Pàli và các phương ngữ thời Đức Phật
Trong bài trước (Nghị hội kiết tập lần thứ tư) của tỳ-kheo JINANANDA, mình lưu ý đến chữ SANSKRITIZED trong ngữ tuyến Sansritized texts; điều này làm mình liên tưởng đến giáo sư FRANKLIN EDGERTON (1885-1963) trong tác phẩm đồ sộ BUDDHIST HYBRID SANSKRIT - GRAMMAR AND DICTIONARY.
Nhưng trước khi viết tiếp, xin quí độc giả đọc một bản tin trên GIÁC NGỘ Online ngày 28-4-2013, để quí vị biết cổ ngữ Pali hiện nay được đón nhận ra sao tại Ấn Độ, quê hương sản sinh cổ ngữ này. Xin chụp nguyên văn:
PHẬT GIÁO NƯỚC NGOÀI
28/04/2013 10: 30 (GMT+7)
GNO - Chính phủ Ấn Độ gần đây đã loại bỏ tiếng Pali - một ngôn ngữ cổ - với tư cách là một môn thi chính của kỳ thi Công chức của Ấn Độ (thường được gọi là Dịch vụ Hành chính Ấn Độ hay IAS), thuộc phạm vi của UPSC (Ủy ban Liên minh Dịch vụ Công
Sự hiện diện của tiếng Pali trong kỳ thi tuyển này là một trong những lý do chính thu hút nhiều thanh niên lựa chọn việc nghiên cứu tiếng Pali và Phật học. Kỳ thi đã được chào mời như một huyết mạch quan trọng của ngôn ngữ và được ghi nhận đã đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự suy thoái của Phật giáo tại quê hương Ấn Độ.
Các học giả Phật giáo Ấn Độ hầu hết đều không ý thức rằng Chính phủ đã không xem Pali như một ngôn ngữ cổ của Ấn Độ.
(...)
Chúng tôi chỉ xin trích một đoạn chánh và quan trọng trên thôi. Muốn biết quan điểm của Phật giáo VN. XHCN về quyết định trên của Chính phủ Ấn Độ như thế nào, quí vị có thể vào Online của báo này.
*********************************************** *******
Trở lại tác phẩm vĩ đại và danh tiếng BUDDHIST HYBRID SANSKRIT - GRAMMAR AND DICTIONARY (Ngữ pháp và Tự điển tiếng Phạn hỗn chủng của Phật giáo) của FRANKLIN EDGERTON (1885-1963). Sách này xuất bản lần đầu năm 1953 rồi sau đó là các năm 1970, 1972, 1977, 1985, 1993, 1998 và 2004.
Bản chúng tôi có trong tay là bản in năm 2004 tại Ấn Độ bởi nxb Motilal Banarsidas (by arrangement with Yale University Press, New Haven), gồm hai tập khổ (28cm x 22cm) – khổ lớn nhất; nhưng lại in chữ nhỏ nhất. Tập I (Volume I: Grammar) dày 239 trang chưa kể 30 trang Phần Mở Đầu; và Tập II (Volume II: Dictionary) dày 628 trang.
Tác giả là một nhà bác học ngôn ngữ người Mỹ (American linguistic scholar) danh tiếng; tốt nghiệp Đại học John Hopkins năm 1909. Ông đã từng là giáo sư Phạn ngữ ở Đại học Pennsylvania (1913-1926), giáo sư Phạn ngữ và Ngữ văn tỷ giảo (Comparative Philology) tại Đại học Yale (1926), ông còn là giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Benares Hindu University (1953-1954) ở Ấn Độ. Ông được giới học giả thế giới chú ý với bản dịch trác tuyệt BHAGAVAD GITA (chữ Sanskrit) được Đại học Harvard lưu giữ trong văn khố Harvard Oriental Series năm 1944 cùng với nhiều tác phẩm liên quan đến Phạn ngữ (Pàli & Sanskrit) của ông.
*********************************************** *******
Chúng tôi xin trích ra đây những dòng đầu tiên của tập I để chúng ta có một cái nhìn tổng quan về ngôn ngữ thời Đức Phật Thích Ca, trang 1:
1. Introcduction, Dẫn Nhập, với nhan đề:
Languages used in early Buddhism, (Những ngôn ngữ được sử dụng thời Phật giáo buổi đầu).
1. 1. Buddhist religious texts have been preserved in at least four Indic languages. (Các bản kinh Phật giáo được giữ gìn trong ít nhất là bốn ngôn ngữ Ấn Độ)
1. 2. One is standard Sanskrit, used for example by the poet Asvaghosa (attributed to the 2nd century A. D) (Một là Phạn ngữ tiêu chuẩn, được thi sĩ Mã Minh sử dụng (thế kỷ thứ Hai sau công nguyên)
1. 3. Two of others are Middle Indic. The better known, which contains the largest Buddhist literature now preserved in any Indic language, is Pali, the sacred language of Southern Buddhism. (Hai ngôn ngữ khác là ngôn ngữ miền Trung nước Ấn. Nhưng ngôn ngữ được biết nhiều hơn trong bất kỳ ngôn ngữ Ấn nào để ghi lại trong nền văn học Phật giáo lớn nhất, là Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo miền Nam.)
******************
Theo tác giả, cũng ở trang 1 này, trong kinh Cullavagga 5. 33 có đoạn (1. 7), xin tóm tắt, như sau:
Hai tỳ-kheo vốn là anh em, sinh trưởng thuộc dòng Ba-la-môn, đến bên Đức Phật, bạch rằng “Thưa Thế tôn, các tỳ-kheo chúng con gồm đủ nguồn gốc (miscellaneous origin), xin để chúng con ghi lại bằng ngôn ngữ Vệ-Đà (Vedic) ”. Thế tôn quở: ” Này, kẻ bị mê hoặc (Deluded men), sao các người có thể nói vậy? Điều này sẽ không dẫn đến việc đảo ngược lại những gì không thể đảo ngược... (This will not lead to the conversion of the unconverted...) Và Thế Tôn thuyết một bài kinh cho các tỳ-kheo: “You are not to put the Buddha’s words into Vedic. Who does so would commit a sin. I authorize you, monks, to learn the Buddha’s words each in his own dialect. ” (Các người không được ghi lời của Phật bằng ngôn ngữ Vệ-Đà. Ai mà làm như thế sẽ phạm tội. Này các tỳ kheo, Ta cho phép các người học những lời của Phật từng chữ một phải bằng phương ngữ của riêng mình).
Rồi cuối đoạn 1. 8. tác giả viết: “It justifies us in assuming that the Buddha himself and his earliest disciples used only popular dialects as vehicles for their teachings, and refused to employ the venerated ‘Vedic’ language of the brahmans. (Điều đó minh chứng cho chúng ta thừa nhận rằng Đức Phật chính Ngài cùng các đệ tử khởi thủy của Ngài đã dùng các phương ngữ phổ thông như là phương tiện chuyển tải giáo pháp và, từ chối sử dụng ngôn ngữ được sùng thượng ‘Vệ-Đà’ của những người bà-la-môn).
(còn tiếp)
Tây Đô, trưa Hè 21-6-2019
CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
भक्तिवेदन्तविद्यारत्न
|