen kinh niên, và mất ngày 16 tháng 04 năm 1879. Ngày 08 tháng 12 năm 1933 được Đức Thánh Cha Piô XI phong thánh.

Gia đình Bernadette rất nghèo. Cha là chủ tiệm một máy xay, bị phá sản, gia đình sống dựa vào những công việc nhỏ nhặt. Họ ở trong căn nhà tù cũ được cải dụng bởi vì nhà tù này trước đây tối tăm và hại cho sức khỏe. Họ có bốn người con, đêm ngủ chung một giường. Mười bốn tuổi mà Bernadette chẳng hề biết đọc, chỉ biết nói tiếng thổ ngữ (bigourdan).

Lúc xưng tội với cha Pomain, cha phó xứ, Bernadette thú nhận với Ngài rằng: “có một người nữ trẻ xinh đẹp …” Anne Bernet, người viết tiểu sử thánh nhân Bernadette, nhận xét: “mọi người luôn có những lời lẽ thiếu tế nhị và nhã nhặn với Bernadette”(1). Khi sự kiện được tiết lộ, hàng trăm người dẫn Bernadette đến núi đá Massabielle và hỏi “Bà là ai?” Ngày 25 tháng ba, người nữ trả lời: “Que soy era Immaculada Conception” (Ta là Đấng vô nhiễm nguyên tội). Bốn năm trước đó, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã công bố tín điều vô nhiễm nguyên tội, nhưng tín điều này chưa được thông dụng đối với tín hữu công giáo lúc bấy giờ, Bernadette cũng không hiểu ý nghĩa tín điều đó. Vì bệnh hen kinh niên, Bernadette được ở nội trú tại nhà dưỡng lão Lỗ Đức, sau đó vào Dòng nữ tu Bác Ái ở Nervers, chị mất tại đây năm 1879, ở tuổi 35, Bernadette được phong hiển thánh năm 1925 và phong thánh năm 1933. Người Nữ xinh đẹp và Bernadette trong những lần hiện ra.

Từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 06 năm 1858, Đức Trinh Nữ hiện ra với Bernadette 18 lần. Những lần hiện ra không ai thấy Người, ngoài Bernadette. Lần hiện ra sau cùng, ngày 16 tháng 06, Bernadette không đến hang núi đá, vì bị cấm vào hang, cô sang bên kia bờ sông Gave (đối diện hang núi đá). “Chưa bao giờ tôi thấy Người đẹp đến thế”, Bernadette cho biết.

Cảnh tượng diễn ra dưới triều đại vua nước Pháp Napoléon III, tại Lỗ Đức, thị trấn miền Pyréné. Ngày 11 tháng hai năm 1858, Bernadette Soubious, lúc đó còn là một thiếu nữ rất trẻ, đi nhặt củi cùng với em gái và một cô bạn, bên bờ sông Gave, ở chân núi đá Massabielle có một cái hang, phía trên có một lỗ (tiếng Pháp: anfractuosité), theo giải thích: lỗ là nơi, chỉ địa điểm hiện ra, Đức chỉ danh nhân, là tên Đức Mẹ. Hai từ này ghép lại thành địa danh “Lỗ Đức.”Từ nơi tăm tối ẩm ướt này, một tia sáng khác thường phát ra thu hút sự chú ý Bernadette, và cô thấy một “người nữ trẻ xinh đẹp” hiện ra.

1. Lần hiện ra thứ nhất, thứ 5 ngày 11 tháng 02, Bernadette kể lại rằng: “Người Nữ ấy mặc áo trắng dài, đầu đội khăn trùm trắng, lưng thắt đai xanh dương và trên đôi chân có bông hồng màu vàng.” Hai cô bé kia thì không thấy gì. Bernadette làm dấu thánh giá và lần hạt với Đấng hiện ra. Sau khi đọc kinh, Người biến mất.

2. Lần thứ hai, chủ nhật ngày 14 tháng 02. Bernadette cảm nhận được sức mạnh nội tâm thôi thúc cô đến hang đá, dù cha mẹ cấm đoán. Năn nỉ mãi cha mẹ cho phép đến hang đá. Sau khi đọc xong một chục hạt, Bernadette thấy Người xuất hiện, Bernadette rảy nước thánh và đọc kinh lần hạt với Người. Người Nữ cười và bái đầu. Khi đọc kinh xong, Người Nữ lại đi mất.

3. Lần thứ ba, thứ 5 ngày 18 tháng 02. Bernadette đọc kinh lần hạt với Người và hỏi tên Người: “Chị có thể cho biết tên?” Người Nữ trả lời: “Không cần thiết đâu”, Người nói với Bernadette “Con muốn làm vinh danh Ta tại chốn này trong 15 ngày? Ta không hứa làm cho con hạnh phúc ở thế gian này, nhưng thế gian khác”.

4. Lần hiện ra thứ tư, thứ 6 ngày 19 tháng 02. Bernadette đọc kinh lần chuỗi với Người, nến thắp sáng trong tay. Phong tục thắp nến dâng Đức Mẹ có từ đây.

5. Lần thứ 5, ngày 20 tháng 02, Đức Trinh Nữ dạy Bernadette đọc kinh riêng. Sau đó Người biến mất, khiến Bernadette mang nỗi buồn man mác.

6. Lần thứ 6, ngày 21 tháng 02. Người Nữ hiện ra với Bernadette từ sáng sớm. Sau đó, cha Pène và viên cảnh sát Jacomet chất vấn Bernadette. Viên cảnh sát bắt Bernadette kể lại điều cô đã thấy. Cô bé nói với ông ta bằng tiếng thổ ngữ “Aquero” nghĩa là điều lạ “Bernadette lần chuỗi với Người Nữ.”

7. Lần thứ 7 vào ngày 23 tháng 02, Bernadette đang đọc kinh, thì Người hiện ra.

8. Lần thứ 8, thứ tư, 22 tháng 02, Người Nữ ban sứ điệp sám hối: “Hãy sám hối! Ăn năn! Hãy đền tội! Hãy cầu cùng Chúa cho kẻ có tội. Hãy hôn lên đất để kẻ tội lỗi biết sám hối.”

9. Lần hiện ra thứ 9, vào thứ 5 ngày 25 tháng 02. Đám đông nói với Bernadette: “Cô có biết rằng nói ra những điều vậy người ta cho rằng cô điên?” Bernadette trả lời: “Người Nữ bảo tôi uống nước suối... Tôi chỉ tìm được ít nước bùn, Người bảo tôi ăn cỏ gần nguồn nước, thế rồi Người biến mất và tôi đi luôn.”Người Nữ khuyên: ”Con hãy uống nước và tắm nước suối này. Hãy ăn cỏ nơi đây.”

10. Lần thứ 10 & 11 vào thứ bảy và chủ nhật 27 tháng 02. Bernadette uống nước suối và làm cử chỉ sám hối. Ngày 28, hơn 1000 người tham dự cuộc nhập định “extase”, Bernadette cầu nguyện, hôn lên đất và bò bằng đầu gối. Sau đó Bernadette bi đưa về nhà ông thẩm phán Ribes, bị dọa bỏ tù.

12. Lần thứ 12 vào thứ hai, ngày 01 tháng 02, hơn 1500 người trong đó có một linh mục bao quanh Bernadette tại hang đá Lỗ Đức. Ban đêm, một cô bạn sở tại, tên Cathrine Latapie, đến hang đá nhúng tay vào suối nước, tay của cô liền cử động được.

13. Lần thứ 13 vào thứ 3, ngày 02 tháng 03. Người Nữ giao cho Bernadette đem sứ điệp cho các linh mục. Người nói: “Hãy đi nói với các cha đến đây rước kiệu và xây dựng tại đây một ngôi nhà nguyện.” Bernadette nói điều đó với cha Peyramale quản xứ Lỗ Đức. Cha Peyramale chỉ muốn biết một điều: “Nếu Người thực sự muốn một nhà nguyện thì mong cho biết tên Người và cho hoa hồng nở ở hang đá.” Sau đó, có minh chứng cho thấy, vào giữa đông mà hoa hồng ở hang đá vẫn nở.

14. Lần hiện ra thứ 14, vào thứ 3 ngày 03 tháng 03. Từ 7 giờ sáng, đã có mặt hơn 3000 người. Bernadette đến Lỗ Đức nhũng không thấy hiện ra. Sau khi tan trường, cô nhận thấy trong thâm tâm có tiếng gọi của Người Nữ, liền tới hang đá và hỏi tên Người Nữ, Người Nữ trả lời bằng một nụ cười.

15. Lần thứ 15, vào thứ 5, ngày 04 tháng 03. Đám đông khoảng 8000 người chờ đợi phép lạ, hết một chục hạt vẫn thấy im lặng. Vị cha xứ Peyramale cắm trại tại chỗ, trong 20 ngày, Bernadette không đến hang đá.

16. Lần thứ 16 vào thứ 5 ngày 25 tháng 03. Tên của Người được biểu lộ, nhưng hoa hồng trên chân Người Nữ không nở như những lần hiện ra trước. Người ngước mắt lên trời cầu nguyện, đôi tay giăng hướng xuống đất và nói: “Ta là Đấng Vô Nhiễm.”Bernadette thấy vậy, liền chạy đi nói lại với mọi người điều cô thấy mà không thể hiểu. Những lời tường thuật của Bernadette làm cho vị cha xứ Peyramale vốn dũng cảm cũng phải bối rối.

17. Lần thứ 17, vào thứ tư ngày 07 tháng 04. Bernadette cầm nến sáng trong tay. Lửa cháy trên bàn tay mà không bị bỏng. Sự kiện ngay lập tức được bác sỹ Bouzous ghi nhận.

18. Lần cuối cùng vào thứ 6 ngày 16 tháng 06, Bernadette cảm nhận được tiếng gọi huyền bí ở Lỗ Đức, nhưng vì cấm vào hang đá, nên cô sang phía bên kia bờ sông, đi trên đồng cỏ Ribère, đối diện với sông Gave, thấy Đức Trinh Nữ “xinh đẹp hơn bao giờ hết.”

Ngay từ đầu, theo chân thánh nữ Bernadette, các người bệnh tật vội vàng về Lỗ Đức, họ cho biết được lành bệnh. Giáo Hội tỏ ra thận trọng vấn đề này: trong 150 năm qua, Giáo Hội chỉ mới công nhận 67 phép lạ, mặc dù phòng y tế trong tâm Lỗ Đức ghi nhận đă có 2000 trường hợp lành bệnh không thể giải thích được. (1) “Anne Bernet, Bernadette, Tempus”, p. 384) (Nguồn: Asomption & oeuvres và báo Figaro) Đức Long

XIN THẦY CHO CON HỎI

Qua câu chuyện về thánh nữ Bernadette, con biết rằng khi còn sống tưởng uẩn của bà làm việc cho nên bà có những hiện tượng lạ là thấy được mẹ của chúa Jesus và làm được nhiều hiện tượng lạ khác. Nhưng con cũng vì tò mò xin Thầy giải thích thêm cho rõ. Cám ơn Thầy.

1- Khi một người chết mà thân xác còn tươi như vậy là họ do tu tập pháp gì mà có?

Đáp: Khi một người chết mà thân xác còn tươi như vậy là do họ tu tập Tưởng Pháp. Ở đây cô Bernadette do lòng tin tuyệt đối nên tưởng cô hoạt động chớ không phải do tu tập. Tưởng cô Bernadette đã 18 lần hoạt động và như vậy tưởng cô rất dễ xử dụng khi cô muốn là nó hoạt động. Đọc trong bài chúng ta thấy rất rõ như: lửa cháy trên bàn tay mà không bị phỏng, Đức Trinh Nữ hiện ra nhiều lần cô đã thấy qua tưởng.

Người nào muốn luyện tưởng hoạt động thì dùng tưởng hơi thở từ trên đầu đi xuống chân rồi từ chân đi vòng ra sau lưng rồi chạy theo xương sống trở lên đầu và hơi thở cứ đi vòng tròn như vậy gọi là chuyển pháp luân. Đó là luyện tưởng hơi thở. Khi ức chế ý thức không cho niệm khởi như Thiền Đông Độ biết vọng liền buông, tham thoại đầu, tham công án v.v…, đó là tu tập về tưởng không, người này tu tập như vậy sẽ nhập vào Không Vô Biên Xứ Tưởng. Khi người này nhập vào không vô biên xứ tưởng rồi bỏ thân xác thì thân xác người này còn nguyên vẹn không tan rã hôi thối.

2- Người theo đạo thiên chúa không có tu định, vậy tại sao họ lại có thể để lại thân xác như vậy? Bằng cách nào tưởng của họ hoạt động? Do quá tin vào có thiên chúa chăng?

Đáp: Tưởng do lòng tin vào Thiên Chúa, tưởng cô Bernadette hoạt động. Nhờ tưởng hoạt động nên thân xác cô không hư hoại.

3- Có phải tưởng của họ đang hoạt động cho nên thân xác không hủy hoại?

Đáp: Đúng vậy, tưởng của cô Bernadette đang hoạt động nên thân xác cô không hủy hoại

4- Những người có thân xác như vậy đã tái sanh chưa? Hay có phải tái sanh không?

Đáp: Việc tái sinh không liên hệ với thân xác người chết. Khi người vừa tắt thở là nghiệp của người ấy tương ưng đã tái sinh làm một người khác rồi. Nghiệp cô Bernadette đã tái sinh làm một người khác, còn thân xác cô không hư hoại là do tưởng uẩn trong thân cô hoạt động bảo vệ nên thân xác cô giống như người đang ngủ, một giấc ngủ dài 122 năm và còn tiếp tục nữa nếu tưởng uẩn cô còn hoạt động. Tưởng uẩn trong con người là một pháp mầu, là một điều kỳ lạ mà người nào cũng có, nhưng người có tưởng hoạt động và người có tưởng chưa hoạt động. Vì thế mà mọi người không biết nên cho là pháp mầu, cho là những điều kỳ lạ.

6- Có những hiện tượng lạ nói rằng nhiều người bị bệnh viếng thăm bà thì được chữa khỏi bệnh? Điều đó được giải thích như thế nào?

Đáp: Đã nói đến tưởng thì trị bệnh cho người khác là một việc dễ dàng, chỉ cần hai tưởng tương ưng nhau trong một từ trường thì người có bệnh sẽ lần lần hết bệnh. Cho nên có người bệnh đến thăm thân xác cô Bernadette là về nhà hết bệnh, nhưng có người lại không hết bệnh. Đó là tưởng người bệnh tương ứng với tưởng của cô Bernadette đang hoạt động để bảo vệ thân xác cô.

7- Có cách nào làm cho thân xác đang tươi như vậy tan rã không? Hay là cứ để theo thời gian sẽ tan rã?

Đáp: Chỉ cần một người nhập vào Thức Vô Biên Xứ Tưởng thì sẽ bắt gặp tưởng thức của cô Bernadette và giúp tưởng thức cô ngưng họat động thì thân xác cô tan rã tức khắc. Còn nếu để tưởng thức của cô Bernadette hoạt động thì thân xác cô không bao giờ tan rã.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:23 pm    Tiêu đề:

MỘT LINH HỒN NHIỀU THỂ XÁC

“Một vị Tăng ở Tây Tạng đã nói cuộc đời chỉ là một sân khấu. Diễn tại sân khấu này đóng vai một người nghèo khó, nhưng ở một sân khấu khác, người đó lại hóa thân thành vị công tử, có thể là do sự lựa chọn vai diễn của người đó.”

Lời nói của vị Tăng Tây Tạng chứng tỏ ông ta chẳng biết gì về Phật giáo. Ông nói theo sự truyền thừa thuyết Linh Hồn Đi Tái Sanh của loài người từ xưa đến nay, chứng tỏ các vị Tăng Tây Tạng chỉ mang hình thức Tăng chớ thật sự không phải là tu sĩ Phật giáo. Các Ngài đang theo tu theo ngoại đạo Bà La Môn nhưng mượn danh là Tăng sĩ Phật giáo để lừa đọc giả.

Phật giáo thì cấm các đệ tử của mình không nên thị hiện thần thông còn các ông Lạt Ma thì chuyên luyện thần chú để thể hiện cầu vòng, biết chuyện quá khứ vị lai của người khác để làm cho mọi người phục mình. Vì thế nói đến Tây Tạng thì người ta kèm theo danh từ Huyền Bí. Có những tác giả họ hiểu như thế nào xứ Tây Tạng mà dám ghép Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí. Trong khi Đức Phật sinh ra ở Ấn Độ, còn các sư Tây Tạng tu hành có làm chủ bốn sự đau khổ chưa?, mà dám cho Tây Tạng Đất Phật Huyền Bí.

Tu thành Phật cũng giống như một người bình thường, có gì huyền bí đâu? Các sư Tây Tạng cũng sợ chết như mọi người, khi Trung Quốc qua xâm chiếm đất nước này thì các ông Lạt Ma chạy trốn sang bên Mỹ.

Khi Trung Quốc đặt nền cai trị đất nước này, biến đất nước này thành một nơi du lịch của Trung Quốc, muốn quyến rũ du khích đông đảo nên đặt cho cái tên đầy hấp dẫn “Tây Tạng Huyền Bí”, nghe cái tên ai cũng muốn đến đó tham quan một lần, nhưng các ông Lạt Ma tu hành như các sư thầy ở Việt Nam có khác chỗ nào đâu.

Có ông Lạt Ma nào tu tập làm chủ bốn sự đau khổ: Sinh, Già, Bệnh, Chết chưa?

Vậy mà huyền bí để làm gì hay để quyến rũ những người hiếu kỳ. Huyền bí để xây dựng thế giới siêu hình, để xây dựng một Linh Hồn bất diệt, để đi ngược lại lời dạy của Đức Phật, để diệt nền đạo đức nhân bản - nhân quả của loài người.

Đừng lấy các sư Tây Tạng mà xây dựng thành một đất nước Huyền Bí, vì các sư Tây Tạng tu hành có ra có tới đâu, chỉ đọc thần chú hiện cầu vòng để lừa bịp thiên hạ. Tu hành mà lừa gạt mọi người như vậy thì tự các Ngài Lạt Ma rất xấu hổ cho người trước đã làm mà người sau phải chịu lấy tiếng xấu muôn đời.

Chúng ta ai cũng biết Phật giáo đã xác định rõ ràng: “Con người có thân ngũ uẩn là do nghiệp thiện ác. Như vậy Nghiệp Thiện Ác Đi Tái Sinh chớ đâu phải Linh Hồn đi tái sinh.

Nếu quả có Linh Hồn đi tái sinh thì Linh Hồn đâu có ngu dại điên khùng mà chọn chỗ nghèo, chỗ con bò, con heo, con gà, con vịt, con cá, con tôm, con trùng, con dế v.v… mà tái sinh. Phải không quý vị?

Nếu có Linh Hồn Tái Sinh thì thế gian này toàn là ông chủ không có người làm công, còn trong cuộc sống hiện tại trong xã hội ông chủ thì ít mà công nhân thì nhiều, như vậy Linh Hồn quá ngu si phải không, thưa quý vị?

Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là người giàu, nhưng sự thật trong xã hội hiện tại người giàu thì ít mà người nghèo thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?

Nếu có Linh Hồn Đi Tái Sinh thì thế gian này toàn là con người, nhưng sự thật trên hành tinh của chúng ta đang sống thì con người lại quá ít mà loài vật thì vô số kể, như vậy Linh Hồn quá ngu si. Phải không quý vị?

Cho nên Linh Hồn có là do những người sống trong ảo tưởng dựng lên để nuôi hy vọng mình có một cái gì vô hình mà luôn luôn trường tồn mãi mãi. Do những điều lý luận trên đây chúng tôi xác nhận và bảo thẳng cho mọi người biết Linh Hồn Không Có. Chỉ có nghiệp thiện ác của mọi người đi tái sinh mà thôi.  Đó là luật Nhân Quả không sửa đổi hay bóp méo nó được.

Nếu ai bảo có Linh Hồn là những người không thông suốt Phật giáo, không hiểu biết Luật Nhân Quả. Chúng tôi xin thành thật khuyên những người viết sách về tâm con người
trong góc độ Tôn giáo, chỉ khi nào tu hành làm chủ Sinh, Già, Bệnh, Chết thì mới viết sách, còn chưa làm chủ bốn sự đau khổ này mà viết sách là viết theo Tưởng giải của mình, viết sách như vậy dạy người tu Thiền là giết người mà không cần gươm đao quý vị ạ!. Người chưa chứng đạo giống như người mù, cho nên quý vị đừng viết sách nữa và xin cáo lỗi với độc giả bốn phương để thu hồi những tập sách đó lại.

Viết sách là làm lợi ích cho mọi người chớ không phải viết sách cầu danh, cầu lợi. Có một cuốn sách đề tựa “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác” tác giả biết chắc có Linh Hồn thật hay sao mà dám đặt tên sách như vậy. Muốn viết sách về Linh Hồn thì nên dựa vào lời dạy của Đức Phật mà viết. Khả năng mình biết gì trong thân người mà dám cho trong thân con người có Linh Hồn. Một mình không hiểu biết mà muốn cho mọi người cũng không hiểu biết như mình sao?

Người nào chưa hiểu biết về Linh Hồn mà dám xác định có Linh Hồn là người nói vọng ngữ đệ nhất. Xin quý vị tránh xa những người không thành thật với mình vì những người này còn tiếp tục nói vọng ngữ nữa. Cho nên ở đời cái gì biết chắc thì nói còn chưa biết thì thôi. Đừng làm hay mà thành dở.

Ở đây Linh Hồn là một việc cần phải làm sáng tỏ, bởi vì nó không có, nhưng từ xưa cho tới nay mọi người luôn cho rằng có, nhưng cho có mà không xác định được. Bởi vì nó có là do truyền thuyết từ xa xưa đến nay đã ăn sâu vào lòng con người, nó đã trở thành một Phong Tục Linh Hồn chớ không có Linh Hồn Thật Sự. Cho nên muốn dẹp bỏ nó không phải trong một ngày một giờ mà dẹp được.

Muốn dẹp nó phải bền chí, phải đủ sức thuyết phục mọi người phải dẹp sạch những sách vở nói về Linh Hồn với sự tưởng tượng của các nhà văn, nhà báo.

MỘT NGƯỜI ĐÃ CHẾT SAO CÒN ÓI MÁU TƯƠI

Có một Phật tử kể: chúng tôi có một ông chú, ông chú có hai đứa con, một trai một gái.
- Cậu con trai thì ruợu chè be bét, - Cô con gái thì đàng điếm trai gái toàn là những người hư thân mất nết.

Khi ông sắp chết, ông cấm không cho hai đứa con để tang, nhưng hai đứa nhậu nhẹt và dẫn bạn bè về quậy phá trong đám tang làm cho cô bác bất bình. Lúc bấy giờ thân xác ông đang liệm trong một chiếc áo quan bằng thủy tinh, vì thế mọi người đều nhận thấy máu tươi trong miệng ông trào ra.

Có người hỏi tại sao người chết rồi mà còn tức tối đến đỗi máu tươi chảy ra miệng? Người chết rồi nhưng thân xác chưa hủy hoại nên tưởng còn đang hoạt động, nếu khi thân hủy hoại tan nát còn một đống thịt hôi thối thì tưởng ngưng hoạt động. Tưởng còn hoạt động thì tham, sân, si, mạn, nghi người đó còn đủ, vì thế con cái không nghe lời dạy bảo, cứ quậy phá, dù lúc bây giờ thân xác đã chết tức là thân xác ngưng thở chớ toàn bộ thân ngũ uẩn còn nguyên vẹn thì tức giận ói máu là một lẽ bình thường, vì tai mắt, mũi, miệng họ còn nguyên vẹn có hao mất căn nào đâu.

Cho nên người không hiểu tưởng là hết thở thân xác như một khúc cây. Hiểu như vậy là sai, thân xác người mới chết không phải là khúc cây, khúc gỗ. Họ không thở nhưng tưởng của họ vẫn cảm nhận tất cả mọi sự việc xảy ra xung quanh bên ngoài, lúc bây giờ người chết cũng giống như người đang chiêm bao.

Khi nào giấc chiêm bao mất là họ mới chết thật. Khi mới chết chúng ta đừng vội tẩm liệm  mà hãy để thân xác người chết nằm ngay ngắn trên giường như người nằm ngủ. Hiện giờ nghiệp lực của họ đã tương ưng tái sinh luân hồi thành người hoặc thành loài vật khác rồi. Những người tạo nghiệp ác thường khi sống ăn thịt chúng sinh nên khi chết nghiệp ăn thịt chúng sinh tương ưng đi tái sinh làm loài vật để trả nhân quả để người và loài vật khác ăn thịt lại.

Người sống bằng thực phẩm thực vật thì tránh nghiệp tái sinh làm loài vật và cơ thể ít bệnh tật. Cho nên người ăn rau quả sống an vui và trường thọ hơn người sống bằng thịt chúng sinh.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Thu Jan 13, 2011 8:24 pm    Tiêu đề:

ĐƯA ANH TRỞ LẠI QUÊ NHÀ

Thiết nghĩ trong cuộc đời của một con người ai mà chẳng có không ít những niềm vui mênh mông và có cả những nỗi buồn vô tận. Nhất là đối với những gia đình trong những năm tháng đất nước có chiến tranh, hình ảnh người vợ trẻ ôm đứa con bé bỏng đưa tiễn chồng ra mặt trận… họ lặng lẽ nuốt nước mắt vào trong, dành cho ngày gặp lại. Và sau bao năm, chiến tranh đã lùi xa - người vợ trẻ ngày nào, bây giờ trên mái tóc đã bạc - người ra đi mãi chẳng thấy về?!

Đó là trường hợp của gia đình chị Trần Thị Nghĩa ở xã Bình Minh, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình - giữa những ngày giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ở cả hai miền Nam Bắc (1965), anh Đoàn Văn Cờ, chồng của chị – một bộ đội phục viên đã nhanh chóng trở lại quân ngũ. Ngày anh lên đường, chị Nghĩa hai tay ẵm đứa con gái nhỏ tiễn chân anh… và rồi có ai ngờ cho mãi đến khi cả hai miền đất nước tràn ngập niềm vui đại thắng, chị Nghĩa mới biết tin chồng qua mảnh giấy báo tử: anh Đoàn Văn Cờ, chồng chị đã hy sinh ngày 13 / 8 / 1986 tại… “mặt trận phía Nam” (!)

Trước nỗi đau tử biệt, chị Nghĩa chỉ còn biết âm thầm lặng lẽ đau xót phận mình và thương cho đứa con côi, suốt bao năm ròng mong gặp mặt cha. Giống như nhiều gia đình có người thân còn “nằm” lại trên các chiến trường, dù xa xôi cách trở, chị Nghĩa đã cùng các anh chị em trong nhà và nhất là sự quyết tâm của cháu Hoa – con gái duy nhất của liệt sỹ, đã bằng mọi cách liên hệ với các đồng đội cũ của anh còn sống để thăm dò nơi chôn cất di hài. Các bác, các chú và cả các cô đã cùng cháu Hoa lần dò đến nhiều nơi. Song tất cả chỉ là “mò kim đáy biển.”Mãi năm 1994, gia đình mới nhận được tin báo của Ban chính sách Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Kon Tum - thì nỗi buồn lại càng thêm sâu nặng! Bởi đó là những lời an ủi, vì chính họ cũng không biết phần mộ liệt sỹ Cờ hiện giờ đang “yên nghỉ” ở nơi đâu!? Chốn trận địa năm nào, gió núi vẫn ào ào, mưa rừng vẫn ngày đêm xối xả…

Cho mãi cuối năm 2003, tức là sau 34 năm ngày liệt sỹ Đoàn Văn Cờ hy sinh, cháu Thiêm - người cháu cùng huyết tộc mới gặp cô Năm Nghĩa - một nhà ngoại cảm có uy tín, được báo chí ca ngợi có khả năng tìm mộ liệt sỹ thất lạc. Cô Năm Nghĩa đã dùng phương pháp đặc biệt của mình để tiếp nối thông tin với những người đã khuất. Qua cô Năm Nghĩa - liệt sỹ Cờ đã chỉ cho người thân trong gia đình, rằng mộ của anh nằm trên một bìa rừng, phải đi qua Huyện Đắc Tô: đây là cầu, đoạn kia là cống và quãng xa xa là khu vực nhà rông… Liệt sỹ còn chỉ rõ mộ của mình nằm ở phía Tây cách 20 mét của một con suối, đầu quay về phía núi. Phần bên trên, sau 35 năm trên mộ không còn dấu vết. Tỉ mỉ hơn, nay trên mộ có những cây mắc cỡ (xấu hổ) trổ hoa màu tím.

Tấm vải bạt mà đồng đội cuộn xác để chôn, hiện có góc đã bị trồi lên trên mặt đất. Mộ của anh ở vị trí đầu tiên, kế đó phía bên trái là mấy ngôi mộ nữa là của những chiến sỹ quê miền Nam (có kèm theo tên tuổi và địa chỉ là các liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm, vợ là Bùi Thị Ngoạt ở phường Tân Hiệp, TP. Biên Hòa; liệt sỹ Bùi Văn Trọng, có con là Hoàng Văn Thọ ở thị trấn Bình Ba, Bà Rịa…). Cuối cùng liệt sỹ Cờ thúc giục: “Các em hãy nhanh chóng đưa anh về, kẻo mùa mưa này chắc các anh không còn trụ nỗi…”

Qua bước đầu “nắm” được thông tin coi là hệ trọng, những người thân trong gia đình liệt sỹ hẳn còn niềm vui dào dạt nào vui hơn? Và chặng đường thực hiện, dù khó khăn đến mấy, nhưng đã có cô Năm cùng đi và đến đâu cũng gặp người dẫn đường chỉ lối - mọi trở ngại cũng đã qua đi. Mấy gia đình của liệt sỹ Nguyễn Đức Tâm; Bùi Văn Trọng… cùng đi tìm mộ đã toại nguyện niềm mong đợi.

Riêng có liệt sỹ Đoàn Văn Cờ là người miền Bắc - theo lời kể lại của ông Nguyễn Minh Châu, em rể của liệt sỹ… “Ngày hôm ấy, từ bến xe Gia Lai, hai vợ chồng tôi mua 3 vé xe khách Bắc-Nam - trong đó có một vé dành riêng cho anh.

Trên đường đón và cũng là đưa anh của chúng tôi về rất an toàn. Tới Phủ Lý, tại đây có khá đông đủ anh chị em cùng các cháu công tác và sinh sống ở Hà Nội, Hải Dương… Lại có cả vợ chồng con cái của cháu Thiêm từ Tp.Hồ Chí Minh… tất cả đang túc trực và chuẩn bị sẵn sàng xe cộ, rất trân trọng đón hài cốt của anh với một niềm vui hòa quyện trong nỗi buồn khôn ngăn giọt lệ… Trên đường về Thái Bình, qua cầu Tân Đệ khá hiện đại hôm nay, chúng tôi cố ý cho xe chầm chậm để anh được lắng nghe những âm thanh quá khứ của con phà năm xưa, khi anh cùng đồng đội sang sông thẳng tiến vào Nam.

Xe vừa xuống khỏi chân cầu, đây rồi! Cháu Hoa con gái của anh! Cháu Ngọc con rể của anh, các cháu Long và Linh, cháu của anh. Và còn đây, có không ít những người thân đang chờ, đang đợi. Chỉ tiếc rằng chị Nghĩa vợ anh hiện đang ốm nên đành phải ở nhà chờ anh nơi cổng, như những ngày nào.

Đó là lúc đông đủ anh em, bà con trong gia tộc, trong làng xóm đã có mặt đông đủ để đón nhận di hài của một người chiến sỹ ngày ấy đã ra đi… Trong những tiếng nghẹn ngào nức nở... tôi hiểu, với chị Nghĩa - ngày ấy tiễn chồng lên đường, chị đâu có mong sau này đón anh trở về trong niềm vinh dự được là vợ của một anh hùng liệt sỹ! Trước anh linh của người đã khuất - chúng em và các cháu xin được đôi chút tự hào là đi tìm được di hài của anh đem về trong nỗi ngóng trông gần suốt đời chị.”

Mộ của anh đã được nằm trong nghĩa trang liệt sỹ của huyện…Trong nỗi đau mất mát có lẫn niềm vui mừng rằng: sau 35 năm anh đã trở về với bao niềm thương nỗi nhớ. Trần Ngọc Lân (Viết theo lời kể của ông Nguyễn Minh Châu và tài liệu của Liên hiệp khoa học thông tin UIA)

Đưa Anh Trở Về làm cho mọi người có người thân đã hy sinh nằm xuống trên mãnh đất quê hương đã không cầm được những giọt nước mắt. Phải rồi! Chúng ta khóc cho những người chưa được mang hài cốt về tận quê nhà, và cũng không biết những hài cốt ấy hiện giờ còn ở đâu. Chẳng hạn như em trai của chúng tôi – Lê Văn Tân, xương cốt em ở đâu? Mẹ đã chết lâu rồi, khi còn sống mỗi khi nhắc đến em, mẹ không cầm được nước mắt, mỗi chiều tựa cửa nhìn về phía bước chân em đi mà nước mắt mẹ cứ tuôn trào không dứt.
Lúc bấy giờ, em biết sao không? Anh chỉ khuyên lơn mẹ: Mẹ đừng khóc nữa mẹ, mai mốt em con sẽ về, khi nhiệm vụ làm xong.

Lời an ủi mẹ như vậy, nhưng chính anh cũng không cầm được những giọt nước mắt của mình. Vì biết bao giờ nhiệm vụ giải phóng đất nước mới xong. Giặc thì ào ạt súng đồng đại bác, xe tăng thiết giáp, còn quân đội mình đánh giặc bằng tầm vông vạt nhọn. So hai lực lượng thì biết rằng đất nước muốn giải phóng thì phải hy sinh biết bao người con thân yêu của Tổ quốc.

Ngày nay đất nước thống nhất, độc lập hòa bình, mọi gia đình có con em hy sinh thì rủ nhau đi tìm hài cốt qua các nhà ngoại cảm, họ đi khắp nơi trong nước, còn gia đình mình thì sao?

Gia đình mình đâu có người làm quan lớn thì biết dựa vào đâu mà tìm hài cốt em mình, nhiều khi người ta còn bảo em mình theo giặc chết. Thật là đau lòng. Những anh cán bộ làm tỉnh ủy viên Tây Ninh năm xưa họ đã đưa em tôi thoát ly gia đình vào chiến khu lập bộ đội để đánh giặc. Bây giờ lần lượt họ đã chết gần hết chỉ còn một vài anh chị em vì quá già nên phải hưu trí.

Nỗi đau của gia đình còn biết nói với ai bây giờ. Cha mất, mẹ mất anh em lần lượt cũng chết theo, những thế hệ con cháu về sau còn có ai biết không, nếu không có những trang sử gia đình thì ngày mai con cháu còn lấy đâu làm chứng cứ. Gia đình từ ông, cha, anh em và chị em đều đem công sức và máu xương tô đắp cho quê hương xứ sở.

Để kết thúc tập sách này chúng tôi xin khẳng định Linh Hồn Không Có mà chỉ có Tưởng Uẩn hoạt động mà thôi.

NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI ÂM

Sau khi kết thúc tập sách này thì chúng tôi nhận được một tài liệu “Nói Chuyện Với Người Âm.” Nói chuyện với người âm toàn là những người có học thức, xem thế mới biết kiến thức con người dù có học thức bao nhiêu, nhưng khi đứng trước những hiện tượng của Tưởng Uẩn thì không giải thích được. Khi không giải thích nổi thì chỉ còn biết dùng hai chữ Tâm Linh để tránh né sự ngu dốt của mình. Tâm Linh là cái thứ gì?

Chẳng qua Tâm Linh mà mọi người đều hiểu biết, đó là Linh Hồn người chết. Linh Hồn người chết chẳng qua là ảo tưởng của mọi người đặt ra qua những hiện tượng mà ý thức con người không giải thích được. Khi viết tập sách “Một Linh Hồn Có Nhiều Thể Xác”, tác giả chưa biết chắc mà dám khẳng định: “Điều tôi muốn nói là hầu hết những phần quan trọng của chúng ta như là Linh Hồn sẽ tồn tại vĩnh viễn.”

Câu này bác sĩ phát biểu quá sớm do sự lượm lặt những trạng thái tưởng của bệnh nhân mà nói ra như vậy sẽ làm mất giá trị của một bác sĩ chưa nghiên cứu Phật giáo tường tận. Trong lúc Đức Phật xác định: “Thân người do năm uẩn hợp thành.” Trong năm uẩn này Đức Phật không có xác định uẩn nào là Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn cả. Vậy mà bác sĩ dám xác định Linh Hồn tồn tại vĩnh viễn. Có lẽ bác sĩ Brian L. Weiss hơn Đức Phật ư!

Theo Đức Phật đã dạy: “Tâm Linh không phải là Linh Hồn, vì Linh Hồn không có. Tâm Linh chỉ là Tưởng Uẩn họat động giao cảm mọi âm thinh sắc tướng của mọi người còn lưu lại trong không gian vũ tru. Điều này với ý thức của con người không thể hiểu biết được, nên cho đó là Tâm Linh (Linh hồn)

HẾT
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:15 pm    Tiêu đề:

HỒN VỀ NHẬP CÔ ĐỒNG


Hỏi: Kính thưa Thầy, con đi gọi hồn, cô đồng nói đúng được tên tuổi người trong gia đình con, thưa Thầy như vậy là thế nào?

Đáp: Cô đồng dùng tưởng thức của mình giao cảm với tưởng thức của con, nên nói đúng tên họ tuổi người trong gia đình con, chứ không phải có linh hồn người chết trong gia đình con về nhập cô đồng.

Người chết, đó là danh từ chỉ cho các duyên nhân quả đã tan hoại hết, tức là thân ngũ uẩn đã tan rã không còn sót một duyên nào, thì còn đâu có linh hồn người chết.

Trong thân người đâu có linh hồn, linh hồn là một danh từ chỉ cho một hình ảnh ảo tưởng do năng lực tưởng tạo ra. Trong thân người chỉ có năm duyên như: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mà trong kinh Phật gọi là thân ngũ uẩn. Khi người chết các duyên tan rã, đâu còn một duyên nào thì làm sao gọi là người chết còn có linh hồn, như trên chúng tôi đã nói.

Cái mà người chết còn lại là hành động thiện ác, hành động thiện ác, tức là nhân quả. Khi người chết là nhân quả trở về với nhân quả. Vì thế Đức Phật dạy: “Chết trở về nhân quả”. Như vậy là đã trả lời câu hỏi thứ hai của các con.

Hành động nhân quả không thể gọi là linh hồn được. Thế sao có linh hồn nhập đồng nhập cốt?

Không có linh hồn nhập đồng, nhập cốt, mà chỉ có tưởng thức của đồng, cốt giao cảm rồi tự xưng mình là ông này, bà kia chết oan, chết ức, chết tức, chết tối, v.v...nhập vào. Người không có trí tuệ vô hạn, không hiểu biết được, nên vội tin theo lời của đồng, cốt cho là có linh hồn người chết về nhập, báo cho gia đình biết mọi sự xảy ra đúng như thật.

Nhờ báo lại những sự việc xảy ra cách 5 năm hay 10 năm đều đúng như thật, mà các nhà khoa học không sao chứng minh được, nên cũng phải đành tin theo và cho rằng có thế giới siêu hình, có sự sống sau khi chết.

Như chúng tôi cũng thường nói: Chỉ duy nhất trên thế gian này có một người không chấp nhận thế giới siêu hình, đó là đức Phật. Ngài cho rằng: “Có thế giới siêu hình thì con người không bao giờ tu hành giải thoát khổ đau được và Phật giáo cũng không có mặt ở trên đời này”.

Bởi vì, thế giới của chúng ta đang sống là do các duyên hợp, cho nên các pháp không có bản thể thường hằng. Các pháp chỉ là vô thường thay đổi liên tục, tan hợp không dừng nghỉ.

Cho nên các con đừng tin có linh hồn, tin có linh hồn là mê tín. Linh hồn chỉ là một sản phẩm của tưởng thức tạo ra. Đối với trí tuệ hữu hạn của loài người không thể hiểu được năng lực của tưởng, nếu lý giải như khoa học thì không thể lý giải được, nhưng có thể lý giải ở góc độ khác mà khoa học thì chưa đến, nên chưa chứng minh được.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:16 pm    Tiêu đề:

BORISKA - CẬU BÉ TỪ SAO HỎA

Hỏi: Kính thưa Thầy cho con được hỏi :
1. Theo bài báo này thì chuyện tái sanh của một người từ hành tinh khác tương ưng với Cha Mẹ trên trái đất vẫn có khả năng phải không thưa Thầy?
2. Tại sao đứa bé có khả năng nói nhưng chuyện về các hành tinh khác trong vũ trụ và sự thật là trên sao Hỏa có sự không hay chỉ là một hành tinh chêt thưa Thầy ?
3. Những lời tiên tri của em bé về tương lai năm 2009 và 2013 có thể tin được điều này không?
4. Ý thức về các hành động xấu mà em bé biết rõ hậu quả của các hành động đó do đâu mà có vì em là một người chưa hề biết gì về đạo đức nhân bản - nhân quả ?
5. Những vầng hào quang sáng xung quanh của một người có liên quan đến từ trường thiện và từ trướng ác hay không?

Kính xin Thầy khai thị cho chúng con được sáng tỏ. Nếu những câu hỏi của chúng con chỉ vì tò mò mà không có lợi ích thì xin Thầy tha lỗi cho chúng con.
Chúng con xin thành kính cảm ơn Thầy

Đáp: Muốn trả lời những câu hỏi này của con và để mọi người cùng hiểu cho rõ ràng và cụ thể thì xin quý vị vui lòng đọc lại câu chuyện “Boriska - cậu bé từ sao Hỏa”. Câu chuyện cậu bé từ sao Hỏa đã làm dư luận thế giới xôn xao. Chính vì thế mà chúng tôi có được những câu hỏi. Cậu bé từ sao Hỏa nếu không trả lời là phụ lòng mong đợi của mọi người. Và trả lời là vạch rõ cho mọi người biết tưởng uẩn trong mọi con người thật là kinh khủng, nó tạo ra thế giới siêu hình cũng giỏi, lý luận triết lý rất tuyệt vời, tạo ra thần thông phóng hào quang biết chuyện quá khứ, tiên tri chuyện tương lai thì ai cũng phải tin, Cho nên quý vị hãy đọc thật kỹ câu chuyện về “Boriska - cậu bé từ sao Hỏa”. để nghe những câu trả lời của chúng tôi.

“Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3 m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu... Ngày 11/1/1996, một bé trai khác thường đã ra đời tại thành phố nhỏ Volzhsky, vùng Volgograd của Nga. Bà Nadezhda Kipriyanovich hạ sinh cậu bé vào một buổi sáng đẹp trời. "Tất cả diễn ra một cách nhanh chóng và tôi không cảm thấy đau đớn gì cả. Khi các nữ hộ sinh cho tôi xem đứa bé, nó nhìn tôi với ánh mắt của một người lớn. Là bác sĩ khoa Nhi, tôi biết rằng trẻ sơ sinh không thể tập trung ánh nhìn như thế. Nhưng đứa con của tôi nhìn tôi với cặp mắt nâu mở to. Ngoài điều đó ra, nó là một đứa bé bình thường như bao đứa bé khác", bà nhớ lại.

Khi hai mẹ con từ bệnh viện phụ sản về, bà bắt đầu chú ý đến những điều kỳ lạ ở cậu con. Đứa bé được đặt tên là Boris, hiếm khi khóc và hầu như không bị bệnh. Nó lớn lên như bao đứa trẻ khác, nhưng bắt đầu nói tròn câu khi mới được 8 tháng tuổi. Khi chơi trò xếp hình, Boris làm rất hoàn chỉnh với độ chính xác rất cao. "Tôi có một cảm giác kỳ lạ là chúng tôi như những người khách lạ với nó, trong khi nó đang cố gắng hình thành mối quan hệ tiếp xúc với mọi người", bà mẹ nói. Khi Boris hay Boriska, như cha mẹ cậu gọi một cách trìu mến, lên hai tuổi, cậu bắt đầu vẽ tranh, đầu tiên là những bức vẽ trừu tượng trộn lẫn giữa màu xanh và màu tím. Xem xét các bức vẽ này, một số nhà tâm lý nói rằng cậu bé có thể tìm cách vẽ hào quang của những người mà cậu thấy xung quanh. Khi chưa tròn 3 tuổi, Boris bắt đầu nói chuyện với cha mẹ về vũ trụ.

Bà Nadezhda cho biết: "Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Đầu tiên, tôi tỏ ra sợ hãi và nghĩ rằng con mình bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. Tìm xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của mình biết rất nhiều về môn khoa học này". Tiếng đồn về nhà thiên văn học tí hon lan nhanh khắp thành phố. Boris bỗng dưng trở thành người nổi tiếng. Nhiều người hiếu kỳ tìm đến và muốn biết vì sao cậu lại biết nhiều điều đến vậy. Boriska sẵn sàng nói với các vị khách về những nền văn minh ngoài trái đất; về sự tồn tại của các chủng tộc loài người cổ, có chiều cao đến 3 m, về khí hậu tương lai và những thay đổi toàn cầu. Mọi người lắng nghe cậu bé nói với sự thích thú nhưng phần đông không tin tưởng mấy vào những câu chuyện này. Cha mẹ Boriska quyết định làm lễ rửa tội cho con trai của mình. Qua những diễn biến trên, họ nghĩ rằng có một cái gì đó không ổn nơi Boriska.

Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuý, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến. Nadezhda để ý rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. "Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp chìm, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này", bà nhớ lại. Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. "Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp". Boriska hoàn toàn lạc quan về tương lai của nước Nga. "Tình hình trong nước dần được cải thiện. Tuy nhiên, hành tinh trái đất sẽ trải qua hai năm nguy hiểm là 2009 và 2013. Những thảm họa này có liên quan đến nước" - cậu bé tiên đoán.

Gần đây, Boriska đã khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga, đã chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé. Giáo sư Vladislav Lugovenko cho biết: "Cậu ta có ảnh phổ màu da cam - điều này cho thấy cậu là một người vui vẻ, rất thông minh. Có một lý thuyết, theo đó não của người có hai loại trí nhớ cơ bản: trí nhớ hoạt động và trí nhớ biệt lập. Một trong những khả năng đáng chú ý nhất của não người là lưu trữ thông tin về trải nghiệm, cảm xúc và những tư duy cả trong lẫn ngoài, từ không gian thông tin của vũ trụ. Có một số cá nhân đặc biệt có thể thu thông tin từ khu vực này. Theo quan điểm của tôi, mỗi người được kết nối với không gian bằng những phương tiện kênh năng lượng".

Theo Lugovenko, người ta có thể đo được năng lực ngoại cảm của con người với sự giúp đỡ của các thiết bị đặc biệt. Các nhà khoa học hiện đại trên khắp thế giới đã thực hiện các công trình nghiên cứu trong nỗ lực giải mã bí ẩn của những đứa trẻ phi thường. "Boriska là một trong những đứa trẻ phi thường đó. Dường như chúng có một sứ mệnh quan trọng nhằm thay đổi hành tinh chúng ta. Một số có chuỗi xoắn ốc ADN rất tốt, giúp chúng có hệ miễn dịch mạnh một cách đáng kinh ngạc, có thể đánh bại cả bệnh AIDS. Tôi đã gặp những trẻ em như vậy ở Trung Quốc, Ấn Độ... Tôi chắc rằng chúng sẽ thay đổi tương lai của nền văn minh chúng ta", ông nói. Trong khi các cơ quan không gian hàng đầu thế giới đang cố gắng tìm kiếm dấu vết sự sống trên sao Hoả, cậu bé Boriska, 9 tuổi đã kể với cha mẹ và bạn bè của cậu mọi thứ về nền văn minh trên đó.

Một nhà báo Nga gần đây đã trò chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu: - Xin chào Boriska, cậu thực sự đã từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại? - Vâng, đó là sự thực. Tôi còn nhớ thời điểm khi tôi đã 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu hình tròn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu hình tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ. - Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không? - Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đã mất khí quyển vì thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic. - Những người sao Hoả trông thế nào? - Họ rất cao, cao hơn 7 m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường.

Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: "Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ý rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng". Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước”.

Quí vị đã đọc xong câu chuyện trên đây Thầy xin giảng trạch: “Tại đất nước Nga là nơi thường hay xuất hiện những con người TƯỞNG TRI‛. Những con người tưởng tri thường hay tiên tri những sự việc xảy ra ở tương lai. Vì thế họ không theo qui luật của nhân quả, nên những lời tiên tri của họ không đúng sự thật về tương lai. Vì nhân quả chuyển biến thay đổi liên tục không ngừng, làm sao họ nói đúng được. Bởi vì con người hôm nay làm ác, nhưng ngày mai họ sẽ làm thiện và vì thế mà nhân quả phải được chuyển hóa như cây cam chua muốn cho trái ngọt, người ta chuyển đổi bằng cách bón phân hoặc lai ghép cành khiến cho cây cam chua trở thành cây cam ngọt.

Các nhà tiên tri không hiểu nhân quả, không biết các pháp trên hành tinh này là do duyên hợp tạo thành, là sự vô thường thay đổi từng phút giây, nên những lời tiên tri của họ chỉ đúng một phần nhỏ mọi sự việc xảy ra trên hành tinh này. Do hiểu nhân quả, do biết các pháp duyên hợp vô thường nên chúng ta không tin những lời tiên tri của các thầy phù thủy sống trong ảo tưởng. Cho nên ai cũng biết nhân quả luôn theo qui luật vô thường của các pháp thường thay đổi biến chuyển không đứng yên một chỗ, một vị trí cố định nào cả. Vì thế quý vị làm sao tiên tri đúng được mọi sự việc xảy ra trong tương lai trên hành tinh này hay hành tinh khác nói riêng hay nói chung là trong vũ trụ bao la này.

Từ Đông sang Tây thỉnh thoảng có một vài người bị thần kinh tưởng hoạt động nên không tự chủ phát ngôn tiên tri bừa bãi mọi sự việc xảy ra trên hành tinh sống của con người trong tương lai như thế này như thế khác, khiến cho mọi người không hiểu nhân quả và các pháp vô thường nên lo lắng ăn không ngon ngủ không yên thật là tội nghiệp Câu bé Boriska là một nhà TƯỞNG TRI nói chuyện không đúng trên sao Hỏa. Đây chúng ta hãy nghe nhà khoa học Trịnh Xuân Thuận.

Trịnh Xuân Thuận là giáo sư Đại học Virginia Hoa kỳ ngành vật lý thiên thể (Astrophysique) nói: “Khi tôi vừa mới đến Mỹ, công cuộc khám phá Thái dương hệ bằng các con tàu vũ trụ đang bộc phát nhộn nhịp. Tôi còn nhớ sự ngạc nhiên sững sờ trước những hình ảnh đầu tiên của sao Hỏa được truyền về trái đất bởi con tàu Mariner, trên màn hình lớp học của chúng tôi. Những hình ảnh về sa mạc cằn cỗi ở sao Hỏa cho nhân loại biết rằng không có đời sống tinh thần ở đó: Những kênh đào mà các nhà thiên văn ở thế kỷ 19 lầm tưởng đã nhìn thấy chỉ là ảo ảnh được tạo nên bởi những bão cát”. Vậy mà cậu bé Boriska đã trả lời những câu hỏi của phóng viên nhà báo bằng trong tưởng tri của mình như sau:

“Một nhà báo Nga gần đây đã trò chuyện với Boriska về kiến thức và trải nghiệm đặc biệt của cậu: - Xin chào Boriska, cậu thực sự đã từng sống trên sao Hoả như mọi người đồn đại? Vâng, đó là sự thực. Tôi còn nhớ thời điểm khi tôi đã 14 hay 15 tuổi, những người sao Hoả lúc đó đang tiến hành chiến tranh cho nên tôi phải tham gia trong các cuộc đột kích từ trên không cùng các bạn tôi. Chúng tôi có thể du hành trong không gian bằng cách bay trong con tàu hình tròn. Tuy nhiên, chúng tôi quan sát cuộc sống trên trái đất từ con tàu hình tam giác. Tàu không gian của người sao Hoả rất phức tạp. Chúng có nhiều lớp và có thể bay khắp nơi trong vũ trụ”.

Cậu bé Boriska trả lời phóng viên giống như những bài báo nói về dĩa bay thám hiểm Địa cầu trong những năm về trước. Như vậy cậu bé đã lập lại những gì của con người đã nghiên cứu, nhưng cậu đã sống trong ảo tưởng nên thêm thắt sao Hỏa có chiến tranh. Trên hành tinh chúng ta đang sống có nhiều hiện tượng xảy ra như các sự việc xuất hiện những dĩa bay mà các nhà khoa học và các nhà hiểu biết chưa xác định rõ dĩa bay xuất phát từ hành tinh nào nên đều tưởng nghĩ, trong tưởng tri cho rằng dĩa bay là do người từ sao Hỏa đến hành tinh chúng ta thám hiễm. Lúc bây giờ các nhà khoa học chưa thám hiễm sao Hỏa được nên đều nghĩ tưởng sao Hoả là một hành tinh sống như quả Địa cầu của chúng ta đang ở.

Cậu bé này chỉ là một thầy phù thủy trong kiếp trước thường sống trong tưởng uẩn do tu luyện các pháp môn như: như Mật tông vẽ bùa, bắt ấn, niệm chú, hoặc tập luyện các loại thiền định ức chế tâm, nên lọt vào những trạng thái của thiền định tưởng. Vì thế thường phát ngôn theo tưởng uẩn dẫn dắt nói mà ý thức không chủ động, không điều khiển tưởng thức, không làm chủ được lời nói. Nói như người lên đồng nhập cốt. Theo quy luật của nhân quả hiện tại thì những lời nói mơ hồ không chính xác của cậu khiến mọi người không đủ lòng tin nên mới có những câu hỏi về cậu bé. Trong những lời nói của cậu có điều đúng nhưng cũng có điều không đúng. Vì thế chúng ta biết chắc kiếp trước của cậu là một thầy phù thủy, là một chiêm tinh gia. Đây, chúng ta hãy nghe tiếp cậu trả lời:

Phóng viên hỏi: “-  Hiện nay có sự sống trên sao Hoả không?

- Có. Nhưng nhiều năm qua hành tinh đã mất khí quyển vì thảm họa toàn cầu. Tuy nhiên, người sao Hoả vẫn sống dưới mặt đất. Họ thở bằng khí carbonic.

- Những người sao Hoả trông thế nào? - Họ rất cao, cao hơn 7 m. Họ sở hữu những năng lực lạ thường. Bà Nadezhda Kipriyanovich cho biết: "Khi chúng tôi đưa cậu bé ra trước nhiều nhà khoa học, bao gồm các chuyên gia UFO, thiên văn, sử học, họ đồng ý rằng cậu bé không thể bịa ra những chuyện như vậy. Những thuật ngữ khoa học và ngoại ngữ mà Boriska nói thường được các chuyên gia nghiên cứu lĩnh vực này sử dụng" Các bác sĩ về y học cổ truyền thừa nhận năng lực phi thường của cậu bé, mặc dù họ không tin cậu từng sống trên sao Hoả từ kiếp trước.

Những câu trả lời của câu bé Boriska nói về người sao Hỏa ở dưới lòng đất sống như chồn, thở bằng khí carbonic và cao 7m. Điều đó là nói trong tưởng của cậu nên không đúng sự thật. Trong khi giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xác định sao Hỏa không có đời sống tinh thần. Như vậy không có người sao Hỏa. Không có người sao Hỏa thì làm sao có chiến tranh trên sao Hỏa? Cậu bé nói trong tưởng, đã được ghi nhận những hình ảnh chiến tranh trong cõi thế gian của loài người. Một người có Tam Minh trong vũ trụ này có những hành tinh nào xảy ra điều gì mà họ không biết, Cho nên cậu chỉ nói trong tưởng mà thôi. Mọi người trên hành tinh này cũng đang sống trong tưởng tri. Họ tưởng cảnh giới Thiên đàng có Ngọc Hoàng Thượng Đế, có Nam Tào, Bắc Đẩu, có thiên binh, thiên tướng. Đó là cõi Trời được cai trị cũng giống như các nhà vua phong kiến cai trị cõi thế gian vậy. Cõi trời mà như vậy sao gọi là cõi Trời được? Con người thật là điên đảo sống trong ảo tưởng.

Đã không có con người trên sao Hỏa thì làm sao có sự tương ưng với cha mẹ trên hành tinh này mà sinh ra cậu bé Boriska. Cậu bé Boriska chỉ là một con người trên hành này có công phu tu tập Mật tông hoặc Thiền tông nên đã rơi vào trạng thái tưởng. Vì thế khi sinh cậu ra đời là có những hiện tượng thần đồng tiên tri tưởng khiến mọi người xôn xao làm động cả thế giới, nhưng cậu bé tưởng này nói không đúng hoàn toàn vì nhân quả không ai nói về tương lai đúng cả. Cậu bé Boriska tự nói theo tưởng của cậu là tự cậu đã làm mất uy danh của cậu. Cho nên ở đời ai muốn nói ra một điều gì thì phải nói đúng sự thật, đừng nói sai sự thật, đừng nói trong tưởng tức là đừng tiên tri một việc gì khi việc ấy chưa xảy ra. Đây chúng ta hãy lắng nghe cậu bé Boriska nói về tên các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng:

“Bà Nadezhda cho biết: "Nó có thể gọi tên tất cả các hành tinh trong hệ mặt trời và các vệ tinh của chúng. Nó cho tôi biết tên và số lượng ngân hà. Đầu tiên, tôi tỏ ra sợ hãi và nghĩ rằng con mình bị thần kinh và quyết định kiểm tra xem các tên này có thật không. Tìm xem trong vài quyển sách thiên văn, tôi bị sốc khi phát hiện ra cậu con trai chưa đầy 3 tuổi của mình biết rất nhiều về môn khoa học này".

Đọc xong đoạn này chúng tôi biết ngay tiền thân cậu bé Boriska là một giáo sư dạy về môn thiên văn học trên hành tinh này. Vì chỉ có trên hành tinh này con người mới đặt tên cho các hành tinh trong hệ mặt trời chứ làm gì người Hoả tinh mà biết tên các hành tinh của chúng ta đặt. Phải không quý vị? Nếu có người sao Hỏa thật sự thì họ phải đặt tên khác cho các hành tinh trong hệ mặt Trời này thì làm sao lại có tên giống như chúng ta đã đặt.

Ví dụ: Chúng ta gọi mặt Trời, mặt Trăng, sao Chổi, sao Mai, sao Hôm, sao Vua, sao Bắc Đẩu, sao Cày, Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh thì người Hỏa tinh phải đặt tên khác sao lại dùng tên của chúng ta, như vậy cậu bé này không phải là người Hỏa tinh mà là người trên hành tinh của chúng ta chết đi tương ưng tái sinh làm con của bà Nadezhda.

Vả lại nếu có người sao Hoả thì thổ nhưỡng khí hậu thời tiết nóng lạnh, mưa, nắng, gió bão đâu giống như trên hành của chúng ta, vì thế con người trên sao Hỏa tính tình phải sai khác không giống như con người trên hành tinh của chúng ta thì làm sao mà tương ưng với con người trên trái đất mà sinh họ ra được.

Ví dụ: Trên một dải đất hình cong chữ S đất nước Việt Nam, từ Bắc chí Nam người dân ở miền Bắc tính tình giọng nói không giống người dân miền Nam và miền Trung. Ngược lại cũng vậy tính tình giọng nói của người dân mỗi miền đều khác nhau, còn xa hơn mỗi nước đều khác nhau từ màu da sắc tướng, từ tiếng nói, tính tình đều có sai khác, nhưng họ là loài người cùng sống chung nhau trên một hành tinh loài người mà còn sai khác như vậy huống là người ở hành tinh khác. Cho nên chúng ta biết chắc sự sống trên hành tinh này còn sai khác huống là ở hành tinh khác thì sự sai khác còn gấp mấy trăm ngàn lần. Và như vậy làm sao có tương ưng với sự sống trên quả Địa cầu của chúng ta được. Phải không quý vị?

Môi trường sống ở đâu thì phải phù hợp với sự sống ở đó, Cho nên sự tương ưng là phải tương ưng giống nhau thì mới hòa hợp được nhau. Người ở hành tinh khác không thể tương ưng tái sinh vào hành tinh chúng ta được, vì ở đâu có sự sống riêng ở đấy. Chỉ khi nào có hai hành tinh có sự sống giống nhau thì mới tương ưng tái sinh. Vì thế nhân quả cũng theo môi trường sống mà hoạt động thành, trụ, hoại, không theo qui luật các pháp vô thường sinh diệt.

NGƯƠI SAO HỎA CÓ TƯƠNG ƯNG VỚI NGƯỜI THẾ GIAN KHÔNG?

Hỏi: Theo bài báo này thì chuyện tái sanh của một người từ hành tinh khác tương ưng với Cha Mẹ trên trái đất vẫn có khả năng phải không thưa Thầy?

Đáp: Không, không thể tương ưng được Thầy đã trả lời theo bài báo trên thì chuyện tái sinh của một người từ hành tinh khác tương ưng với cha mẹ trên trái Đất thì không có khả năng tái sinh được. Vì hành tinh khác không thể tương ưng với hành tinh chúng ta được. Ở đâu có môi trường sống riêng ở đó

SAO HỎA CÓ SỰ SỐNG KHÔNG?

Hỏi: Sự thật là trên sao Hỏa có sự song không hay chỉ là một hành tinh chêt thưa thầy?

Đáp: Thầy đã trả lời câu hỏi này của con qua lời xác định của Giáo Sư Trịnh Xuân Thuận “Sao Hỏa là một hành tinh chưa có người sao Hỏa sống ở đó”.

TÊN CÁC HÀNH TINH

Hỏi: Tại sao đứa bé có khả năng nói tên về các hành tinh khác trong vũ trụ.

Đáp: Ở trên Thầy đã trả lời câu hỏi của con: Cậu bé Boriska chỉ là hậu thân của một giáo sư trên hành tinh này dạy môn thiên văn học.  

CHỚ NÊN TIN

Hỏi: Những lời tin tri của em bé về tương lai năm 2009 và 2013 có thể tin được điều này không?

Đáp: Những lời tiên tri của cậu bé Boriska về tương lai năm 2009 và 2013 đừng nên tin mà hãy tin vào nhân quả. 

THA TÂM THÔNG

Hỏi: Ý thức về các hành động xấu mà em bé biết rõ hậu quả của các hành động đó do đâu mà có vì em là một người chưa biết gì về đạo đức nhân bản - nhân quả ?

Đáp: Những điều câu bé biết về người khác nói ra đúng nhân quả là do tưởng uẩn của cậu lưu xuất giao cảm như “Sau đó, Boriska bắt đầu nói với mọi người về tội lỗi của họ. Cậu nói với một chàng trai gặp trên đường rằng anh ta nên từ bỏ ma tuý, nói với một ông chồng không nên lừa dối vợ... Những lời tiên tri này thường cảnh báo mọi người về các rắc rối và tai họa sắp đến”.

Tưởng cậu rất mạnh thường báo động vào thân cậu:  “Nadezhda để ý rằng con trai của bà thường cảm thấy khó chịu về một thảm họa nghiêm trọng sắp đến. "Khi chiếc tàu ngầm Kursk sắp chìm, Boriska tỏ vẻ rất đau đớn. Nó cũng cảm thấy đau khổ trong cuộc khủng hoảng con tin ở Beslan và không chịu đi học trong những ngày diễn ra tấn thảm kịch này", bà nhớ lại. Khi được hỏi cảm giác về những ngày xảy ra thảm kịch ở Beslan, Boriska cho biết cậu như bị đốt nóng từ bên trong. "Giống như có một ngọn lửa đang cháy ở bên trong tôi. Tôi biết rằng câu chuyện ở Beslan sẽ có một kết cục khủng khiếp".

Con người bình thường của chúng ta cũng có sự cảm nhận nhưng yếu hơn cậu bé này. Khi có điều gì hoặc tai nạn sắp xảy ra thì mắt giựt, tâm hồi hợp, cảm nhận nóng ruột hoặc chiêm bao. Tất cả những sự việc đó xảy ra đều do tưởng uẩn báo động tác dụng vào thân và tâm của chúng ta, không có gì lạ cả.

HÀO QUANG

Hỏi: Những vầng hào quang sáng xung quanh của một người có liên quan đến từ trường thiện và từ trướng ác hay không?

Đáp: Cậu bé này tự xưng mình là người sao Hỏa mà lại phóng xuất hào quang như chư Phật Đại Thừa:  “Gần đây, Boriska đã khiến các nhà khoa học Nga quan tâm. Các chuyên gia thuộc Viện nghiên cứu sóng vô tuyến và từ tính của trái đất, Viện hàn lâm khoa học Nga, đã chụp ảnh quầng sáng phát ra mạnh mẽ một cách bất thường của cậu bé”.

Một người phóng xuất được hào quang là người ấy phải có tu tập thiền định. Đọc câu chuyện cậu bé Boriska chúng ta nhận xét cậu dùng toàn thần thông tưởng: từ sự tiên tri, sự giao cảm và nói về nhân quả của người khác đến phóng hào quang toàn là tưởng uẩn, chứng tỏ cậu bé này chỉ là tiền thân một Thầy phù thủy có khả năng luyện tập huân tu nên cậu nhớ lại trong đời này. Tất cả những việc làm của cậu không gây đau khổ cho người khác thì có liên quan đến từ trường thiện còn nếu những lời nói của câu gây hoang mang giao động xôn xao dư luận thế giới thì hào quang của cậu liên quan đến từ trường ác, và câu cũng phải trả quả ấy.
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:19 pm    Tiêu đề:

XIN QUẺ

Hỏi: Kính bạch Thầy, mấy năm con bị ốm đau. Đầu năm con đến chùa xin quẻ thẻ. Quẻ thẻ cho biết suốt cả năm, nó nói đúng 60%. Thưa Thầy trong đó có câu ghi như sau:

“Đất ở nhà ngươi có người Thần
Ta về mau đi mới được yên”.

Con xin thêm vài quẻ thẻ đầu năm đều nói lên như vậy. Con làm cơm canh cúng cũng không thấy khỏi. Sau đó con phải đến nhờ cô đồng gọi hồn xem con ốm vì sao?
Kính bạch Thầy, sau đó hồn lên nói con bị ốm bệnh về âm, vì có ông Thần đất ngay nhà con ở, ông ấy làm cho con ốm. Sau đó cô đồng bảo con về làm lễ tại nhà và rước vong xuống thờ điện nhà cô đồng, rồi cô rước vong đi chùa Hương. Cho họ ăn lộc chùa Hương, vì ông Thần này là người Tàu chết cách đây 387 năm thành ông Thần Hoàng .
Kính bạch Thầy, sau con cũng về làm đúng như vậy thì thấy bệnh có đỡ và các năm sau đó con cũng xin quẻ thẻ mà không thấy quẻ thẻ nói gì về ông Thần đó nữa. Con kính bạch Thầy, xin Thầy giải thích cho con biết.

Đáp: Tất cả những quẻ thẻ đều ghi những sự việc xảy ra chung chung trong đời người, không xác định cụ thể, giống như lời sấm. Chỉ có thể đúng 50 đến 60 phần trăm.

Khi người đến chùa hay đến điện thờ của ông đồng, bà cốt xin thẻ đều là những người có tâm trạng bất an, ý thức không còn chủ động, thường sống trong tưởng. Khi đó, người lắc hoặc rút thẻ do tưởng giao cảm khiến cho quẻ thẻ rút ra hoặc lắc được giống như tâm trạng của mình đang bị ảnh hưởng truyền thống mê tín ông Thần này, bà Chúa kia, linh hồn nọ, v.v...

Căn bệnh của con thuộc về loại bệnh tinh thần (tinh thần bệnh thì thân bệnh), vì thế con tự cúng lễ thì không hết bệnh mà nhờ có cô đồng rước vong vị thần đó về chùa Hương để hưởng lộc chùa. Cô đồng đã giải tỏa được tâm bệnh của con, cho nên bệnh con hết.
Tóm lại, vì ảnh hưởng mê tín thế giới siêu hình có ông Thần này, bà Chúa nọ, oan hồn kia, v.v...đã mang đến cho con người biết bao nhiêu là sự khổ đau về thế giới này “THẾ GIỚI TƯỞNG”, thế giới không có thật, chỉ vì tưởng của mình và tưởng của người khác giao cảm mà biết đúng những sự việc xảy ra của mình, do đó nên dễ bị kẻ khác lừa đảo, khiến cho mình khổ lại càng khổ hơn. Mình dại khờ tự mình làm khổ cho mình mà không biết, chứ quỷ Thần làm sao làm khổ mình được.

Người ta đâu biết rằng sự khổ đau hay hạnh phúc đều do hành động nhân quả thiện ác của chính bản thân mình tạo ra. Cho nên đức Phật dạy: “ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp” là để chúng ta dừng những hành động nhân quả ác. Dừng những hành động nhân quả ác có nghĩa là dừng những điều đau khổ cho chính mình và mọi người, chứ không có Thần, Thánh, quỷ, ma bắt con người đau bệnh và làm ra tai nạn khổ ách.

Về sau con xin quẻ thẻ không có nói đến vị Thần đó nữa, là vì bệnh tinh thần tưởng của con đã khỏi hẳn, nên tưởng của con không còn giao cảm với những quẻ thẻ nói đến Thần, chứ không phải vị Thần ấy đã đi khỏi nhà con.

Hiện giờ, những người mê tín là những người sống trong tưởng ấm, sống trong ảo giác, sống trong trừu tượng, mơ hồ, hư hư, thực thực. Những hạng người này dễ bị kẻ khác lừa đảo trong thế giới siêu hình.

Trong một cuộc cách mạng mê tín, nếu không giải thích được những hiện tượng siêu hình khiến cho con người càng mê tín lại càng mê tín hơn. Muốn quét sạch những truyền thống mê tín, dị đoan, lạc hậu thì phải có cơ sở giải thích những hiện tượng siêu hình kỳ lạ thì mới có thể phá và quét sạch chúng. Còn nếu chưa có cơ sở vững chắc thì không nên động đến chúng. Động đến chúng mà không giải thích được thì sự mê tín càng phát triển mạnh.

Cuối tập 3 Đường Về Xứ Phật, quý bạn sẽ được đọc một bài viết về thế giới siêu hình của một nhà trí thức học giả miền Bắc. Với mục đích viết bài này là một sự nghi ngờ quá lớn, tác giả thuật lại những hiện tượng siêu hình xảy ra qua trung gian của những nhà ngoại cảm, là để dựng lại hay nói cách khác là yêu cầu các nhà khoa học chứng minh, làm sáng tỏ: “có sự sống sau khi chết”, trong cuộc đi tìm hài cốt liệt sĩ của em mình.
Nếu không được giải thích rõ ràng thì sự mê tín càng lúc càng phát triển mạnh thì những người hiền lành dễ bị những thầy phù thủy, đồng, cốt và các nhà tôn giáo lừa đảo bằng những hiện tượng siêu hình kỳ lạ “Tiền mất tật mang”.


TƯỞNG LỰC

Hỏi: Kính thưa Thầy, con có một cô em gái cũng bị Ngài phạt, Ngài trói ghì cánh khuỷu tay, nhưng không có dây. Và trói đầu chặt lắm không gỡ ra được. Chính miệng cô em con nói ra như vậy. Chúng con là người vô minh không hiểu. Vậy chúng con tha thiết kính xin Thầy giảng giải cho chúng con hiểu rõ.

Đáp: Cô em gái của con là người chịu ảnh hưởng mê tín nặng, nghe đâu thì dễ tin theo đó, có nghĩa là cô em của con rất tin có linh hồn người chết, do lòng tin ấy mà tưởng uẩn của cô rất bén nhạy, thường hoạt động thay cho ý thức. Vì thế ý thức thường nhường lại cho tưởng thức làm việc, cho nên tâm tính cô em thường sống trong niềm tin hơn là sống với lý trí phân biệt phán xét. Do đó cô bị tưởng lực của chính cô tạo ra trạng thái như bị trói chặt hai khuỷu tay của cô.

Sự bị trói hai khuỷu tay của cô em là một trạng thái tưởng của cô em và chính cô không những cảm giác và còn thấy mình đang bị trói rất chặt.

Mọi người bên ngoài không hiểu tưởng là có (Thần Tàu) bắt phạt cô em của con đã có sự lầm lỗi với Ngài. Với trường hợp này xảy ra khiến cho mọi người ai nấy đều tin có Thần, Thánh, ma, quỷ và linh hồn người chết thật sự. Nói chung là nhờ có những trạng thái của tưởng uẩn hoạt động một cách mầu nhiệm mà trí hữu hạn của con người không thấu rõ được. Do đó thế giới siêu hình mới thành hình.

Thế giới siêu hình không thể lấy ý thức mà hiểu nó được, không thể phân tích bằng phương pháp khoa học như khám phá phân tích vạn vật bằng phương pháp vật lý hoá học của thế giới hữu hình được. Cho nên khoa học và trí hữu hạn của con người phải đành bó tay trước những hiện tượng kỳ lạ của tưởng uẩn (tưởng thức).

Cái kỳ lạ của thế giới siêu hình, chứ sự thật thì không có kỳ lạ gì hết. Vì ý thức của con người bị hạn cuộc bởi thời gian và không gian. Còn tưởng thức thì không bị hạn cuộc bởi không gian và thời gian, nên nó mầu nhiệm với ý thức, mà không mầu nhiệm với tưởng thức, với tâm thức.

Sự linh thiêng của thế giới siêu hình đối với hạng người tin nó, có những người không tin thì không có thiêng. Người sống trong trí tuệ ý thức thì không bao giờ tin có thế giới siêu hình, là những người sống không mê tín. Người thường sống trong trí tuệ tưởng thức là người tin có thế giới siêu hình, là những người mê tín.

Vì thế một người còn đang sống thì luôn luôn có hai thế giới hữu hình và vô hình, còn khi chết thì hai thế giới này cũng không còn.

Một người chết là tất cả đều hết. Hành động nhân quả hằng ngày đều trả về nhân quả. Và tất cả những hành động nhân quả ấy tiếp tục lại luân hồi tái sanh làm chúng sanh khác, thứ hai, thứ ba và thứ vô lượng kiếp.

Người nào tin có thế giới siêu hình là người sống trong tưởng thức, phán xét bằng tưởng tuệ, là người không trí tuệ, thường sống trong ảo ảnh, mơ hồ, trừu tượng, thiếu thực tế, thiếu khoa học. Còn người không tin có thế giới siêu hình là người sống trong ý thức. Người có trí tuệ, người có óc khoa học, thích sống thực tế.

Người sống trong tưởng tuệ thường bị người khác lừa đảo, thường sống trong cảnh khổ đau hơn người sống trong trí tuệ. Bệnh tật, tai nạn xảy ra thì những người sống trong tưởng thức, khổ đau nhiều hơn người sống trong ý thức.

Người sống trong tưởng thức thường tốn hao tiền của một cách ngu si, “tiền mất tật mang”. Còn người sống trong ý thức khó ai lừa đảo họ được.

Chính những nhà ngoại cảm, đồng, cốt, các tôn giáo và các hệ phái tư tưởng mang màu sắc siêu hình khác nhau, đều bị sự lừa đảo của tưởng thức mà họ không hề hay biết.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:21 pm    Tiêu đề:

THẦN GIAO CÁCH CẢM

Hỏi: Kính thưa Thầy, con có một ông chú họ, có thể nói được tầm vốc và tính tìnhcủa một người tương lai sẽ làm dâu của con.Mặc dù chưa bao giờ gặp mặt. Đã ba năm rồi khi con dâu con về nhà thì con suy ngẫm đúng hệt như ông đã nói.
Vậy con kính bạch Thầy, Thầy dạy cho con hiểu thêm.

Đáp: Đây cũng do tưởng ấm của ông chú này đã giao cảm được với cô con dâu của con mà chưa bao giờ biết mặt. Tất cả những sự việc có vẻ siêu hình và mầu nhiệm, mà hiện nay con người không thể giải đáp được, chỉ vì nó vượt ra khỏi tầm hiểu biết của ý thức loài người.

Chỉ có những người tâm không còn tham, sân, si thì mới thấy được năng lực mầu nhiệm của tưởng ấm loài người, thật là kỳ lạ và mầu nhiệm. Nhưng khi một người đã chết thì thế giới của tưởng ấm kia cũng không còn.

Trong môi trường sống trên hành tinh này, nó đầy đủ các duyên vận chuyển hợp tan không bao giờ ngưng nghỉ. Do sự vận chuyển hợp tan này mà vạn vật phải vô thường.

Sự vô thường này chia làm hai mặt:
1/ Sự vô thường về hữu hình.
2/ Sự vô thường về vô hình.

Sự vô thường về hữu hình thì ai cũng rõ, đó là sự sanh diệt của vạn hữu. Còn sự vô thường về vô hình thì ít ai biết đến. Và người ta còn lầm chấp cho rằng thế giới vô hình thì trường tồn vĩnh viễn.

Khi con người chết ở thế giới hữu hình thì họ trở về thế giới vô hình vĩnh cửu. Ở thế giới hữu hình còn chưa hiểu hết thì làm sao hiểu được thế giới vô hình. Vì thế, người ta hiểu thế giới vô hình chỉ là một sự “tưởng hiểu” Tưởng hiểu nên thế giới siêu hình không thật sự có.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)

THẤY MA

Hỏi: Kính thưa Thầy! Con đã được đọc quyển Vôga, của BunGari. Bà Vôga này là một người mù Bà nói gần đúng như Thầy. Nhưng có khác Thầy là Bà Vôga nói rằng: Bà ấy nhìn thấy ma, và ai đến xem về người âm Bà Vôga có thể nói về người chết đó hiện nay đang mặc quần áo gì, và đang đứng trước mặt Bà ấy. Vậy con kính thưa Thầy giải thích cho con được rõ thêm.

Đáp: Bà Vôga là một nhà ngoại cảm, trường hợp tưởng thức của bà Vôga giao cảm với những từ trường của những người chết hay nói cách khác là tưởng thức của bà bắt gặp từ trường tưởng thức của người chết còn lưu lại trong không gian những hình ảnh, âm thanh và hành động.

Khi bắt gặp như vậy thì Bà Vôga thấy người chết nói chuyện với Bà, và kể lại tất cả những sự việc đã xảy ra. Vì thế, Bà thấy ma và còn nói chuyện với ma, đó là năng lực tưởng thức của Bà tạo ra con ma để kể lại cho Bà nghe, và Bà nói lại cho người khác nghe, chứ con “ma tưởng” của Bà không thể nói cho người khác nghe được mà mượn thân miệng Bà nói lại. Trường hợp này cũng giống như lên đồng, nhập cốt, nhưng lên đồng, nhập cốt thì thân lúc lắc hoặc ợ, ngáp, v.v...còn Bà Vôga thì rất tự nhiên, vì Bà bị mù mắt, nên Bà thường sống với tưởng thức của mình nhiều hơn ý thức.

Ở đây chúng ta nên hiểu, tưởng của Bà giao cảm với người chết rồi mượn thân miệng bà nói lại cho người khác biết.

Ví dụ: Thân miệng của Bà làm thông ngôn cho tưởng ấm của Bà để nói lại cho chúng ta biết những gì đã xảy ra của một người đã chết từ lâu hay mới chết, chứ không phải có con ma thật nào nhập vào Bà.

Do đó, Đức Phật đã xác định: “Thế giới siêu hình là thế giới của “tưởng tri” chứ không phải là “liễu tri”. Vậy các con hãy tin theo lời Phật dạy: Thế giới siêu hình không bao giờ có chỉ là tưởng tri của con tạo dựng ra. Các con nên cảnh giác đừng để mắc lừa người khác. (Trích Đường Về Xứ Phật tập III)

NĂNG LỰC CỦA TƯỞNG

Hỏi: Kính thưa Thầy, người ta vì bốc mả người chết mà đổ nước vào trong quan tài khấn vài câu, xương nổi lên mặt nước hết vì sao? Xương bốc bỏ vào tiểu đầy không hết, đậy nắp không được, nhưng nếu khấn vài câu tự nhiên xẹp xuống và đậy nắp kín. Con kính mong Thầy giải thích cho con được rõ?

Đáp: Từ nhỏ còn bé cho đến hôm nay tuổi Thầy đã gần đất xa trời mà chưa có một lần đi bốc mả, vì miền Nam không có tục lệ như miền Bắc. Do đó Thầy không có dịp trực tiếp quan sát những sự việc xảy ra khi bốc mộ, nhưng theo sự suy tư của Thầy có hai trường hợp xảy ra:

1/ Về khoa học xương người chết, nước và không khí có tác dụng khoa học, khiến xương nổi lên và xẹp xuống.
2/ Về phần tâm linh thuộc về tưởng ấm. Khi tâm thành khấn thì năng lực tưởng của người khấn phát tác, khiến cho xương nổi lên và xẹp xuống đậy kín nắp tiểu.

Ở đây, chúng ta đừng hiểu theo kiểu mê tín có linh hồn người chết khiến cho xương nổi lên, xương nổi lên cần gì phải đổ nước vào quan tài? Nếu khấn mà linh thiêng thì khấn cho tất cả xương đều bay vào tiểu, cần gì người ta phải lượm xương chất vào tiểu.

Tất cả những sự việc trên đây mà con hỏi cũng đã khiến cho người ta phải tin rằng có thế giới siêu hình có thật. Vì không ai hiểu và giải thích được của một năng lực tưởng của người còn sống siêu thời gian và không gian.

Vì thế chỉ có những người tu hành đúng chánh pháp của Phật vượt không gian và thời gian thì mới thấu rõ được năng lực của tưởng của người còn sống thật là vi diệu.

Từ xưa đến nay loài người và các tôn giáo đều không hiểu rõ năng lực của tưởng nên lầm lạc cho đó là thế giới siêu hình. Vì thế, mà thế giới siêu hình được duy trì và tồn tại sống mãi đến ngày hôm nay. Mặc dù dân trí của loài người nhờ khoa học nâng lên tầm hiểu biết khá sâu rộng, tuy chưa hoàn chỉnh nhưng cũng tiến bộ rất xa.... Sự tiến bộ này đã bắt đầu làm rung chuyển thế giới siêu hình. Cho nên Đại Thừa và Thiền Đông Độ sẽ không còn lừa phỉnh được ai.

Rồi đây thế giới siêu hình hoàn toàn bị triệt tiêu trên hành tinh này do các nhà khoa học và đạo đức học. Và loài người không còn bị lừa đảo bởi thế giới siêu hình này nữa.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập III)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:23 pm    Tiêu đề:

BỐC MỘ

Hỏi:Kính thưa Thầy, khi nhà có người chết ba năm, sang cát xem ngày giờ tốt xấu, để bốc mộ, khi đem thi hài người chết lên. Nhờ thầy địa lý cắm hướng để mộ, cho con cháu, dâu, rể làm ăn hưng thạnh. Như vậy có đúng không thưa Thầy?

Đáp: Nếu xem ngày tốt xấu, cắm hướng, để mộ làm ăn hưng thạnh, giàu có, làm vua quan, học hành thi đỗ thì mấy ông thầy địa lý, đã tự bốc mộ ông bà mình, để hướng cho gia đình và dòng họ mình làm ăn hưng thịnh, con cháu đi học, thi đỗ làm quan, vua giàu có không ai bằng họ được.

Trên đời này chẳng có ai muốn mình nghèo khổ cả, nếu làm giàu dễ dàng, thì ai mà chẳng ham làm, Vậy sao mấy ông thầy địa không làm, để đi làm thầy địa lý có ra gì, đời sống cũng nghèo khổ vất vả như ai vậy.

Trong đạo Phật, người thông suốt đạo lý nhân quả, quán xét các ông thầy địa lý, chỉ là những người hành nghề mê tín, lừa đảo người khác để kiếm tiền sống bằng một cách vô lương tâm, phi đạo đức.

Trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc quê hương, biết bao nhiêu chiến sĩ siêu mồ, lạc mả, nhờ các thầy địa lý có khả năng siêu hình hoặc đồng cốt chỉ chỗ hài cốt siêu lạc. Do việc làm này có hiệu nghiệm, nên được mọi người rất tín nhiệm, nhưng vẫn nghi ngờ không biết cách nào mà họ hiểu được như vậy. Họ nghĩ rằng chỉ có linh hồn người chết về nhập đồng, cốt mới báo đúng như vậy được.

Họ đâu biết rằng, vốn trong mỗi người đều có thế giới siêu hình, không có không gian và thời gian trải dài và chia cắt (thế giới tưởng ấm). Cho nên việc gì xảy ra trong thời gian quá khứ xa xưa cũng như việc chưa xảy đến và bất kỳ nơi đâu, chỗ nào, tưởng ấm cũng đều giao cảm và biết rất chính xác, chỉ có điều sai, không đoán được về tương lai, là vì luật nhân quả di chuyển thay dổi từng phút từng giây, theo hành động thiện ác của con người, về chuyện quá khứ thì họ nói không sai một mảy. Do chỗ tiên đoán đúng này con người và các tôn giáo mới xây dựng thế giới siêu hình, nhưng họ đâu biết rằng, họ đã bị tưởng ấm lừa đảo, vì thế giới siêu hình không có.

Tin như vậy, mà không biết rõ, không xác định cụ thể được, thì gọi là mê tín, dị đoan, còn nằm trong sự hiểu biết trừu tượng của tưởng thức. Theo đạo Phật sự tin như vậy không đúng chánh pháp, mặc dù kinh sách địa lý của Vệ Đà kinh thuộc văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Quốc đã có trước kinh sách của đạo Phật, những kinh sách này không thấu triệt thế giới siêu hình còn lầm tưởng trong tưởng tri, vì thế đức Phật ra đời xác định lại trong những bài kinh: “Thế giới siêu hình chỉ là thế giới tưởng của loài người, do tưởng ấm của mỗi con ngườitạo ra khi họ còn sống, đến khi con người mất thì thế giới này cũng mất theo”.

Chúng ta là đệ tử của Phật, không thể tin một cách mù quáng như vậy, muốn tin một điều gì thì ý thức phải hiểu rõ ràng, không được phép dùng tưởng thức để hiểu, tưởng thức hiểu sự việc sẽ bị bóp méo, không đúng thật sự và dễ bị kẻ khác lừa đảo.
Chúng ta tin, là tin đúng lời Phật dạy, tin ở ta không làm khổ mình, khổ người, và khổ chúng sanh, thì chắc chắn, không ai làm khổ ta và không bao giờ có tai nạn, bệnh tật hiểm nghèo xảy đến cho ta.

Người ở ngoài đời, hay dễ tin, chỉ cần thấy những việc làm ngoài sức tưởng tượng hiểu biết của mình như: biết chuyện quá khứ vị lai của người khác và có một ít thần lực Khí công, Nội công, Trọng công, Khinh công, v.v.. là tin ngay liền. Những kẻ tà sư ngoại đạo lợi dụng lòng tin đó, dùng tà thuật, bùa mê, thuốc lú, hoặc những thủ thuật gian xảo bằng mọi cách giống như mình tu hành đã có thần thông, để dễ làm tiền tín đồ một cách bất lương.

Sử dụng các khoa mê tín như: bói toán, cúng bái, tụng niệm, vẽ bùa, đọc chú, trù ếm, xem ngày tốt xấu, lên đồng nhập xác, nói chuyện quá khứ vị lai của người khác, nói đâu đúng đó, hoặc thể hiện những sự thần biến ảo thuật, làm trò ma quái, khiến cho mọi người ai cũng tin theo. Do những trò bịp người lừa đảo này, mà thế giới siêu hình đến ngày nay vẫn còn chỗ đất đứng.

Những kẻ tà sư ngoại đạo, dựa vào lòng sợ hãi của con người, dựng lên thế giới siêu hình có Thần, Thánh, Tiên, Phật, quỉ, ma, địa ngục, Thiên Đàng v.v.. Luôn luôn cai trị loài người hành phạt đủ mọi cách và cũng ban thưởng; còn quỉ ma thì luôn luôn ám hại loài người, chỉ còn cách nhờ đến sư, thầy cúng bái và dùng bùa chú ếm đối, thì ma, quỉ tránh xa, người mới được bình an, tai qua, bệnh tật tiêu trừ.

Thế giới siêu hình được các tôn giáo và tà sư ngoại đạo dựng lên đã ngự trị được trong lòng người, thì mặc tình những kẻ này, ra oai tác phước, giáng họa trên đầu con người một cách dễ dàng, làm tiền cỡ nào cũng được. Bởi vậy mới có thầy cúng, thầy bói, thầy phù thủy, thầy bùa, thầy ngải, thầy tụng, thầy pháp, thầy địa lý, đồng, cốt, cô cậu v.v..
Do sự làm ăn bất lương của các vị sư, thầy đã vẽ ra bao điều mê tín lừa đảo, dần dần trải qua nhiều thế hệ con người, biến thành phong tục tập quán dân gian. Bây giờ thấy biết đó là một điều sai, không đúng sự thật, một cảnh giới mơ hồ, trừu tượng rõ ràng, không chấp nhận muốn bỏ nó, không phải dễ dàng, không phải một sớm một chiều mà dứt bỏ được liền. Muốn dứt bỏ phong tục tập quán mê tín này thì mọi người cần phải hiểu và thông suốt lý nhân quả và còn phải hiểu mọi sinh vật trên hành tinh này, được sinh ra trong môi trường duyên hợp. Trong các duyên hợp “vô minh” là một “duyên” đầu tiên trong các duyên. Nhưng vô minh nằm trong định luật nhân quả, vì có vô minh mới có thiện ác; có thiện ác mới có sự khổ vui của vạn vật.

Các pháp đều do duyên hợp mà thành, nên phải chịu luật vô thường biến dịch, không có một vật gì thường hằng bất biến trong thế gian này mãi mãi. Cái gì mà người ta nghĩ rằng trên hành tinh này còn có một vật thường hằng bất biến thì vật đó chỉ là sự tưởng tri của họ mà thôi, chứ không bao giờ có vật thường hằng bất biến được. Nếu có vật thường hằng bất biến thì các pháp duyên hợp không bao giờ có, các pháp duyên hợp không có, thì luật nhân quả không có, luật nhân quả không có, thì luật âm dương không có, luật âm dương không có, thì vạn vật không sinh nở. Nếu vạn vật trên hành tinh này không có, thì đạo Phật không ra đời, ra đời để làm gì?

Xét tận cùng, vì các pháp do duyên hợp tạo ra theo vòng quay nhân quả, nên đạo Phật ra đời giúp loài người, chủ động điều khiển nhân quả, đoạn dứt các pháp duyên hợp, để chấm dứt cảnh luân hồi, khổ đau của kiếp người.

Khi thông suốt lý nhân quả như trên đã dạy, mà còn phải tu tập, trau dồi thân tâm bằng cách sống và đối xử với mọi người đúng luật đạo đức nhân quả, thì những phong tục tập quán mê tín này mới được dứt trừ.

Còn hiện giờ, trước tiên chúng ta phải sống tùy thuận theo các phong tục hủ tục đó, nhưng khéo léo giảm thiểu:
1- Giảm thiểu sự sát sanh tối đa.
2- Giảm thiểu những sự mê tín có tánh cách phung phí nhảm nhí vô ích.
3- Giảm thiểu những sự cúng bái mê tin có tánh cách lạc hậu, lỗi thời.
4- Giảm thiểu những sự tụng niệm, trì chú có tánh cách mê tín cuồng tín của những tín đồ ngoan đạo.

Hằng ngày thường tu tập pháp hướng, nhắc tâm, dẫn tâm vào đạo, trau dồi thân tâm sống đúng đạo đức nhân quả, không làm khổ mình khổ người, tạo nhân thiện làm vui lòng mọi người, để cuộc sống luôn hưởng quả lành (phước báo). Do đó thân tâm cá nhân được thanh thản, an lạc, gia đình hạnh phúc, an vui, xã hội có trật tự, an ninh, đất nước thanh bình, phồn vinh, thịnh vượng.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập IV)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:23 pm    Tiêu đề:

CẦU CƠ

Hỏi: Kính thưa Thầy! Hằng năm sắp đến kỳ thi thì có những học sinh, sinh viên không lo học bài mà chỉ rủ nhau đi cầu cơ để hỏi vong hồn xem đề ra câu gì rồi học tủ câu đó. Chẳng may, ma, quỷ, Thần, Thánh yếu năng lực chỉ sai câu, làm hại nhiều HS, SV thi rớt chán nản, có người còn rơi vào tình trạng tuyệt vọng đến bất cần sống Thưa Thầy, cầu cơ là như thế nào? có thực vong hồn về không? Tại sao nó nói nhiều chuyện đúng thực tế làm cho nhiều người phải khâm phục mà tin theo?

Đáp: Trong thân con người gồm có 5 uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm Sắc uẩn là phần hữu hình của bốn uẩn kia thường hoạt động trên thân tứ đại (đất, nước, gió, lửa). Trong thân tứ đại gồm có sáu căn, sáu thức và thường tiếp xúc với sáu trần bên ngoài. - Sáu căn gồm có:
1- Nhãn căn
2- Nhĩ căn
3- Tỷ căn
4- Thiệt căn
5- Thân căn
6- Ý căn

- Sáu thức gồm có:
1- Nhãn thức
2- Nhĩ thức
3- Tỷ thức
4- Thiệt thức
5- Thân thức
6- Ý Thức

- Sáu trần gồm có:
1- Sắc trần
2- Thinh trần
3- Hương trần
4- Vị trần
5- Xúc trần
6- Pháp trần

Sáu căn tiếp xúc sáu trần sinh ra sáu thức, tạo thành một sự sống của muôn loài muôn vật; một thế giới quan của Phật giáo hiện bày; một thế giới khổ đau đến với cuộc sống của con người và cả loài vật; một thế giới duyên hợp tưởng tri khiến cho con người sống điên đảo lầm chấp là có thật, nên tạo ra biết bao nhiêu điều ác làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh.

Thế mà, còn chưa đủ lại tưởng tri thế giới siêu hình có linh hồn người chết, ma, quỉ, Thần, Thánh, vv… chính những hình ảnh ấy mà tưởng uẩn mới dựa vào đó mà hoạt động thành ra mới có người lên đồng, kẻ nhập cốt; mới có kẻ cầu cơ; mới có người cúng bái cầu siêu, cầu an, coi sao, bói quẻ, v.v… Tưởng uẩn là phần vô hình của thân ngũ uẩn, nhưng nó hoạt động theo sự tiếp nhận của các từ trường sắc uẩn còn lưu lại trong không gian.

Tưởng uẩn cũng có những năng lực như sắc uẩn và còn hơn nữa. Cho nên có những điều sắc uẩn không làm được mà tưởng uẩn làm được. Vì những năng lực hoạt động kỳ lạ phi thời gian và không gian ngắn hạn của tưởng uẩn, nên tri kiến, kiến thức của con người không thể nào hiểu được. Do đó họ cho những năng lực ấy là thế giới siêu hình, là có sự sống sau khi con người chết. Do không hiểu nên người ta mới tin tưởng cầu siêu, cầu an, cầu cơ, v.v...

Do cầu siêu, cầu an, cầu cơ, v.v… mà gần đây người ta thành lập ra một tôn giáo siêu hình tưởng. Nói chung tất cả các tôn giáo không chứng minh giáo lý được như khoa học là tôn giáo tưởng, tôn giáo mê tín. Cầu cơ là một hình thức cầu linh hồn người chết giáng cơ bút cho biết những điều mình ước muốn trong tương lai.

Cầu cơ là một loại mê tín tri thức, chứ không phải loại mê tín bình dân. Cầu cơ là một phương pháp tập hợp tín lực vào một đối tượng ảo tưởng để nội lực tín lực của những người có mặt trong lễ cầu cơ thực hiện những ước muốn. Nhất là những người trực tiếp cầu nguyện.

Nếu những người đặt trọn lòng tin vào cơ bút thì tưởng uẩn sẽ họat động mạnh và rõ ràng. Còn không đủ tín lực thì tưởng uẩn không hoạt động, cơ bút không về hay nói cách khác là cầu cơ không được.

Cầu cơ chẳng qua là một việc làm đánh thức năng lực của tưởng uẩn hoạt động. Năng lực tưởng uẩn hoạt động đúng thì người cầu cơ phải thân tâm thanh tịnh, nếu thân tâm không thanh tịnh thì cầu cơ không linh tức là không đúng, vì thế những học sinh cầu cơ thi rớt là vậy. Cho nên trước khi cầu cơ thì thân phải tắm rửa sạch sẽ, còn tâm thì phải giữ gìn trai giới nghiêm chỉnh, nhờ có sự thanh tịnh như vậy nên tưởng uẩn giao cảm nhận ra từ trường đúng như thật. Còn thân tâm không thanh tịnh thì tưởng uẩn không nhận ra đúng, nên tín lực tạo thành ảo tưởng, vì thế mọi việc cơ báo đều sai.

Cầu cơ cũng giống như lên đồng, nhập cốt qua một hình thức khác nhưng cũng chỉ có một tưởng uẩn hoạt động mường tưởng như linh hồn người chết về nhập vào, thay vì nhập vào người thì gọi là lên đồng, lên cốt, nhập vào cơ thì gọi là cơ bút. Cho nên cơ bút chỉ là tưởng uẩn của con người hoạt động, chứ không có linh hồn người chết hay Tiên, Phật, Thần Thánh, quỉ, ma nhập vào.

Những điều kỳ lạ xảy ra chung quanh thế giới của con người cũng chỉ nơi thân tâm con người lưu xuất, ngoài thế giới con người đang sống thì không bao giờ có thế giới vô hình nào khác. Bởi, mỗi con người đều có năm uẩn mà phần sắc uẩn chỉ có một, còn phần không hình sắc tới bốn uẩn như: 1- Tưởng uẩn (vô hình) 2- Thức uẩn (vô hình) 3- Thọ uẩn (vô hình) 4- Hành uẩn (vô hình)

Cho nên kẻ nào tin có Thiên Đàng, Cực Lạc, có linh hồn người chết, có Phật tánh, có thần thức, có ma, quỷ là mê tín, là thiếu óc khoa học, là thiếu đạo đức nhân bản - nhân quả, là những người còn lạc hậu.

Cầu cơ là một loại mê tín tri thức như trên đã nói, do những nhà tri thức mê tín, trong đó có học sinh, sinh viên và một số người có trình độ học thức cao, nhưng vẫn không thoát ra khỏi sự mê tín này, ngay cả những nhà khoa học vẫn sống trong mê tín, vì những trạng thái mê tín khoa học chưa giải thích được. Gần đây, có một số nhà khoa học dựa vào đạo học Đông phương giải thích theo khoa học vật lý. Cuốn sách “Đạo Của Khoa Học” được dịch từ sách “The Tao of Physies” của tác giả Frity of Capra do nhà khoa học giáo sư Nguyễn Tường Bách biên dịch. Tập sách dựa trên ngôn ngữ khoa Đạo Học Đông Phương, nhất là tư tưởng của Lão, Trang và Thiền Tông Trung Hoa để minh chứng một số vật lý siêu hình.

Dù cho các nhà khoa học có cố gắng làm sáng tỏ mọi vấn đề trừu tượng, nhưng vì vấn đề tri kiến của các nhà khoa học vẫn còn bị hạn cuộc trong không gian và thời gian. Vì thế không thể vượt qua hàng rào không gian và thời gian mà minh chứng được rõ ràng.

Cầu cơ là một sự đánh thức tưởng uẩn hoạt động để nó giao cảm với những từ trường mọi sự việc đã, sẽ xảy ra bằng tín lực của con người. Còn đúng sai là do thân tâm của những người cầu cơ có thanh tịnh hay không thanh tịnh như trên đã nói. Linh hồn con người không bao giờ có. Người chết chỉ còn lưu lại những âm thinh sắc tướng khi còn sống trong không gian bằng những từ trường. (Trích Đường Về Xứ Phật tập IX)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:25 pm    Tiêu đề:

ĐÀN CẮT GIẢI OAN KẾT

* Hỏi: Kính thưa Thầy, đàn cắt giải oan kết là gì ? Thưa Thầy, ở các chùa miền Bắc thường hay lập ra đàn cắt giải oan kết cho gia tiên tiền tổ rất là tốn kém. Cuối tháng 11 âm lịch năm nay, có một gia đình lập một đàn cắt giải oan kết cho các cụ, gồm có cỗ mặn, cỗ chay tụng kinh lễ bái ba ngày đêm tốn hao trên 30 triệu đồng, còn như nhà nghèo không có tiền chắc các cụ phải chịu oan kết mãi phải thế không thưa Thầy ? Theo thiển nghĩ của con thấy là quá lãng phí và tốn kém rất nhiều mà không có ích lợi gì, nếu cả đời con nằm mơ cũng chưa bao giờ có số tiền đó. Con cúi mong Thầy dạy rõ cho mọi người khỏi bị lừa gạt bởi những sự mê tín này, giúp cho mọi người sau này đỡ tốn kém và không mắc nợ vào thân.

Đáp: Trước khi muốn hiểu điều này thì chúng ta phải hiểu cho rõ ràng. Đàn cắt giải oan kết là gì? Đàn có nghĩa là lập đàn tràng nói rõ hơn để dễ hiểu là tổ chức một cuộc tế lễ cúng bái với một hình tức mê tín.

Cắt giải oan kết có nghĩa là làm cho đoạn dứt những điều oan ức của những người đã chết. Những người chết tức, chết tối, chết oan, chết không đi đầu thai được, như những người tự tử, những người lính chết trận, những người chết bị tai nạn giao thông, chết bị cướp đâm, giặc giết v.v...

Vua Đường Lý Thế Dân đánh Đông dẹp Bắc, chinh Nam, phạt Tây. Sau khi bình định được quê hương xứ sở thì những người chết oan vì chiến tranh vô số kể, vì thế vua Đường Lý Thế Dân cho người qua Thiên Trúc thỉnh kinh về lập đàn kỳ siêu giải oan kết. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ của chúng ta có làm gì oan kết với ai, có chết đường, chết sá, chết tức, chết tối đâu mà phải lập đàn cắt giải oan kết.

Kinh sách phát triển bày ra nhiều điều mê tín lừa đảo người làm hao tốn tiền của phật tử mà chẳng có ích lợi thiết thực gì. Luật nhân quả rất công bằng, trên đời này không có ai chết oan ức, nếu mọi người lái xe cẩn thận đúng luật lệ giao thông thì làm sao có tai nạn chết người thình lình, làm sao có sự chết tức chết tối. Nếu con người không có lòng tham lam không vì quyền lợi thì làm sao có chiến tranh, không có chiến tranh thì làm sao có người chết.

Bởi con người chết vì chiến tranh, chết vì thiên tai hỏa hoạn, chết vì giặc cướp, chết vì buồn khổ thất tình, thất vọng hoặc tức giận tự tử, chết vì tai nạn giao thông đều do nhân quả tự mình làm ra rồi tự mình phải gánh chịu hậu quả đó chứ không phải ngẫu nhiên mà chết.

Đối với luật nhân quả thì không có ai là người chết oan cả. Người chết thế này, kẻ chết thế khác đều do nhân quả. Người chết yểu không có nghĩa là chết oan. Người đó vô ý tự dậm đạp lên chúng sanh khiến vô số loài côn trùng và loài kiến bị chết. Người ấy đã vô tình gieo nhân ác nên gặp người lái xe thiếu cẩn thận cũng vô tình gây tai nạn chết người, khiến cho người kia chết không toàn thây, đó cũng là trả quả, như vậy đâu có phải là chết oan. Một đứa bé chơi bóng, chạy đuổi theo quả bóng ra đường bị xe cán chết, chết như vậy đâu có nghĩa là chết oan, mà chết theo luật nhân quả.

Một người phụ nữ mang thai do sự nông nổi không làm chủ được mình nên sợ tai tiếng, do đó phá thai, thai nhi bị chết và chết như vậy không có nghĩa là chết oan, mà chết theo luật nhân quả. Tất cả những sự sống chết khổ đau của con người đều nằm trong môi trường nhân quả cả, không một ai thoát ra khỏi định luật của nhân quả vì nhân quả chính là mình làm ra nhân, đến khi hái quả thì quả xử phạt lại chính mình, do đó làm sao có sự oan kết được.

Vì thế lập đàn cắt giải oan kết là một việc lừa đảo của kinh sách phát triển mà người phật tử cần phải suy tư chín chắn đừng để kẻ khác lừa gạt mình, hao tài tốn của vô ích. Là đệ tử của Phật các con đừng tin theo những tà sư ngoại đạo này mà hãy dẹp bỏ những điều phi đạo đức, không phải là của Phật dạy.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập X)

VONG LINH

Hỏi: Kính bạch Thầy, Kinh Tăng Chi, phẩm ‚Nghiệp Các Công Đức‛ trang 680, Phật dạy cho Ngài Cấp Cô Độc: ‚Vị Thánh đệ tử với tài sản... thu hoạch đúng pháp... tổ chức năm loại lễ hiến cúng... hiến cúng cho các vong linh quá khứ...‛ để đạt được đi đến hưởng thọ đúng phương xứ. Con phải hiểu và hành theo ý kinh này như thế nào cho đúng?

Đáp: Con có đọc bài kinh Pháp Môn Căn Bản chưa? Ba mươi ba cõi trời là ba mươi ba cõi tưởng. Con có đọc bài kinh Thập Nhị Nhân Duyên chưa? Khi mười hai duyên tan rã thì không còn một duyên nào cả.

Vậy thì linh hồn ở chỗ nào mà có? Ở đoạn kinh này con phải hiểu nghĩa cho chính xác:

1/ Nghĩa thứ nhất của nó sai là do người biên soạn viết ra hoặc người dịch không hiểu ý Phật nên dịch là vong linh.
2/ Nghĩa thứ hai là kinh sách Phật không bao giờ dạy có mâu thuẫn nhau.
3/ Nghĩa thứ ba trong bài kinh Tăng Chi Phật dạy đạo đức làm người, nên phải dành ra một số tiền đã thu hoạch được để sửa sang mồ mả và nơi thờ tự để tưởng nhớ công ơn Tổ Tiên, ông bà, cha mẹ, đó là lời dạy của Phật về đạo đức làm người tỏ lòng biết ơn của những người quá cố.

Đừng có hiểu theo nghĩa của ngoại đạo 'vong linh‛ mà phải hiểu theo nghĩa nhân quả 'Cây có cội nước có nguồn‛ mới đúng nghĩa đạo đức làm người. Vì thế thờ cúng Tổ Tiên không có nghĩa là thờ cúng những vong linh người chết.
(Trích Đường Về Xứ Phật tập X)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Sun Jan 16, 2011 1:27 pm    Tiêu đề:

BA NĂM CẢI TÁNG*

Hỏi: Kính thưa Thầy, ngoài Bắc có tục lệ, người chết chôn ba năm lại đào lên bốc xương đem chôn nơi khác thật là mất vệ sinh làm ô nhiễm môi trường sống và chật đất, chúng con mong Thầy dạy bảo để chúng con và mọi người thấu hiểu sự thật cái nào đúng cái nào sai để chúng con và mọi người sửa lại cho tốt đẹp và phù hợp hơn.

Đáp: Việc ba năm cải táng là một việc làm vừa hao tốn tiền của, vừa làm mất vệ sinh môi trường sống chung. Ngoài Bắc đã thành một tục lệ, tục lệ này xuất phát từ đâu? Từ những ông thầy địa lý. Trong lúc Đinh Bộ Lĩnh còn là một chú bé chăn trâu, có một thầy địa lý bên Trung Hoa sang Việt Nam đi tìm hàm rồng để cải táng nắm xương tàn của người cha vào huyệt đế vương để con cháu sau này làm nên danh phận. Khi tìm được huyệt đế vương dưới đáy hồ, ông bèn đến nhờ Đinh Bộ Lĩnh đem gói xương này bỏ xuống đáy hồ nơi có các gộp đá. Đinh Bộ Lĩnh nhận làm việc này, nhưng ông về cải táng mộ cha mình lấy nắm xương của cha bỏ vào những gộp đá trong đáy hồ, còn nắm xương cha của ông thầy địa lý kia được ném vào chỗ khác, nhờ đó sau này Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua nước ta.

Nếu chúng tôi xác định không lầm thì tục lệ ba năm cải táng là do các ông thầy địa lý bịa đặt ra để lừa đảo mọi người, làm tiền một cách bất chánh. Cải táng là để chôn vào huyệt đế vương, con cháu sau này làm ăn phát đạt sang giàu, làm quan hoặc làm vua, nhưng mãi sau này thành một tục lệ khó bỏ.

Người miền Bắc bị phong tục này nên ba năm phải cải táng, nếu không cải táng thì thấy như mình còn thiếu sót một việc gì và bị mọi người lên án là bất hiếu. Cũng như bây giờ nhà nào có người chết mà không rước thầy chùa tụng kinh thì coi như thiếu sót một việc gì và cũng bị mọi người lên án là bất hiếu, vì thế người ta quá sợ hãi những dư luận, cho nên ít ai dám đi trên dư luận để đả phá đi những phong tục mê tín lạc hậu.

Hiện giờ người ta không dám đả phá những phong tục mê tín lạc hậu, mà lại còn ca ngợi tán thán cho đó là văn hóa dân tộc thật là đáng trách.
Người ta đâu biết rằng sự giàu nghèo và làm quan, vua chúa đều do nhân quả. Nếu không gieo nhân làm vua, làm quan thì không bao giờ làm vua, làm quan được, nếu không gieo nhân giàu có thì không bao giờ giàu có được.

Tất cả đều do nhân quả thiện ác mà có những điều trên chứ không phải đi tìm huyệt đế vương là con cháu làm vua làm quan; chứ không phải đi tìm huyệt giàu sang mà con cháu sẽ giàu sang, những điều này là những điều mê tín lạc hậu, còn những loại sách địa lý là những loại sách phi đạo đức, muốn ăn không ngồi chơi mà làm giàu, muốn không đánh giặc mà làm vua, muốn không học tập mà làm quan thì thật là một điều bất công.

Đứng trên đạo đức làm người ba năm cải táng là một việc làm vô đạo đức: 1- Điều vô đạo đức thứ nhất: ông cha đã chết đi được chôn cất yên mồ ấm mả, bây giờ con cháu xúm lại móc lên, phải chi móc lên mà được sống lại thì cũng nên, móc lên để làm đám ma một lần nữa, giết hại sanh linh, tạo thêm tội ác không những cho những người còn sống mà người đã chết cũng thêm tội, chỉ có ăn uống nhậu nhẹt say sưa chứ chẳng có ích lợi gì.

2- Điều vô đạo đức thứ hai là điều bất hiếu với người đã chết rồi, ba năm để nấm mồ đất lạnh, đó là tội thứ nhất. Nấm xương tàn cuối cùng cũng chẳng yên đó là tội bất hiếu thứ hai. Giết hại sanh linh làm đám gây tạo tội cho người chết đó là tội bất hiếu thứ ba.

3- Điều vô đạo đức thứ ba là làm mất vệ sinh, gây nên môi trường sống ô nhiễm, khiến cho những người còn sống phải chịu những bệnh tật khổ đau tức là thiếu đạo đức làm người làm khổ mình khổ người. Môi trường sống của chúng ta hôm nay tràn đầy sự ô nhiễm do vô tình mà chúng ta đã thải ra trong không gian biết bao nhiêu những loại khí độc, để rồi chúng ta phải thọ chịu lấy những hậu quả của những chất khí độc đó.

Tóm lại, khi trong nhà có người chết thì chúng ta nên chôn cất một lần, xây mồ mả cho yên ấm ngay liền, đó là một việc làm tốt đẹp nhất, trong sạch nhất và đạo đức nhất của con người. “Sống cái nhà thác cái mồ”.

Thầy tin rằng mọi người khi hiểu được sự lợi ích này thì những phong tục tập quán kia sẽ được dẹp bỏ và phật tử các con là những người tiên phong đi trước để xứng đáng là những người con của Phật, sống đầy đủ đạo đức làm người, không làm khổ mình khổ người, luôn luôn phá dẹp những phong tục mê tín lạc hậu khiến cho mọi người không hao tiền tốn của một cách vô lý, khiến cho mọi người không bị những kẻ lừa đảo để rồi 'tiền mất tật mang‛, khiến cho mọi người không còn bị các tôn giáo lừa đảo bằng sự cúng bái tụng, niệm, ngồi thiền, thần thông, bùa chú v.v... làm những việc phi đạo đức. (Trích Đường Về Xứ Phật tập X)
Về Đầu Trang
phimanh



Ngày tham gia: 24 Sep 2010
Số bài: 150

Bài gửiGửi: Wed Feb 09, 2011 11:37 pm    Tiêu đề:

CÁC VỊ LẠT MA TÁI SANH


Báo chí có đăng tin các vị Lạt Ma Tây Tạng sau khi chết thần thức đã đầu thai trở lại, nên các vị nầy nhớ lại đời quá khứ của mình một cách rõ ràng. Vậy nên hiểu vấn đề nầy như thế nào?

Trong kinh Phật dạy tu tập tỉnh thức, có bốn giai đoạn:

1/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, biết rõ ràng, nhưng khi vào thai mẹ thì không còn biết biết nữa.

2/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹvà ở trong bụng mẹ đều biết rõ ràng, nhưng đến khi sanh ra thì lại không biết.

3/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ và đến khi sanh ra đều nhớ biết rõ ràng. Đến khi lớn lên thì không còn biết nữa.

4/. Tỉnh thức khi bỏ thân nầy vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ sanh ra và lớn lên đều nhớ biết rõ ràng. Các vị lạt Ma Tây Tạng đã tu tập tỉnh thức thứ tư nên nhớ lại được đời quá khứ của mình.

Đó cũng không có gì đặc biệt, chỉ cần tu tỉnh thức đúng cách mà đức Phật đã dạy pháp chánh niệm tỉnh giác định tu trong hành động ngoại và nội của thân thì sẽ có kết quả như các vị Lạt Ma Tây Tạng.
(Trích từ Cẩm Nang Tu Phật 1 www.chonlac.org)
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Huyền Bí Vấn Đáp Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân