TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Thân Phận Dư Thừa - The Unwanted
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Thân Phận Dư Thừa - The Unwanted
Chuyển đến trang Trang trước  1, 2
 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Dài
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:24 pm    Tiêu đề:


Chương hai mươi chín

Tôi đỡ mẹ tôi trở vào nhà. Một sự im lặng ngột ngạt đè lên chúng tôi khi hai người đi bên cạnh nhau qua khu vườn. Ở trước cửa nhà, bà bác tôi đang đứng cạnh ông chồng, tay bà cầm một sô nước. Đôi môi của bà cứ chúm lại để rít mãi một điếu thuốc đã ướt mèm, tạo thành tiếng chùn chụt khó ưa. Không báo trước, bà sấn ngay lại và trút cả sô nước lên đầu mẹ tôi. Dòng nước bẩn chan hòa khắp mẹ, mẹ tôi rú lên vì kinh hoảng.

Bác tôi la lên:

- Bộ hết chuyện rồi hay sao mà gây sự trước cửa nhà tao. Mày không biết nhục hả? Bây giờ cả cái xóm này đều biết mày lang chạ với ông trưởng phường.

Mẹ tôi quay về phía bác tôi lúc này đã lùi lại vài bước để trốn đằng sau lũ con của bà và quát lên một cách khinh bỉ:

- Chết hết đi!

Rồi bà xốc lại quần áo và bước qua bà bác tôi để đi vào nhà, kệ thây những cái nhìn chòng chọc của đám họ hàng.

Bà bác tôi hầm hừ:

- Cái thứ ngựa quen đường cũ. Cầu cho có đứa nó đem cho voi dầy.

Ngay khi mẹ tôi và dì Đặng rút vào phòng, căn nhà trở lại yên tĩnh. Tôi đi sửa soạn bữa cơm chiều, nhìn con nhện đang bò vội vã trên bức tường bếp. Một con ruồi vướng phải lưới nhện cố dẫy dụa điên cuồng để tìm lối thoát thân. Con nhện khua cái chân nhỏ xíu của nó lên như thách thức. Nọc độc của nó làm con ruồi tê liệt hẳn đi. Đầu óc tôi trở nên trống rỗng như bụng ông Phật Di Lặc. Tôi lục trong chạn đồ ăn tìm xem có gì để ăn thêm cùng với món sắn. Nhưng chỉ có mỗi cái dĩa đựng muối tiêu vắt chanh. Tôi đem cả lên sàn rồi mời ông tôi, Jimmy và bé Ti vào ăn cơm.

Xong xuôi, tôi tới gõ cửa phòng mẹ tôi. Dì Đặng ra mở cửa. Nhử mắt còn dính trên đôi mắt của bà như những mảng gầu nhỏ tí hon. Tôi bước vào, sự chật chội trong căn phòng của mẹ tôi làm cho tôi cảm thấy như đang nằm trong cái quan tài đậy kín. Tôi quan sát khuôn mặt của mẹ tôi xem có còn dấu vết gì của sự buồn đau, nhưng chẳng thấy gì. Mẹ tôi ngồi ở mép giường, đang chải đầu dưới ánh đèn dầu. Tôi nói cộc lốc:

- Cơm xong rồi.

Bà hỏi:

- Kiên, có chuyện gì thế?

- Không có chuyện gì hết.

- Vậy sao mặt mày chàu bạu vậy? Đừng có gây rắc rối cho tao nữa, nghe chưa?

Tôi bước ra và nói:

- Vậy thì lát nữa mẹ ra ngoài ăn cơm.

- Nghe này. Sáng mai mẹ sẽ dẫn con ra chợ. Mẹ muốn mua vài cuốn vở và quần áo cho con.

- Bây giờ đang giữa học kỳ. Con không cần tới vở nữa. Sao mẹ không dẫn Jimmy đi.

Bà lắc đầu:

- Không.

- Tại sao?

Mẹ tôi gõ cái lược lên bàn một cách sốt tiết:

- Mẹ không muốn dẫn nó. Điều quan trọng là con phải học hành tử tế ở nhà trường. Jimmy chẳng bao giờ chịu học như con cả. Nhưng con không muốn đi thì thôi.

- Con không muốn đi.

- Được, tùy ý. Nhưng con phải học. Đừng bao giờ trách mẹ là không cố gắng tối đa để lo cho tương lai của con.

Nỗi đau buồn mà tôi ấp ủ trong mấy ngày qua đột nhiên nổ bùng lên thành cơn giận dữ. Tôi hét lên:

- Tương lai của con? Thế còn Jimmy? Mẹ có dự tính gì cho tương lai của nó không? Có khấm khá hơn tương lai của con không?

Mẹ tôi quay về phía dì Đặng, nhướng mày lên, kinh ngac.:

- Nó làm sao thế?

Rồi mắt bà hướng về phía tôi:

- Phép tắc để đâu rồi? Sao không mời dì Đặng xơi cơm?

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:25 pm    Tiêu đề:


Chương ba mươi

Nha trang, tháng Ba năm 1981

Bãi biển lúc xế chiều nom tối đi hơn dưới bầu trời nặng trĩu mầu xám. Trời không có gió nên những gợn sóng lăn tăn vỗ lười biếng lên cát. Cái cảng, vừa mới đây còn đầy thuyền bè náo nhiệt, bỗng trở nên vắng hoe sau khi cá đã được chuyển lên bờ và mang ra chợ. Một bầy hải âu lượn vòng trên bãi cát ướt hãy còn loang lổ máu cá để kiếm bữa ăn chiều. Tiếng kêu oang oác của chúng vang inh ỏi trong bầu trời u ám nghe như đoạn cuối của một bản nhạc truy điệu áo não. Hôm ấy tôi đi làm một mình, không mang theo em gái, vì tới lượt Jimmy phải trông nom nó.

Không có bé Ti, tôi chẳng cần vội vã về nhà. Tôi thủng thẳng cuốc bộ dọc theo bãi biển để ngắm cảnh hoàng hôn. Đâu đó phía chân trời, một dẫy những hòn đảo nhỏ nối nhau chạy xa tới cuối tầm mắt đã cắt đôi nền trời với mặt biển thành hai phần rõ rệt. Mặt trời đã lặn, nhưng những mảng sáng mầu cam vẫn còn ánh qua bầu trời giống như có ai cất dấu những mảnh than hồng sau những đám mây. Khi tôi tiến lại gần mặt nước, đôi chân trần của tôi chạm vào vùng đất mát rượi, làm tiêu tan cái mệt rũ trên người. Tôi hít một hơi thở thật sâu, dang hai tay ra hai bên. Không khí đượm mùi mặn của biển cả ùa vào hai lá phổi. Không nhìn thấy ai, tôi bèn giả bộ như mình đang lái một chiếc máy bay, cái trò mà từ nhiều năm qua tôi không còn chơi nữa.

- Kiên, chờ Kim với.

Tôi nghe thấy tiếng của Kim ở đâu đó sau một lùm những cây dừa nhỏ. Giọng nàng lảnh lót, xoáy vào tai tôi nghe chói tai như tiếng của bầy hải âu. Hai má tôi nóng bừng lên. Sự xấu hổ vì bị bắt quả tang đang chơi trò con nít khiến tôi ngượng chín cả từ đầu đến chân. Kể từ cuộc cãi lộn giữa bà Ba Quì và mẹ tôi, đây là lần đầu chúng tôi gặp lại nhau. Tôi vui, một phần vì được gặp nàng, một phần vì chẳng có ai khác ở ngoài bãi biển dòm ngó chúng tôi. Tôi quay lại nhìn thẳng vào Kim, vừa gãi tai vừa nói:

- Chào.

Cô chạy qua bãi cát để tới gần tôi, hỏi:

- Em gái của Kiên đâu?

- Hôm nay tôi đi làm một mình. Bé Ti ở nhà với em trai tôi.

- À ra thế... Kim đang chờ...

Cô chợt ngưng lại câu nói và nhìn tôi

Sự im lặng làm chúng tôi lúng túng. Tôi yếu ớt lẩn tránh mắt nàng. Chúng tôi đứng đối diện nhau và ngoài kia, biển cả, với những làn sóng tọc mạch, quan sát chúng tôi. Cuối cùng, tôi phá vỡ sự im lặng

- Kim vẫn khỏe chứ?

- Vẫn thế. Cám ơn anh.

Nàng dang tay rờ vào mái tóc của tôi. Mùi lá xả hòa với mùi bột phấn trên da dẻ mịn màng của nàng, tất cả tạo thành một thứ hương vị mát rười rượi. Đột nhiên tôi nhận thấy rõ cái mùi hôi hám vì cá ươn của tôi, và tôi thụt lùi lại, tránh ngón tay nàng. Dường như đọc được ý nghĩ của tôi, Kim nói:

- Anh có muốn đi tắm biển cùng với Kim không?

Tôi đang còn ngơ ngác thì nàng đã trút bỏ lớp quần áo ngoài và đứng trước mặt tôi với hai mảnh áo tắm nhỏ xíu. Lớp vải đỏ chật ép sát vào làn da ngà óng lên, làm nẩy nổi những đường cong như chính nàng đang khỏa thân trước mặt tôi vậy. Hay đó chỉ là trí tưởng tượng của tôi mà thôi? Tôi cũng chẳng phân biệt được nữa, tôi cố cưỡng lại sự khát khao nhìn ngắm thân hình nàng.

Kim chạy xuống biển. Tóc nàng bay tung lên trong gió. Bộ đùi mịn màng, thuôn, dài của nàng ngập vào trong nước. Rồi nàng quay về phía tôi. Dưới ánh sáng mầu bạc, biển cả, bầu trời và nàng hầu như cũng tan loãng vào nhau. Nàng vẫy vẫy ra hiệu cho tôi bơi theo. Tôi cởi chiếc áo sơ mi và nhẩy xuống nước đuổi theo nàng. Chẳng bao lâu, chính tôi, tôi cũng cảm thấy tan đi trong cái mờ ảo mộng muội lạ thường.

Tôi bơi cách xa Kim, không muốn nàng nhìn thấy tôi kỳ cọ dưới nước. Nàng đứng một chỗ, nhưng mà mắt không rời nhìn tôi. Qua lớp sương mỏng bốc lên từ mặt nước, tôi ngắm từng đợt sóng vỗ vào cái eo thon thả của nàng. Hai cánh tay nàng khoanh lại trước ngực như thể nàng vừa bất chợt nhận ra rằng phần trên của cái áo tắm mới bé nhỏ làm sao! Tôi rửa ráy thật mau rồi lặn xuống nước, bơi về phía Kim và trồi lên thở khi mũi của tôi chỉ còn cách đùi của Kim chỉ có khoảng nửa gang tay. Kim nhận xét:

- Anh bơi khá lắm.

Tôi gật đầu, hãnh diện:

- Tôi sinh trưởng ở đây mà. Hễ rảnh rỗi thì tôi lại đi tắm biển.

- Ước gì Kim cũng bơi giỏi như anh.

Tôi dang hai tay ra:

- Muốn tôi dậy cô không? Tôi làm huấn luyện viên giỏi lắm đó.

Nàng lắc đầu, lùi lại một bước. Tôi quả quyết:

- Tin tôi đi, dễ học lắm mà.

Vẻ mặt sợ hãi của nàng làm cho tôi thèm muốn thấy nàng khóc. Mỗi lúc tôi nghĩ đến ông ba Quì, cha của nàng, với đôi bàn tay bẩn thỉu, vô học, cùng với bản chất Cộng sản, đã từng vuốt ve mẹ tôi, là tôi lại điên tiết. Tôi với lấy bàn tay Kim và khi bắt được ngón tay lạnh giá, thì tôi túm lấy chặt hơn. Cô rút tay lại, nói:

- Hôm nay không được đâu.

Giọng tôi đùa giỡn cốt ý che dấu sự nghiêm trọng của mình:

- Hôm nay được chứ. Tốt hơn là cô chạy ngay đi. Vì tôi sẽ túm được cô và lôi cô xuống nước sâu đấy.

Coi sự hăm dọa của tôi chỉ là đùa bỡn, nàng chạy thốc lên bãi cát, la lối và cười ngất. Tôi lao lên sau. Cánh tay tôi đó, đói khát như những đợt sóng, quàng lấy hai bên eo mảnh mai của Kim và nhấc bổng nàng lên khỏi mặt đất. Má tôi tì lên một bên ngực nàng. Mùi da thịt nàng mát rượi, thơm phưng phức như mùi da con nít. Tuy thế, tôi vẫn còn luẩn quẩn nghĩ đến cha nàng và tính toán việc trả thù. Kim dẫy dụa hai chân trên không và van nài tôi ngừng lại, đặt nàng xuống

- Ha ha. Thằng Mỹ lai vớ được con bồ Cộng sẻng!

Ở trên lối đi có lát ván, một đám con trai đứng quây thành nửa vòng tròn đang vẫy và la lên nhạo báng chúng tôi. Đó là những thằng đồng nghiệp của tôi vừa đổ xong thúng cá cuối cùng và đang trên đường trở về nhà. Câu nói thô bỉ của bọn chúng làm tôi đứng ngay lại. Tôi buông lỏng tay mình và Kim tuột khỏi ngực tôi.

- Thằng lai giống chơi con đĩ Cộng sẻng. Cái lỗ dơ dáy của nó có răng đấy. Hèn chi mà thằng lai giống bị cắn mất c...

Gió cuốn những lời diễu cợt lan trong không gian trống trải, mỗi một lời của chúng như xát thêm muối vào vết thương của tôi. Kim quơ lấy đống quần áo trên cát rồi kéo tay tôi:

- Thôi mình đi, Kiên. Đừng để ý đến chúng nó làm gì.

Tôi muốn đẩy nàng ra nhưng không còn hơi sức nào nữa.

Trong ánh chiều tà, tôi nhìn Kim mặc lại quần áo. Khi xong xuôi, nàng trao cho tôi cái áo sơ mi, tôi bèn nhét ngay vào túi quần đùi vải ka ki của tôi. Nàng hỏi:

- Chúng nó chọc thế có xúc phạm anh không?

Tôi trả lời ngay, nhanh như máy:

- Sức mấy! Tôi quen rồi!

Kim nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi:

- Em hỏi anh một câu. Anh có thấy khó chịu vì em là dân Bắc kỳ không?

Thay vì trả lời Kim thẳng thắn, tôi hỏi nàng dồn dập:

- Tôi không biết. Thế Kim có thấy khó chịu vì tôi nghèo mạt cọng và lại còn lai giống nữa không? Và đừng quên là cha của cô đang tán tỉnh mẹ của tôi.

Kim lắc đầu:

- Không. Mấy chuyện ấy không quan trọng. Điều quan trọng là em thích anh. Em nghĩ anh là người đáng quí nhất trên bãi biển này. Ấy là chưa nói đến sự anh còn dễ thương nhất.

Tôi nói đùa, lòng cảm thấy nhẹ nhõm hơn:

- Ngoài mấy thằng mắc dịch đó ra, biển này chỉ có một mình tôi là thằng con trai duy nhất, so sánh gì kỳ vậy?

Kim cười, nắm lấy tay tôi:

- Mình về đi kẻo tối

- Sợ mọi người trông thấy

- Thì sao? Em tưởng anh bất chấp chuyện đó.

- Thì bất chấp chứ. Nhưng tôi không đủ thuốc liều để làm cho ba cô điên tiết lên.

Kim huých khuỷu tay vào tôi. Mái tóc của nàng cù lên cổ tôi:

- Được rồi. Khi tới đường cái lớn thì em sẽ rời anh. Nhưng mà em muốn gặp lại anh tối nay.

- Gặp làm sao được? Ở đâu?

- Anh biết chỗ em ở mà. Anh chờ em ở cổng sau, phía sau bếp, khoảng tám giờ nhé.

Tôi nói:

- Anh sẽ tới đó. Tối nay, tối mai, và bất cứ tối nào em muốn, anh cùng sẽ tới. Nhưng nhất thiết chỉ xin em một điều là giữ kín chuyện riêng của chúng mình. Anh không muốn mẹ của anh hay ba của em biết.

Kim gật đầu đồng ý, rồi chúng tôi chia tay.

Suốt một tháng sau đám tang của bà tôi, tôi theo dõi rất sát mẹ tôi và dì Đặng, để coi hai người quyết định ra sao về chuyện vượt biên. Một đêm, nằm thao thức trên giường nghe tiếng ngáy êm ả của Jimmy và bé Ti, tôi đắm mình suy tưởng. Bên ngoài cửa sổ, ngọn đèn tỏa ra ánh sáng mờ mờ vào phòng tôi. Trên từng không, trăng tròn treo lơ lửng giống như một cái bụng bầu. Gió lùa theo mùi hoa nhài thơm sực nức. Qua chiếc mùng che muỗi mỏng, bóng những thân cây dừa và những cành khế tạo thành những hình dáng mầu đen sậm.

Mẹ tôi rón rén vào phòng, đi thẳng qua chỗ em tôi ngủ. Tôi săn từng cử chỉ của bà với cặp mắt của con cáo đói mồì. Bà đập nhẹ vào vai Jimmy, lay nó và thì thào:

- Dậy đi, Jimmy.

Jimmy chống khuỷu tay lên, ngồi dậy mặt ngơ ngác. Mẹ tôi vẫn thì thào:

- Dậy. Sửa soạn đi, Jimmy. Đừng nói gì hết!

Giọng của nó líu ríu, đầy vẻ buồn ngủ:

- Mình đi đâu hả mẹ?

- Đi ra ngoài kia mẹ sẽ nói.

Jimmy leo xuống giường để đi theo mẹ tôi. Khi cả hai đi qua chỗ tôi nằm, tôi ngồi dậy và nhìn mẹ tôi gườm gườm. Miệng của tôi chỉ có thốt lên được có một tiếng: “Tại sao?” rồi tôi bật khóc.

Mẹ tôi nói:

- Nằm xuống ngủ đi Kiên. Một giờ sáng rồi.

Tôi nhẩy ra khỏi giường, chặn lối của hai người và luống cuống, nức nở:

- Tại sao mẹ chọn nó? Mẹ đừng tưởng là con không biết mẹ mưu tính cái gì rồi. Con đã nghe lén câu chuyện giữa mẹ và dì Đặng hồi tháng trước, sau đám ma của bà. Nếu mẹ không giải thích, con không cho mẹ đi đâu. Tại sao lại là nó?

Mẹ tôi đặt tay lên vai tôi:

- Mẹ cần có mày ở đây với mẹ. Con là đứa lớn nhất trong nhà này. Làm đàn ông, con phải có bổn phận trông nom gia đình. Ngoài ra, Jimmy nó còn quá nhỏ. Nếu có xẩy ra chuyện gì thì công an cũng không bỏ tù nó. Ở vào trường hợp con thì rủi nhiều may ít, làm sao mẹ để cho con đi được. Vậy hãy để cho nó đi. Trong một tiếng nữa nó phải xuống ghe rồi.

Giọng tôi run bần bật như thể trời đang lạnh lắm vậy:

- Con chẳng phải là đàn ông, chỉ là một đứa con nít thôi, mẹ ạ. Thực ra, con chưa tới mười bốn tuổi. Họ bắt con cũng chẳng thể giam con suốt cuộc đời được. Mà nếu họ có làm như thế, con cũng không ngán. Con không thể sống như thế này được nữa. Con muốn đi, con xin mẹ.

Bà bấu những móng tay vào da tôi, lối trừng phạt quen thuộc mỗi khi tôi hư đốn, rồi rành rọt:

- Nghe tao đây. Mày chán sống như thế à? Vậy ai muốn đây? Từ khi hai đứa còn bé, bao giờ tao cũng chiều mày hơn nó. Lúc nào mày cũng có đồ chơi tốt hơn, chia bánh thì mày có phần to hơn, được cưng hơn, săn sóc hơn là nó. Vậy chỉ một lần này thôi, mày hãy để cho nó được đối xử ưu tiên. Mẹ cần có mày ở đây. Thôi đi về giường ngủ đi.

Từ phía sau mẹ tôi, Jimmy lên tiếng:

- Thực sự có phải là con sắp sửa đi vượt biên không mẹ?

Tôi trả lời nó, với nỗi cay đắng:

- Đúng đấy, Jimmy. Mẹ để cho mày vượt biên với dì Đặng. Đêm nay là đêm hên của mày đó.

Nó lắc đầu, tỏ vẻ sợ sệt:

- Không! Con muốn đổi chỗ cho anh Kiên. Mẹ để cho anh ấy đi. Anh ấy muốn đi còn hơn con nữa.

Hy vọng trở lại, tôi quay về phía mẹ tôi:

- Con sẽ giúp được mẹ nhiều hơn một khi con tới Mỹ. Con xin mẹ, nếu mà con phải ở lại, con sẽ tự tử đấy.

Mắt mẹ tôi nhìn qua nhìn lại giữa em tôi và tôi. Vớ lấy cơ hội, tôi thúc đẩy thêm:

- Con nói thật đấy, mẹ. Nếu mẹ giữ con ở đây, con sẽ chết lần, chết mòn. Mẹ sẽ có cơ mất cả hai đứa. Mẹ cứ hỏi dì Đặng xem thử dì nghĩ sao khi mất cả mấy đứa con. Ngoài ra, Jimmy đâu có muốn đi. Tại sao lại ép nó?

Mẹ tôi thốt lên một tiếng kêu nho nhỏ, bà quơ tay để xua tôi:

- Mày muốn đi thì đi đi! Dì Đặng đang chờ ngoài cổng.

Tôi chạy ra cổng, chỉ sợ mẹ tôi đổi ý. Có tiếng mẹ tôi gọi. Giọng của bà làm tôi khựng lại:

- Khoan chút đã. Chờ mẹ, mẹ sẽ dẫn con ra.

Quay lại phía em tôi, mẹ nhìn vào mặt nó, nói một cách rành rẽ:

- Nó đi rồi là từ nay làm anh cả đó. Con phải trông nom bé Ti và đỡ đần mẹ đủ mọi thứ. Từ giờ trở đi, con là anh trai lớn nhất của mẹ. Con có hiểu mẹ nói gì không?

Jimmy gật đầu.

- Vậy tốt. Vào giường đi. Mẹ đi ra ngoài một chút sẽ trở về.

Jimmy chạy lại phía tôi. Nó choàng tay ôm lấy eo ếch tôi và xiết chặt:

- Anh đi may mắn nhé, anh Kiên. Em thương anh lắm.

Tôi tránh qua một bên. Hai má tôi nóng bừng vì hổ thẹn.

Mẹ tôi dắt tôi ra khỏi nhà. Bên kia đường, dì Đặng đang đứng chờ sau một thân dừa. Vẻ mặt của dì chuyển từ sự khích động sang ngạc nhiên khi dì nhìn thấy tôi. Bà hỏi:

- Chị quyết định cho Kiên đi thay à?

Mẹ tôi gật đầu, vuốt ve tóc tôi rồi nói tiếp:

- Thằng kia không chịu đi. Săn sóc nó giùm tôi, Đặng nhé. Cố sao cho nó không bị tai nạn gì. Tôi cậy bạn, trao cả tính mạng nó cho bạn đó.

Dì trả lời:

- Dĩ nhiên rồi. Tôi sẽ nhận nó làm con nuôi khi tới được Mỹ. Sẽ lo cho nó học hành tử tế và luôn luôn nhắc nhở nó nhớ tới bạn để nó không quên gốc gác của mình.

Mẹ tôi òa lên khóc, dưới ánh sáng xanh xao của ngọn đèn đường, tôi nhận thấy những vết rạn chân chim nơi đuôi mắt của bà, và những lọn tóc mầu xám ở quanh thái dương. Tuy nhiên, mắt bà vẫn sáng ngời. Bà thì thầm với tôi:

- Coi, con cũng đã lớn gớm, cao hơn cả mẹ rồi. Từ nay trở đi, con đi theo dì Đặng. Dì sẽ thay mặt mẹ trông nom, săn sóc con. Vậy hãy nghe lời dì, hãy kính trọng dì như thể con đã kính trọng mẹ. Mẹ thương con lắm, Kiên à. Hãy tự lo cho mình, con nhé!

Bà đẩy tôi vào ngực dì Đặng lúc ấy cũng đang khóc. Tôi nói:

- Mẹ chào từ biệt ông ngoại giùm con. Nói với ông là con yêu ông.

Mẹ tôi thì thầm:

- Đi đi! Cầu Trời Phật phù hộ độ trì cho con tôi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:26 pm    Tiêu đề:


Chương ba mươi mốt

Khoảng hai giờ sáng, chúng tôi tới bãi biển. Khu bến tầu, nơi tôi nhận cá để đem giao cho ngoài chợ lúc này vắng hoe. Ở cuối chiếc cầu tầu nhỏ hẹp và hẻo lánh, một chiếc thuyền chèo bằng gỗ nhỏ đã đợi sẵn. Chúng tôi chạy ngang qua bờ biển, cứ mỗi bước lại thấy nền cát trở nên ướt và mềm hơn, ngấm vào đôi dép của tôi. Bóng một người tối đen nhẩy từ trên thuyền xuống và giơ tay vẫy dì Đặng. Dì vẫy lại.

- Chào bà. Bà canh giờ đúng lắm.

Trên tấm ngực trần, những chỗ có ánh sáng chiếu vào, những đường nét bắp thịt vồng lên lấm tấm mồ hôi dầu. Cặp môi mỏng của hắn không che kín hết hàm răng vổ sáng lên trong bóng tối như ánh đèn huỳnh quạng

Dì Đặng và tôi ngồi tụm lại với nhau trên một băng ghế gần đuôi thuyền. Người đàn ông chèo một cách thiện nghệ, thỉnh thoảng lại dùng một cái địa bàn để dò phương hướng. Con thuyền hướng mũi về phía đông và đi qua dẫy đảo đen tối, mờ mờ qua màn sương.

Trên cao, bầu trời lung linh cả triệu vì sao. Trăng chiếu trên lớp sóng biển thành hình những đồng tiền bằng bạc, tỏa ánh sáng chan hòa trên mặt nước. Bầu không khí mặn mùi biển mơn man trên làn da của tôi. Con thuyền lướt đi nhẹ nhàng trong im lặng, mỏng manh như một chiếc lá.

Tôi hỏi dì Đặng:

- Mình đi đâu, hả dì? Còn những người khác đâu?

Người đàn ông trả lời:

- Yên lặng. Nhãi con, càng biết ít bao nhiêu càng tốt cho mày bấy nhiêu.

Dì Đặng nói với tôi:

- Chúng ta đi tới hòn Rùa. Tới đó, mình sẽ chờ thuyền khác, lớn hơn.

Càng đi, biển càng trải rộng thêm ra quanh chúng tôi. Ở bên mạn thuyền, sóng vỗ thành tiếng thì thầm đều đặn. Cuối cùng, người đàn ông nói:

- Đến rồi.

Ngồi quay mặt về phía đuôi thuyền, tôi không nhận ra là đã cập tới đảo cho tới khi đáy thuyền chạm phải những hòn đá ngầm.

Trong lúc tìm chỗ để cập bờ, người đàn ông nói:

- Nghe này, đây là đảo con Rùa. Hình dáng nó khòm khòm như mu rùa nên người ta gọi nó như thế. Đảo nằm ngoài khu vực giới hạn của dân cư. Thân rùa là núi. Bãi biển là chân rùa. Ngọn núi có tới ba lớp. Mình sẽ tới lớp giữa. Nếu leo cao hơn nữa, đám tàn quân của chế độ cũ còn sót lại sẽ giết mình đấy. Còn nếu gần dưới thì lại rơi vào tay bọn cộng sản. Tụi nó cứ bắn tới trước rồi mới hỏi sau. Cho nên phải cực kỳ cẩn thận. Cũng có khi mình đi lạc vô vùng của toán đốn gỗ rừng. Cũng tránh họ đi, nếu có thể. Tầu lớn sẽ tới vào đêm mai. Bây giờ, hãy chuồn khỏi đây ngay trước khi bọn chó vàng đánh hơi thấy mùi chúng ta.

Anh ta muốn ám chỉ toán công an cộng sản, vốn vẫn mặc đồng phục mầu vàng sậm.

Đảo rùa là một khu rừng rậm rạp với những cây nhiệt đới và dầy đặc những bụi dâu dại. Bụi cây mọc tràn ra bãi biển, lấn tới tận mé nước, nên là một chỗ lý tưởng cho việc ẩn núp. Chúng tôi đi sâu vào trong rừng theo một con đường nhỏ hẹp xuyên qua một khu đầm lầy. Ruồi và muỗi cuốn lên đen nghịt theo bước chân chúng tôi, những tiếng vo vo ồn ào phá vỡ sự yên lặng.

Người đàn ông trao cho chúng tôi mỗi người một túi xách và nói:

- Giữ lấy. Trong đó có phần ăn và mấy cái mền cho tối nay. Coi chừng cát lún. Giữ chân chỉ bước trên đá thôi. Đừng có quên cả rắn nữa đấy.

Chúng tôi chạy theo một hàng qua con đường ẩm ướt và ngoằn nghèo dẫn đến khu vực chính giữa của mu rùa. Dưới chân chúng tôi, đất bùn bị bao phủ bởi những lớp lá rụng trơn tuồn tuột làm chúng tôi đi chệnh choạng lúc leo lên đồi.

Những người còn lại của nhóm vượt biên đang chờ đợi chúng tôi tại một vùng đất trống cách con đường mòn không xa lắm. Có tất cả chừng ba chục người, toàn phụ nữ với trẻ em, không có ai nhỏ dưới mười tuổi. Những tấm chiếu nylon của họ trải rải rác trên mặt đất được chặn giữ bằng những cục đá. Vài người đàn bà rúc vào trong mền để tránh gió lạnh. Những người đàn ông duy nhất trong nhóm là hai người lãnh đạo. Người trẻ hơn dẫn chúng tôi tới chỗ hẹn tên là Cần. Người lớn tuổi hơn là bố anh ta, tên là Can. Cách đây vài tháng, ông ta mới đi cải tạo về. Nghe nói rằng ông ta đã từng là trung sĩ dưới chế độ cũ. Ông ta cũng cởi trần và đi chân đất. Cái quần ka ki cắt ngang ống đã bạc mầu che nửa thân dưới, và ở chỗ thắt lưng của ông, tôi thấy thò ra một cái báng súng lục bằng thép. Bên má trái của ông có một cái thẹo to tướng, xấu xí mà mỗi lần ông nói nó bò lồm ngồm như một con thằn lằn. Đôi mắt đen của ông sáng ngời, khi ông giới thiệu chúng tôi với mọi người.

Chúng tôi được sắp xếp chung chỗ với hai người khác đưới một cây me dại, gồm một thiếu nữ với em trai.

Đì Đặng ngồi trên một phiến đá, mệt lả sau một cuộc đi bộ dài. Dì vừa vẫy tôi lại vừa lau mồ hôi trán và nói:

- Lại đây, Kiên. Ngồi nghỉ đây với dì.

Thằng nhỏ gật đầu chào tôi:

- Chào cậu đã tới đảo Rùa.

Nó trạc tuổi mười lăm, mặt đầy tàn nhang và cặp mắt xếch nhỏ xíu như mắt con hình nộm trong tuồng tầu. Nó và tôi là hai thằng con trai lớn tuổi nhất trong nhóc ở đây.

Chị của nó lớn hơn, lớn hơn nó độ vài tuổi, tay chân thon thả. Tôi giúp chị dọn đống lá khô để lấy chỗ nghỉ ngơi. Chị ngước lên, mỉm cười với tôi. Khuôn mặt của chị với hai gò má cao có vẻ xanh xao tương phản với đôi môi hồng. Cả chị ấy nữa, bộ dạng thanh cao như nàng công chúa làm bằng con rối.

Tít trên cao, qua khỏi những vòm cây, vầng thái dương hé dạng tỏa xuống mặt nước mầu xanh thẫm, xua tan đi cái bóng tối bàng bạc. Vài đứa trẻ moi đồ ra ăn sáng từ trong những cái túi xách. Các bà thì trông chừng những đứa nhỏ và tơ tưởng đến đời sống mới tại Mỹ. Dì Đặng nói với tôi:

- Lại đây cưng, để dì chải đầu cho.

Tôi ngồi xuống trước mặt dì. Tay dì mềm mại vuốt ve da đầu của tôi. Dì nói với tôi dịu dàng:

- Hết xẩy. Đêm nay mình sẽ lên tầu. Biết đâu đấy, chỉ trong một tuần ngắn ngủi mình đã tới Hồng Kông hay Phi Luật Tân, hay Mã Lai, rồi thì tới Mỹ. Dì thì nhất quyết sẽ định cư ở Cali và đi tìm lũ nhỏ. Cháu cùng ở với dì, mình sẽ kiếm một căn nhà ở bờ biển, cũng đại khái như hồi ở Nha Trang. Khi đã kiếm được lũ nhỏ rồi thì cháu sẽ là anh của tụi nó. Cháu sẽ đến trường và học bất cứ cái gì cháu thích. Rồi cháu lại có thể bảo lãnh cho gia đình đi Mỹ. Cháu có thích giấc mơ đẹp này không?

Thay vì trả lời, tôi chỉ nhích sát lại gần dì hơn.

Tối hôm ấy chúng tôi ăn gà nướng gói sẵn trong ba lô, trong khi anh Cần rời khỏi trại để chờ tín hiệu của tầu ở ngoài bờ biển. Túm tụm vào nhau trong bóng tối, mình choàng tấm mền mỏng, chúng tôi tuy khá lạnh nhưng lòng tràn trề hy vọng. Vài đứa nhỏ đã ngủ lăn ra trong khi những đứa khác thì lục sục không ngừng. Một bà cụ già ngồi chồm hổm dưới đất để đi tiểu. Có người thì cố nén tiếng ho. Quanh chúng tôi, rừng cây ẩn dấu sau lớp sương dầy đặc. Co tròn mình dựa vào thân cây, tôi chìm vào giấc ngủ say trong vòng tay dì Đặng.

Khi tôi tỉnh dậy, bầu trời buổi sáng đã trở nên trắng như sữa. Trên các chòm cây cao, sương mù đã tan chỉ còn vài cụm lảng vảng ẩn hiện trong khu rừng cây xanh. Phía đằng trước tôi, dì Đặng và một vài phụ nữ nữa đang nói chuyện với anh Cần. Tôi cuộn tấm mền vòng quanh vai rồi tiến lại nhập bọn với họ. Một bầu không khí ảm đạm bao phủ chung quanh mọi người. Anh Cần nói:

- Cháu không biết gì hết. Chỉ có nước là ngồi đợi thôi.

Có tiếng ai đó hỏi:

- Đợi bao lâu?

Anh ta bước đi:

- Làm sao biết được, nhưng cũng có thể mình phải ở lại đây vài ba ngày nữa.

Tôi hỏi dì Đặng:

- Chuyện gì xẩy ra thế gì?

Bây giờ dì mới chú ý đến tôi. Cặp mắt của dì có vẻ hoảng hốt như con hươu mắc bẫy:

- Đêm hôm qua, có đứa nào lấy mất thuyền mang đi rồi.

Tôi thốt lên kinh hoảng:

- Ôi trời. Cái thuyền lớn chở chúng ta đi Mỹ ấy ư?

Dì lắc đầu:

- Không cái thuyền nhỏ thôi. Còn cái tầu lớn thì chưa thấy tín hiệu gì cả, nên mình mới kẹt ở đây, không có lối ra.

- Mình làm gì bây giờ?

- Chờ thôi.

Dì trả lời như một cái máy, như thể nhái lại lời của anh Cần.

Ngày hôm sau trôi qua một cách lặng lẽ. Chúng tôi xúm lại với nhau để giữ hơi ấm. Dì Đặng nhìn tôi ăn thức ăn nguội mà không động đũa. Trên đầu chúng tôi, mây đen bắt đầu vần vũ.

Qua ngày thứ ba, trời mưa. Tôi chạy ra ngoài trên nền đất ướt sũng, nhập bọn với lũ trẻ để tắm mưa, đồng thời hứng nước mưa vào những bình trống để dự phòng về sau. Đám người lớn thì ẩn dưới các tàn cây xung quanh để tránh bị ướt. Niềm hy vọng cứ teo dần với số thực phẩm mang theo. Phía dưới chúng tôi, biển như một đĩa thạch mầu xanh lam khổng lồ, rung rinh theo những cơn giông.

Tới ngày thứ năm, các bà đi rải rác vào rừng để kiếm nấm dại, dâu và rau cỏ trong khi hai người đàn ông thì câu cá ở ngọn suối gần đó. Đảo chỉ cung ứng được chút đỉnh tạm gọi là đồ ăn. Rau dền biển, dâu dại là những loại rau cỏ đạm bạc mà chúng tôi hái được gần đầm lầy. Mặc cho những người lớn cảnh cáo, chúng tôi đem luộc lên ăn và đến đêm hôm ấy thì ngã bệnh kịch liệt. Sáng hôm sau, khi mưa lạnh lại đổ xuống đảo, chúng tôi vẫn phải mang đi giặt mớ quần áo đã bị ói mửa lên. Sau vụ này, mặc dù có đói đến thế nào, chúng tôi cũng chẳng dám đi kiếm thực phẩm bậy bạ nữa. Đám con nít thì đã mút tới viên đường phèn cuối cùng trong khi đám người lớn thì ngủ cho quên đói.

Vào buổi chiều của ngày thứ sáu, dì Đặng lén lút kéo tôi vào tận sâu trong rừng, tránh xa đám người kia. Khi cách trại ít nhất vài chục thước, dì mở chiếc khăn choàng ra và cho tôi thấy vật bên trong. Trên tay dì ba quả trứng luộc nổi bật lên như một phép ảo thuật. Dì thì thào với tôi:

- Đây, cưng. Ăn lẹ lẹ đi kẻo có người trông thấy.

Mắt tôi thèm thuồng dán vào món ăn trong tay dì, tôi hỏi:

- Dì lấy ở đâu ra vậy?

Dì trả lời:

- Của dì. Để dành cho con.

Tôi nhai nhồm nhoàm:

- Thế còn dì? Dì không đói à?

Dì mỉm cười lắc đầu:

- Không, cưng, của con hết đó. Cứ tự nhiên, ăn hết đi.

Khi chúng tôi quay lại trại thì ông Can đang chủ trì một phiên họp khẩn cấp trên nền đất bẩn. Dì Đặng và tôi cũng nhập bọn. Ông ta đứng trên một phiến đá, nhìn xuống lũ chúng tôi, lưỡi liếm môi một cách bồn chồn. Cũng như những người khác, ông ta cũng bị gầy sút đi trong sáu ngày vừa qua. Bộ ngực của ông lép lại, xương sườn lồi lên thấy rõ. Ông nêu câu hỏi với đám đông:

- Chúng ta bắt đầu bầu đi. Có ai ở đây muốn ra đầu hàng bọn chó vàng không?

Bà con nhao nhao lên phản đối. Mọi người nhẩy lên đông đổng, nguyền rủa cái tầu đã không tới, than trách chính họ đã xui xẻo, la lối giữa người này với người kia. Ông Can phải xua tay để làm họ dịu xuống. Ông la lớn:

- Im lặng. Mình còn hy vọng mà.

Cả toán bỗng khưng. lại. Ông tiếp:

- Còn một lối thoát. Chúng ta có súng. Chúng ta có thể lấy cắp một chiếc xuồng máy của đám đốn gỗ lậu và chuồn đi. Ai chịu làm chuyện liều mạng đó thì giơ tay lên.

Một bà lên tiếng hỏi:

- Đám làm rừng ấy có võ khí không? Nếu mình thất bại thì sao?

Ông Can nhún vai:

- Mình đâu có nhiều cách để lựa chọn, thưa bà. Nếu thua, mình sẽ chết, nhưng bó tay đầu hàng thì mình cũng chết vậy.

Tôi ngó mặt dì Đặng để ngầm hỏi ý kiến, nhưng dì vội quay mặt đi. Tôi liền đứng dậy. Mọi con mắt đều đổ dồn về phía tôi, chăm chú nghe những lời tôi nói:

- Cháu không muốn đầu hàng. Cũng như tất cả mọi người, cháu bị kẹt ở đây chỉ vì cháu đi tìm tự do. Vậy hãy để tự do vạch cho ta một lối thoát.

Một ai đó to tiếng biểu đồng tình:

- Nói khá đấy, nhóc con. Đánh để mở đường về nhà.

Vài người phụ nữ rên rỉ không đồng ý, nhưng cuối cùng, hầu hết cả đám đều đồng tình là phải chiếm lấy cái xuồng máy. Ông Can nhìn tôi và hỏi:

- Tên con là gì?

- Kiên.

Ông quay về phía thằng bé có cặp mắt xếch, đang đứng cạnh chị nó dưới một cái cây:

- Còn cháu tên gì?

Thằng bé đáp:

- Văn Ông già nói:

- Thằng con tôi và tôi sẽ đánh úp bọn đốn gỗ. Vậy hai cháu có hỗ trợ chúng tôi được không?

Cả dì Đặng và chị thằng nhỏ cùng kêu lên một lúc:

- Không được đâu!

Ông già nói:

- Xin thứ lỗi, thưa các bà, tôi cần chúng nó để quân bình trận đánh.

Tôi hỏi ông:

- Chúng cháu sẽ phải làm gì?

Dì Đặng ghì chặt lấy cánh tay của tôi lắp bắp:

- Vậy thì cho tôi thay nó. Nếu cần thì tôi có thể uýnh lộn được. Nó còn nhỏ lắm, tha cho nó.

Ông già nói:

- Không thể được. Ngày xưa, bất cứ khi nào tôi giỡn mặt với tử thần, tôi cần lính của tôi. Bây giờ cái chết đang cận kề ngay tại đây, con bà cũng sẽ qua cầu ngon lành.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:26 pm    Tiêu đề:


Chương Ba Mươi Hai

Đi theo một hàng dọc, cha con ông Can, Văn và tôi di chuyển vào sâu trong rừng, để toán các bà và lũ nhỏ ở lại phía sau. Từ xa, cơn bão gầm gừ như một cái dạ dầy đang đói meo. Chớp lóe sáng trên những đám lau sậy, làm sống động những cành cây mầu tím ở chung quanh chúng tôi, trông như những hình dáng quái vật trong chuyện kinh dị. Ông Can cầm chắc khẩu súng trong tay. Chúng tôi bám sát lấy nhau, trườn trên mặt đất trơn trượt như một con sâu đất khổng lồ dưới ánh xanh kỳ bí của buổi xế trưa.

Đột nhiên, ông Can bỗng dừng lại. Ông ra hiệu cho chúng tôi cúi thấp hơn nữa trên mặt đất lõng bõng nước, thì thào:

- Yên hết. Đừng ai nhúc nhích.

Từ chỗ đứng, tôi có thể nhìn thấy một người đang đốn cây cách tôi chừng ba chục thước. Người đốn gỗ ấy không chỉ có một mình. Tôi còn nghe thấy có tiếng người khác xen lẫn với tiếng sấm rền và tiếng gió rít. Ông Can ra hiệu cho chúng tôi bò lại gần ông ta hơn, rồi nói:

- Kế hoạch là như thế này. Bọn họ có bốn người. Hai tên đang ăn trưa. Tụi bay không thấy đâu, họ ngồi khuất đằng sau cái cây đó. Còn hai tên kia thì các cháu nhìn thấy phải không, Kiên, văn?

Vừa nói ông vừa chỉ tay về phía hai người thợ rừng đang đứng cách nhau khoảng vài thước. Ông tiếp:

- Hai cháu lãnh hai tên đó được không? Bác và con bác sẽ canh chừng và hỗ trợ ở đây. Đi kiếm cục đá như cục này rồi luồn ra phía sau họ. Phải cầm chắc và đập cho họ xỉu đi. Đừng có mất tinh thần ngay cả khi họ trông thấy các cháu. Nếu có xẩy ra thì ráng quấy rối họ lâu chừng nào thì tốt chừng ấy... Cha con bác sẽ chạy ra cứu các cháu ngay. Dễ òm, phải không?

Ông trao cho tôi một cục đá lớn hơn nắm tay tôi một chút. Văn thì lựa cho mình một cục cũng hình dáng và lớn như của tôi. Cái ý nghĩ làm bị thương người khác khiến tôi muốn phát ớn vì sợ hãi. Tôi hỏi:

- Họ đứng đối diện với mình, làm sao tụi cháu có thể lẻn tới?

Văn nói:

- Tôi có cách Ông Can hạ lệnh:

- Thử nói coi.

Văn chỉ những cành cây chĩa ra như những ngọn giáo ở trên đầu hai người:

- Mình sẽ tấn công từ phía trên. Kiên và cháu sẽ chuyền qua mấy cái cành kia để tới gần họ. Rồi chờ đúng lúc thì bụp - Nó tạo thành âm thanh làm như có cái gì giáng xuống - Vào ngay giữa sọ!

Ông Can nói:

- Ý kiến tuyệt đó con. Nào, lên đường, hai đứa!

Văn nhổm dậy nhét vạt áo vào trong quần, làm thành một cái bọng. Rồi, như con Kangaroo ôm con, nó nhét cục đá vào bụng rồi cài chặt thắt lưng lại. Với hai bàn tay không, nó leo lên một cái cây. Tôi cứ làm từng cử động theo y như nó. Từ cành này qua cành khác, nó chuyền như một con sóc, không gây nhiều tiếng động. Tôi bám sát theo nó một cách rụt rè, vỏ cây trơn trượt rất khó giữ. Đã vậy, gió mạnh cứ rít lên giữa đám lá cây xanh rậm rịt. Hòn đá nặng chĩu cứ trệ xuống trong bụng áo của tôi. Ở xa phía trước, Văn đã tới đích rồi. Nó ngồi như con chim đậu trên cái cây ngang phía trước hai kẻ địch của nó, bồn chồn chờ đợi tôi.

Về phần tôi, càng gần tới mục tiêu, cành cây mỗi lúc một nhỏ hơn và cách xa nhau hơn. Tôi lẩm bẩm khẩn cầu trời phật cho thêm sức lực mới. Cuối cùng thì, qua đám lá dầy đặc, tôi nhìn thấy cái đầu đen của người thợ rừng và một mảng áo sơ mi may bằng vải thô mầu đỏ của hắn ta. Chỉ còn một cành nữa là tôi sẽ ở ngay trên đầu hắn.

Từ chỗ tôi nhìn qua, thấy Văn đang nhăm nhăm cục đá. Bắt trước theo nó, tôi với một tay để nắm cho chắc, như thế tôi mới có thể moi vũ khi ra bằng tay kia. Nhưng thay vì là bề mặt cứng của cành cây, tay tôi lại chạm phải một cái gì là lạ, vừa mềm mềm, lạnh lạnh lại vừa ướt át, trơn trượt. tôi nhìn xuống thì ra một con trăn lớn hơn bắp đùi tôi. Thân mình của nó quấn quanh cành cây ở ngay phía dưới tôi. Nó hếch cái đầu hình thoi của nó lên nhìn chòng chọc vào mặt tôi. Tôi rú lên và nhẩy đại về phía sau. Cành cây ở dưới tôi gẫy làm đôi. Tôi rớt xuống một đống lá khô chỉ cách chỗ người thợ rừng có vài bước. Cùng lúc đó, Văn liệng cục đá vào ngay đầu nạn nhân của nó, quất hắn ta ngã sụm ngay xuống chân như một thân cây bị đốn. Mặt hắn ta úp sấp xuống đất bùn.

Nền đất nhờ có lá phủ dầy nên giống như cái nệm đỡ tôi lúc ngã xuống, tuy nhiên tiếng hét thất thần cộng với sự xuất hiện bất ngờ của tôi đã báo động cho mấy người thợ rừng khác. Họ quăng ngay bát cơm trưa và túa hết ra từ sau bụi cây, tay lấp lóe những cái rìu. Người đứng gần chỗ tôi nhất cũng giơ cái rìu lên. Mặt của hắn đen sạm đầy sát khí. Tôi cố lùi lại để tránh xa hắn, nhưng sự sợ hãi làm cho tay chân tôi rũ liệt. Người tôi đông cứng lại, hé mắt nhìn hắn và chờ đợi cái số phận bất hạnh của mình.

Tại chỗ núp, ông Can và người con nhào ra chĩa súng vào đám thợ rừng, la lớn:

- Ngừng lại không tôi bắn!

Người bận áo nỉ sọc đỏ thét về phía chúng tôi:

- Lũ khốn nạn, tụi bay giết em tao rồi.

- Chưa chết đâu. Chỉ ngất đi thôi.

Văn trả lời một cách chắc nịch. Thì ra nó đã tuột xuống khỏi lùm cây từ lúc nào và đang quan sát cái thân xác nằm trên mặt đất. Một người làm gỗ hỏi:

- Mấy người là ai? Muốn cái gì?

Mặt của ông ta đầy những vết sẹo rỗ của bệnh đậu mùa, trông lạnh băng, không lộ vẻ cảm xúc. Nhìn ông ta, khó có thể đoán được là ông ta đang ngạc nhiên hay giận dữ. Ông Can trả lời:

- Chúng tôi chỉ muốn mượn cái thuyền của các ông để quay về Nha Trang.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:27 pm    Tiêu đề:


Chương Ba Mươi Ba


Người mặt rỗ giận dữ nhìn cây súng trên tay ông Can:

- Còn lâu anh mới dám bắn. Bọn công an sẽ ùa tới ngay khi anh vừa nổ súng.

Ông Can nhổ một bãi nước bọt xuống đất:

- Ở địa vị anh, tôi không đánh cuộc như thế. Trời mưa thế này, ai mà nghe thấy gì? Có muốn tôi chứng minh không?

Người thợ rừng đáp:

- Dạ không, muốn về nhà thì để chúng tôi giúp. Tin tôi đi. Chỉ có chúng tôi là biết xài cái xuồng máy bất kham này mà thôi.

Ông Can hỏi:

- Làm sao mà tin được anh?

- Thì ông có súng. Bảo chúng tôi làm gì thì chúng tôi làm theo. Chỉ cầu ông đừng hại chúng tôi là được rồi.

Ông Can gật đầu:

- Vậy thì tôi sẽ mang theo hai người trong nhóm các anh. Hai người kia ở lại đảo. Khi chúng tôi về tới Nha Trang an toàn, thì họ sẽ quay lại đón các anh.

Người mặt rỗ chỉ vào chính mình và người mặc áo đỏ:

- Vậy mang chúng tôi theo.

Ông Can quay lại phía Văn và tôi, ra lệnh:

- Lục trong đống đồ của họ, lấy dây trói hai người lại với nhau. Nhớ khóa miệng họ lại.

Với sự trợ giúp của Cần, chúng tôi đặt hai tù binh áp lưng vào nhau. Một người vẫn còn bất tỉnh khi chúng tôi lôi họ lại gần nhau. Máu trên đầu hắn ta còn để lại một vệt đốm đỏ dài trên nền đất rừng. Chúng tôi thắt nút thật chặt ở cổ tay và mắt cá chân họ. Vài giọt máu nhễu trên mấy ngón tay của tôi. Tôi kinh hãi vội quẹt đi. Với hai tay giơ cao trên đầu, người mặt rỗ nói:

- Nói cho tôi biết, bọn ông có cả thẩy bao nhiêu người?

Ông Can im lặng, không trả lời.

Khi chúng tôi đi xuống bãi cát ở bờ biển thì trời gần tối. Mây đen phủ dầy đặc khắp trên bầu trời và mưa rơi nặng hạt hơn. Sấm chớp liên hồi loang loáng trên những vòm cây. Cái xuồng máy nằm trên bờ biển được che dấu bằng những tầu lá dừa. Nó dài gần mười thước, làm bằng ván ép bọc thiếc và nước sơn mầu gỉ sắt đã tróc ra gần hết. Bộ máy gồm một động cơ và một giây nối điện đặt ở khoảng giữa đáy xuồng về phía đuôi. Một cái cần bằng sắt nối động cơ xuống chân vịt qua một lỗ đục ở phía dưới buồng lái đặt ở cuối xuồng. Dọc theo mỗi bên xuồng là một dãy ghế, có thể đủ chỗ cho từ sáu đến mười người. Trên xuồng đã chất sẵn một đống những khúc gỗ vừa mới xẻ, chiều dài đều đặn bằng nhau. Ông Can ra lệnh cho chúng tôi khuân đống gỗ ăn trộm vất lên bãi để thêm rộng chỗ cho mọi người.

Chúng tôi đẩy cái xuồng xuống biển. Mấy cái rìu của đám thợ đặt trên sàn, có một tấm plastic phủ lên. Chúng tôi ngồi sát cạnh bên nhau trên ghế trong khi đó đám con nít thì nằm lăn ra sàn. Hai cha con ông Can thì ngồi ở phía đằng mũi xuồng. Súng của họ chĩa về phía những người thợ rừng khi đó ngồi mấp mé ở đuôi xuồng.

Với sự đồng ý của ông Can, người thợ rừng bận áo đỏ giật sợi giây kéo để làm cho máy nổ. Người đồng nghiệp của hắn ta thì giữ cây cần điều khiển nối động cơ để lái theo đúng hướng. Cái xuồng kêu ầm ĩ rồi chạy băng băng trên mặt nước như một con hải mã. Chẳng mấy chốc, hòn đảo bị bỏ lại đằng sau. Trước mặt chúng tôi, biển mở rộng vòng tay bao la, dập dìu con xuồng đủ mọi hướng. Mưa rơi nặng hạt làm không thể nhìn thấy gì. Chẳng mấy chốc chúng tôi ướt như chuột lột. Nhìn thấy tôi run bần bật, dì Đặng kéo tôi sát lại gần dì hơn.

Ở phía đuôi xuồng, người mặt rỗ lôi ở dưới chỗ ngồi ra một tấm bạt trao cho chị của Văn và dục cô ta lấy để che mưa. Cô ta cầm lấy với vẻ rụt rè.

Trong bầu không khí căng thẳng như thế, chúng tôi đã đi được gần một giờ. Cuối cùng, mây tan dần, ánh trăng mờ lại le lói trải ra trên mặt biển xáo động.

Gã mặt rỗ cất tiếng năn nỉ ông Can:

- Xin đừng bắn, hãy nghe tôi nói. Tôi cần châm thêm xăng cho máy, nó gần cạn rồi. Bình xăng ở ngay kia kìa.

Hắn ta chỉ tay về phía một cái thùng sắt tây nằm ngay bên cạnh đống búa rìu. Ông Can trả lời:

- Không được!

- Thiệt mà, cứ nghe tiếng động cơ nổ coi. Chỉ thêm vài phút nữa là nó ngưng chạy thôi nếu không châm thêm xăng.

Ông Can cảnh cáo:

- Được, nhưng làm chậm chậm để tôi có thể canh chừng anh. Nhớ tránh xa mớ rìu. Anh mà có hành động khả nghi là tôi bắn ngay đó.

Gã mặt rỗ gật đầu và bước dè dặt lại chỗ bình xăng. Cái bình có vẻ nặng nên hắn ta phải dùng hai tay để kéo lê nó trên sàn tầu. Lưng quay về phía ông Can, hắn di chuyển chậm chạp về chỗ ngồi của mình. Bất chợt hắn trượt chân trên một khúc gỗ nằm dưới sàn và chúi về phía trước. Vẫn giữ bình xăng, hắn dang tay xoay một vòng một trăm tám mươi độ và xoay mặt đối diện với ông Can. Bình xăng sáng lòe lướt trên không khí như một tia chớp xẹt. Ông Can hét lên:

- Coi chừng!

Trong cơn kinh hoảng của chúng tôi, người rỗ mặt phá lên cười và nhìn chúng tôi một cách đắc thắng. Những ngón tay của hắn móc chặt lấy cái bình xăng, đung đưa trên mặt biển tối mò. Rồi hắn nháy mắt với ông Can, tay ve vẩy bình xăng qua lại và nói:

- Có giỏi thì bắn đi. Tao thả cái bình này xuống đáy biển. Đến lúc hết xăng, tụi bay cũng chết luôn.

Anh Cần thốt lên, hai tay nắm chặt lại:

- Tên này khốn nạn thật. Tao tưởng mình đã thỏa thuận rồi.

- Thỏa thuận cái gì. Tụi bay đánh bị thương một người trong bọn tao, bỏ rơi hai người trong rừng, rồi bắt cóc tụi tao lên đây. Vậy thì còn thỏa thuận cái nỗi gì.

Rồi hắn ra lệnh cho người bận áo đỏ:

- Tắt máy đi.

Ông Can la lên:

- Đừng.

Nhưng tên kia đã nhấn cái nút điện. Con tầu rít lên một lần cuối rồi khựng lại. Trôi dập dềnh trên biển, nó lắc lư từ bên này qua bên kia - Ông Can chĩa khẩu súng lên:

- Có lẽ tao không còn cách nào khác là phải bắn mày và điều khiển lấy cái ghe.

- Cứ bắn đi. Nhưng cái vụ hết xăng là tao không nói dóc đâu

- Cũng phải liều vậy thôi.

Tên mặt rỗ chỉ lên trời. Đâu đó trên nền mây, vài ngôi sao lung linh yêú ớt trên bầu trời. Hắn nói:

- Theo hướng ngôi sao đó đó. Có biết tên là gì không? Ngư phủ gọi là sao bắc đẩu. Lẽ ra phải đi về hướng tây thì mới tới Nha Trang.

Hắn ta ngừng lại chờ cho lời nói của mình ngấm đủ tác dụng rồi lại tiếp:

- Nhưng từ lúc ban đầu, cái xuồng đã đi về hướng bắc. Thưa thủ trưởng, ông đòi chúng tôi cho đi nhờ, thì chúng tôi cho ông đi. Bây giờ hết xăng rồi. Muốn vất súng xuống hay lẩy cò thì cứ việc. Nhưng mà mau mau lên, trước khi tao phải quyết định.

Vài người đàn bà rên rỉ vì sợ. Lũ con nít bắt đầu cất tiếng khóc. Ông Can đứng lên. Mũi súng rung nhẹ trong tay. Ông quát bọn trẻ:

- Câm mồm!

Một bà thúc giục:

- Bỏ xuống đi, ông ơi.

Không để ý đến bà ta, ông quay sang nói với người mặt rỗ:

- Tôi với anh nên dàn xếp việc này một cách ổn thỏa. Tôi có một đề nghị

- Tôi dỏng tai lên đây.

- Mình vất hết võ khí xuống biển, cả súng lẫn búa rìu. Anh chở tụi tôi về Nha Trang, rồi tụi tôi sẽ trả công.

- Trả công bằng cái gì chớ?

- Đồ nữ trang!

Tên mặt rỗ hất hàm:

- Đề nghị hay đó. Vậy chìa ra cho coi anh có những gì?

Ông Can nhìn thẳng về phía trước, một tay giữ chặt khẩu súng, còn tay kia gỡ chiếc đồng hồ ra khỏi cổ tay:

- Đây là cái đồng hồ Omega. Trị giá khối tiền đấy. Tôi đổi nó cho mạng sống của thằng con trai tôi.

Người con thì thào:

- Cha! Không thể bỏ cái đó được. Nó là quà kỷ niệm của mẹ mà.

Ông bố cáu kỉnh:

- Im mồm.

Rồi quay về phía chúng tôi, ông ra lệnh

- Lấy hết đồ quí ra đi. Hãy chứng tỏ cho hắn biết là mình chỉ muốn yên thân thôi.

Đám vượt biên lần mò trong quần áo và lôi ra những tài sản mà họ cất giấu. Cả đồng hồ, nhẫn hột xoàn, dây chuyền vàng đeo cổ và những lượng vàng hay bạc được đặt dưới chân của người thợ đốn gỗ. Tên đồng bọn của hắn ta hốt tất cả lên và thồn hết vào trong mọi túi.

Tên mặt rỗ nói với ông Can:

- Ê! Chưa có thỏa thuận với cái đề nghị này! Không có võ khí, tụi bay vẫn đông hơn. Tụi tao không thích trò may rủi.

- Vậy mày muốn tụi tao làm gì?

Hắn ta chỉ về phía Cần:

- Đưa cái thằng răng vổ kia lại đây. Tụi tao sẽ giữ hắn làm con tin. Nếu mày không ngoan ngoãn, tao sẽ giết nó.

Ông Can cố chịu nhục:

- Hãy giữ tao làm con tin. Để thằng con tao ra ngoài.

- Ai cũng được, không thành vấn đề. Hãy bỏ súng xuống và bước qua đây.

Ông Can đặt khẩu súng xuống sàn và quay sang nói với người con đang run rẩy:

- Nhớ kỹ là vứt đám rìu búa xuống trước, rồi hãy vứt súng xuống sau.

Giơ hai tay lên đầu, ông bước qua sàn tầu. Người mặc áo nỉ đỏ quơ lấy cổ tay của ông và trói giật ra đằng sau rồi ấn ông quì xuống. Đám các bà lặng lẽ ném võ khí xuống biển và sau cùng Cần cũng làm như vậy với khẩu súng của cha mình. Trước những cặp mắt sợ hãi của chúng tôi, tên mặt rỗ nhấc bình xăng lên và từ từ mở nắp ra. Một nụ cười quái đản hiện trên mặt, hắn vứt cái nắp xuống sàn và dốc ngược cái bình xuống. Chỉ có vài giọt chất lỏng đen ngòm nhễu ra mà thôi.

Dưới ánh trăng mờ nhạt, vẻ mặt ông Can nhăn nhúm đi vì giận dữ. Dù chẳng tới được nhưng ông cũng cố nhổ nước miếng về phía kẻ địch.

Với cái hộp đựng đồ nghề ở dưới chỗ ngồi, tên mặt rỗ moi ra được một cái rìu nhỏ mà từ trước, chúng tôi không nhìn thấy. Hắn nhe răng ra trước mặt ông Can:

- Thằng già điên kia, mày có biết tụi tao mỗi năm đã từng chạm trán với bao nhiêu thuyền nhân như chúng mày không? Mày tưởng là đã tinh ma hơn chúng tao hả. Tao sẽ giết mày, cái thứ ngu như bò kia!

Cái rìu vung lên khỏi đầu hắn sáng lóe trong bóng đêm trước khi cắm phập vào ngực ông Can. Lưỡi rìu xuyên vào thấu xương của ông, gẫy đánh rắc. Cả thân hình ông già giật lên y như thể ông già vừa bị điện giật. Đám tị nạn la hét lên và cuống cuồng xô đẩy nhau chạy giạt hết về phía cuối xuồng để tránh xa cái cảnh hãi hùng. Trong cơn bối rối, một người đàn bà rớt ra ngoài. Người con gái của bà ta la lên, điên cuồng xoải hết cánh tay ra để níu lấy mẹ. Dì Đặng xiết lấy cổ tay tôi, rên rỉ vì hãi hùng.

Người áo đỏ cởi trói cho ông Can và cái xác của ông đổ vật xuống sàn. Rồi hắn kéo giật sợi giây cho máy nổ. Cái thuyền bị lắc mạnh về phía sau lại khiến cho thêm mấy người nữa rớt xuống biển. Gã mặt rỗ tiến lại xác con mồi giật lấy cái rìu còn đang cắm trên ngực. Máu phọt ra chan hòa trên sàn tầu. Sau vài lần đá chân lên, hắn hất cái xác xuống biển.

Chỉ tay vào chị của Văn, đang rúc vào trong đám đàn bà và trẻ con chết khiếp vì kinh hãi, hắn ra lệnh:

- Dẫn con đó ra đây.

Tên đồng bọn túm lấy mớ tóc dài của chị và kéo cô về phía trước. Chị ngã xuống sàn tầu, kêu gào đứa em trai của mình. Văn lúc này bị kẹt trong vòng tay của đám thuyền nhân, nên chỉ biết nhìn theo chị mà chẳng làm được gì.

Gã mặt rỗ tiến về phía chúng tôi, vung cái rìu lên khỏi đầu và hét hết sức mình:

- Cút hết khỏi thuyền của tao.

Tôi la lên với dì Đặng:

- Dì ơi, mình nhẩy xuống đi.

Dì nhìn tôi, đôi mắt dại đi:

- Không được đâu, dì không biết bơi.

Chung quanh tôi mọi người thi nhau nhẩy, từng toán một, vừa la hét vừa rơi xuống cái khoảng đen ngòm ở phía dưới. Tôi nắm lấy tay dì. Tên mặt rỗ đang tiến lại phía chúng tôi. Tôi nói:

- Mình đi, dì ơi.

- Không.

- Con xin dì, theo con đi.

Dì vẫn chùn lại. Tôi la lên:

- Đi dì. Con sẽ chỉ cho dì cách bơi ngửa. Dì chỉ cần bám vào con thôi.

Dì gật đầu. Thế là chúng tôi níu lấy nhau, nhảy xuống biển.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:27 pm    Tiêu đề:


Chương Ba Mươi Tư

Dòng nước sâu cuốn tôi và dì Đặng vào một dòng xoáy dữ dội. Nhờ nhiều năm lớn lên ở gần bờ biển, nên tôi biết cách thả nổi mình theo những đợt sóng dữ. Tôi đạp chân để trồi lên và bàn tay của dì Đặng tuột khỏi tôi.

Khi nổi lên mặt nước, tôi chỉ thấy xung quanh tôi tất cả là đại dương mênh mông nhấp nhô trong đêm tối nhưng đều không phải là dì Đặng. Con xuồng vẫn còn ở gần đó nên tôi có thể nghe thấy tiếng cười man rợ của mấy người thợ đốn gỗ. Tiếng kêu gào của người chị gái Văn nghe vẳng lại như cách xa thăm thẳm. Tôi gào lên:

- Dì ơi. Dì đâu rồi. Dì Đặng ơi, trả lời con đi.

Tiếng nước vỗ làm tôi giật mình. Nhìn ra chung quanh, tôi thấy dì Đặng đang vùng vẫy một cách tuyệt vọng để giữ cho đầu nổi lên mặt nước. Dì trông thấy tôi nên quẫy mạnh hơn lên. Tôi bơi lại phía dì, túm được eo của dì rồi đẩy dì lên cao. Dì ho sặc sụa và gấp gáp thở một vài hơi thật sâu. Tôi đỡ lưng của dì lên và thả dì nằm ngửa trên mặt nước. Những ngọn sóng bập bềnh có vẻ khiến cho dì dịu lại. Tôi nói nhỏ với dì:

- Cứ xả hơi đi dì, bây giờ yên ổn rồi.

Răng của tôi đánh vào nhau lập cập vì cơ thể đã bắt đầu nhiễm lạnh. Dì nói với tôi dịu dàng, đôi mắt nhắm nghiền lại:

- Cám ơn, cưng.

Chúng tôi nổi bập bềnh như thế trong vòng nửa giờ cho đến khi trời lại đổ mưa. Nước tuôn từ trên trời cao xuống còn ấm áp hơn là nước mà chúng tôi đang ngụp lội trong đó. Khổ một nỗi là gió lại thổi lên, xô đẩy những đợt sóng trở nên cao hơn. Dì Đặng cứ nức lên mỗi khi bị sóng tạt vào mặt. Tôi nói với dì:

- Mình sẽ cưỡi lên sóng đi dì à. Dì có hiểu không. Dì cố đẩy cho thân mình cho nổi lên để cho nước trôi ở bên dưới. Dì có làm được không?

- Được, cưng ơi.

Nhưng đã quá trễ. Phản chiếu trong đôi mắt thất thần của dì là một ngọn sóng mạnh mẽ, cao nghều nghệu trồi lên trên mặt biển. Nó ụp xuống chúng tôi như một đống gạch. Tôi giữ chặt lấy dì trong khi chúng tôi bị đẩy dúi xuống. Dì quơ lấy mặt tôi, cố gắng trèo lên trên đầu tôi. Sau cùng, chúng tôi nổi trở lên mặt biển. Dì Đặng nôn tháo ra những khối nước đã bị nuốt vào. Mặt dì tái mét và lòng trắng con mắt của dì dại lên lập lòe trong bóng tối. Đẩy tôi ra xa, dì nói một cách tuyệt vọng:

- Đi đi!

- Không. Dì nghe con, bình tĩnh lại.

Dì vùng vẫy để thoát ra nhưng tôi vẫn kéo dì lại.

- Đừng. Buông dì ra đi.

Tôi la lớn:

- Con xin dì, dì ơi. Dì cào con đau quá.

Dì đập tay xuống nước rồi rờ lên mặt tôi bằng bàn tay buốt giá. Giọng dì cương quyết:

- Không, cưng ơi. Buông ra đi. Dì mệt lắm không còn tiếp tục được nữa rồi. Dì không muốn con chết theo dì. Khi gặp lại mẹ thì cho dì gởi lời chào mẹ.

Rồi khuôn mặt của dì đầm đìa nước mắt:

- Để cho dì đi gặp lũ con của dì.

Đôi mắt của dì lạc thần nhìn qua vai tôi. Dì nói:

- Kìa kìa. Chú Đặng đang chờ dì đó.

Bằng một cái đẩy mạnh, dì tuột ra khỏi tay tôi và chìm xuống nước. Tôi nhoài lại phía dì nhưng dì lại đẩy tôi ra xa. Ở dưới mặt nước, khuôn mặt trắng bệch của dì nở một nụ cười dịu dàng với tôi trước khi bóng tối phủ chụp lên dì. Tôi ngước mắt lên bầu trời ẩm sũng và chợt nhận ra rằng còn lại có một mình. Tôi nức nở:

- Đừng, dì Đặng ơi. Dì trở lại với con đi.

Tôi đập mãi tay xuống nước, tuyệt vọng:

- Xin đừng bỏ con một mình. Con sợ quá dì ơi.

Tiếng của tôi lan một cách vô vọng trên mặt biển. Quanh tôi, mưa tạt xuống thành những tiếng rít nho nhỏ. Cái ý nghĩ về hàng ngàn thước sâu dưới biển chứa đầy những quái vật ẩn núp làm tôi choáng váng vì sợ hãi. Tôi bắt đầu bơi về hướng tây, nương theo ánh sáng mờ nhạt của sao Bắc Đẩu làm chuẩn và khóc không ngừng trong mỗi sải bơi.

Tôi không rõ là mình đã bơi trong bao lâu. Chỉ biết là tôi đã trượt trên mặt nước như thể đang chạy việt dã trên bộ. Ý nghĩ quyết sống đã làm tăng sức mạnh của tôi với một ý tưởng duy nhất: Bơi về phía trước. Rồi tôi lại liên tưởng đến căn nhà ấm áp của tôi, có đồ ăn nóng sốt vừa mới nấu và một ly trà nóng bốc khói. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Và tôi hăm hở căng mắt ra để tìm dấu vết của đất liền.

Bỗng nhiên, bắp thịt ở dưới eo lưng của tôi thình lình thắt buốt, cơn đau chạy vào thấu xương sống và làm cách tay bên mặt của tôi bị tê liệt đi. Cái ngã từ trên cành cây chiều hôm ấy còn để lại vết bầm và bây giờ các mô thịt bị rút chặt cơn đau thắt. Để dịu cơn đau, tôi đổi qua kiểu bơi nghiêng một bên giống như con cá đã bị gẫy một vây. Lát sau, tôi nằm ngửa ra và để cho mình nổi bập bềnh. Những đợt sóng xáo động xoa bóp bắp thịt, tạm thời làm giảm cơn đau của tôi. Rồi ý chí muốn sống lại bừng lên và tôi lại tiếp tục bơi về hướng tây.

Thời gian cứ thế lê đi. Da của tôi giộp lên vì nước mặn. Tôi cố uống những giọt mưa, nhưng không nhận ra rằng mỗi khi tôi há miệng ra, tôi không khỏi hớp phải nước biển, làm cho cơn khát trở nên dữ tợn hơn.

Sau cùng, mưa cũng tạnh. Bầu trời trải ra như một tấm “drap” rộng rãi, chi chít những vì sao, tỏa rộng khắp mọi nơi. Ánh trăng tô lên những gợn sóng lăn tăn quanh tôi một mầu bạc như mái tóc của ông tôi. Tôi giơ cả hai tay lên và cười điên dại. Những ngón tay của tôi nhễu xuống từng giọt nước bóng ngời, lấp lánh ánh kim loại nom như những giọt thủy ngân. Trên mặt biển, những vệt sáng lốm đốm nhảy múa như vẫy gọi tôi nhập cuộc. Thời gian tan hòa vào không gian đẩy tôi trôi vào trong lãng quên.

“Đi xuống đây chơi đi” tiếng biển thì thầm vào tai tôi, hát mãi những lời ca hạnh phúc của một sự tự do mới. Sự sợ hãi không còn mang ý nghĩa gì nữa, kể cả nỗi đau đớn. Một sự an tĩnh tuyệt đối đang lan tỏa vào tận đường gân, thớ thịt của tôi, thì thào với tôi là hãy rũ bỏ mọi sự kháng cự. Như một đứa trẻ biết vâng lời, tôi không bơi tiếp nữa. Tôi để cho mình tự chìm xuống trong làn nước ngập trên đầu và cuốn tôi đi vào trung tâm của trái đất. Nhưng ngạc nhiên biết bao, đang chìm, tôi chợt ngừng lại. Bàn chân của tôi đụng phải một lớp cát nhám xì. Đầu óc tê cứng của tôi chợt lóe lên một tia sáng: Đất liền! bờ biển hẳn là không còn cách đây bao xa.

Tôi vọt lên như một viên đạn, vận dụng hết sức mình để bơi về phía trước. Biển cả thờ ơ đã nhả tôi lên một bãi cát. Tôi ôm choàng lấy nền cát ẩm và mừng rỡ hôn lên.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:28 pm    Tiêu đề:


Chương Ba Mươi Lăm

Tôi bò lên cát, đầu óc quay cuồng, không có ý niệm gì về thời gian hay nơi chốn. Tôi cũng chẳng biết mình đã bơi được bao xa rồi. Trước mặt tôi là một bãi biển xa lạ đắm chìm trong bóng tối. Bên kia bãi cát là những bụi thông mọc dài theo một con đường hoang vắng, tàng cây dầy đặc, xòe rộng như những cái dù che ở ngoài bãi biển. Trời đất im lặng, chỉ có tiếng biển rì rào nhịp nhàng.

Tôi gập đầu người lại và ọe hết nước biển ra bãi cát. Bắp thịt tôi run lẩy bẩy. Mặc dầu đầu váng mắt hoa, nhưng tôi cố giữ cho mình tỉnh táo. Quần áo tôi ướt mèm, sặc sụa mùi rong biển. Gượng đứng dậy, tôi loạng choạng tiến về phía lối đi để tìm một chỗ nghỉ ngơi. Một bụi thông với với những cành tỏa rộng xòa xuống mặt đất tạo thành một chỗ trú chân giống như một cái lều nhỏ. Tôi cúi mình chui vào trong bụi tối, đầu tôi va phải hai đôi chân trần trụi lổn nhổn bên cạnh một đống áo quần. Có tiếng đàn ông kêu lên:

- Nè bộ đui hay sao mà không thấy người ta đang làm gì đây? Tìm bụi khác đi.

Tôi thụt lùi ngay lập tức, quá sức ngạc nhiên đến nỗi không thể thốt lên được một lời nào. May mắn thay, tôi kiếm ngay được một bụi khác, trống rỗng, cũng ở gần đó. Dưới những tàn cây rộng, rủ xuống đất như một cái vòm, tôi cuốn mình, tay chà xát lên hai vai cho ấm rồi thiếp đi trong một giấc ngủ thật sâu và không mộng mị.

Tôi tỉnh dậy trong tiếng chó sủa và tiếng chân người vội vã. Ánh nắng chiếu qua vòm cây xanh rậm rạp, đọng lên mặt đất những đốm vàng lấp lánh. Tôi nằm im thít, cầu mong sao cho cái chỗ chú ẩn có thể che dấu được tôi. Phía dưới tàng lá, cách nền cát khoảng vài tấc, là một kẽ hở, tôi dòm thấy những chiếc giầy đinh mũi sắt của đám công an bước qua, bước lại. Sự xuất hiện bất thần của họ làm tôi sợ cứng cả người. Mũi giầy đinh ngừng lại ngay trước chỗ của tôi. Một giọng thô lỗ ra lệnh:

- Bước ra ngay!

Tôi biết chẳng còn cách nào khác là tuân lệnh, nhưng trước khi tôi kịp làm chuyện đó thì lại có tiếng loạt soạt ở bụi bên cạnh. Rồi lại vẫn cái giọng la tôi lúc trước, bây giờ run rẩy cất lên:

- Tụi em sẽ bò ra, xin các anh đừng bắn!

Tôi hé mắt nhìn qua những kẽ hở trên lá thông. Một cặp trần truồng như nhộng, lưng quay về phía tôi, đang đứng cúi đầu trước ba người công an. Một con chó bẹc-giê sọc mũi vào đống quần áo của họ lúc này đang treo trên mũi cây súng trên tay gã công an. Hắn ta ghim sợi dây buộc trên cổ con chó để cho nó đứng yên và nói với cặp tình nhân:

- Cho coi chứng minh nhân dân.

Người đàn ông mò mẫm trong bộ quần áo của mình và moi ra được cái bóp. Bỗng nhiên con chó hếnh cái đầu lên về phía tôi và nhe răng ra, gầm gừ. Hết hồn, tôi nhẩy ngược trở lại, thế là con chó tru lên. Một tên công an nói:

- Hà hà... bên kia có thêm mớ rác rưởi nữa kìa!

Tôi cứ lùi mãi, đến khi thân mình đụng phải thân cây. Một mũi súng đen ngòm thọc qua và chĩa thẳng vào ngưc. tôi, tay công an cầm súng nói:

- Còn không chịu ra hay sao?

Tôi lách ra ngoài, hai tay giơ cao. Một tay công an túm lấy cổ áo phía sau của tôi, xách lên. Hắn lộ vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi:

- Mày làm cái chó gì ở đây thế, hả nhãi con?

Họng súng của gã thúc vào bụng tôi, đằng đằng sát khí. Tôi ấp úng:

- Em... em đang ngủ Lông mày của hắn nhướng lên:

- Ngủ ngoài bãi với bọn đĩ điếm và đám chôm chĩa này à? Mày là thứ lang thang không nhà hả?

- Dạ, thưa khộng

- Có giấy tờ gì không?

- Da. thưa khộng

- Mày sống ở đâu?

- Nha Trang. Khóm sáu.

Gã quay lại phía đồng bọn hỏi:

- Các đồng chí, mình xử lý cái này sao đây?

Một người trong đám họ đẩy cặp trần truồng qua một bên và xông lại phía tôi. Khuôn mặt hốc hác của hắn với đôi gò má cao và xương quai hàm dài ngoãng, banh ra khi hắn nhìn thấy tôi. Đằng sau bộ ria thưa thớt, hắn nhếch cặp môi mỏng dính ra và cười gằn:

- Mày có biết chỗ này là chỗ nào không hả, thằng nhãi?

Tôi lắc đầu. Tránh không nhìn thẳng vào mắt hắn và con chó, tôi cúi xuống, chú mục vào đôi chân đất của mình. Váng rêu xanh cáu trên những lớp nhăn ở da tôi.

Gã công an soi mói nhìn bộ quần áo nhàu nát của tôi. Cuối cùng hắn ta chộp lên tóc tôi, lôi ra một sợi rong biển, và hỏi:

- Ê, nhỏ. Mày ra đây bơi lúc nào vậy?

Tôi trả lời:

- Đêm hôm qua.

- Mày làm gì ở cái bãi biển cách xa nhà tới bẩy chục cây số, lại bơi trong đêm, lại ngủ trong bụi.

Mắt hắn ta hau háu nhìn vào mặt tôi như con sói đói mồì:

- Bộ mày tưởng tao là thằng ngu hả? Những đứa vượt biên như mày hiện giờ đang ở đâu?

Tôi chợt nghĩ ra một câu nói dối, tuy rằng không hay lắm, nhưng tôi vẫn túm lấy như một lá bùa hộ mang.:

- Em đâu có đi vượt biên. Mà em cũng chẳng biết vượt biên là cái gì. Em chỉ bỏ nhà đi thôi vì ở nhà em bị hành hạ quá. Em cũng không hiểu tại sao lại thành ra ở đây.

Quay về phía đồng đội, gã công an nói:

- Tôi không tin thằng nhóc này. Người nó tanh tưởi quá. Gắn cho nó cái vây và cái đuôi, nó hẳn ra thành một con cá. Tôi dẫn nó về đồn và bắt nó khai. Hai đồng chí dẫn cái con điếm và cái thằng quỷ kia đi dòng dòng quanh bãi biển để dạy cho chúng bài học. Rồi lục soát bờ biển coi có tìm thấy thêm đứa nào vượt biên không.

Hắn ta túm lấy vai tôi và lôi xuống đường phố. Trời đã bắt đầu sáng. Phía chân trời ửng mầu tím, mặt trời chói lọi đã xua tan đi bóng tối cuối cùng. Bên kia hàng dừa, phố xá từ từ thức dậy. Tiếng bát đĩa, đồ dùng trong nhà đang khua loảng xoảng và tiếng gà gáy rộn rã vang xa. Hắn kéo tôi lên một cái dốc, tới chỗ hắn đậu chiếc xe jeep. Còng hai tay tôi ra sau lưng, hắn xô tôi vào băng ghế sau rồi lái đi, tay nhấn còi để ra hiệu cho các đồng đội. Trên vỉa hè, cặp nam nữ đang bị điệu đi chậm chạp, hai tay của họ chắp ra sau gáy. Khệnh khạng ở phía sau họ vài bước là mấy tên công an, tiếp tục chọc mũi súng vào hết bụi này tới bụi khác để lùng kiếm những kẻ trốn chạy.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:28 pm    Tiêu đề:


Chương Ba Mươi Sáu

Chiếc xe jeep chạy qua những dãy phố đông đúc rồi ngừng lại trước một đồn công an. Căn phòng phía trước là một phòng đợi trang trí công phu với bộ ghế sofa có lót da giả, một khung hình có bút họa bằng chữ tầu trên tường, và một chùm đèn treo thấp. Lan quí được đặt trong chậu bằng đất nung đặt trên khung cửa sổ.

Từ sau cái quầy đối diện với lối vào, một người nữ thư ký đã đem tôi ra chụp hình, lấy dấu tay và làm một bản báo cáo ngắn về lý lịch của tôi. Khi cô ta buông tay tôi ra thì tấm kính trên bàn lại bị nhoe nhoét vì vết mực. Ngay sau đó, bọn công an áp tải tôi đi theo một hành lang dài và xô tôi vào một phòng giam nhỏ. Rồi họ dập cách cửa sắt đánh rầm để đóng lại. Tôi nghe tiếng chìa khóa tra vào ổ, tiếng khóa xoay vòng, rồi tiếng bước chân của họ xa dần.

Phòng giam sặc sụa một mùi lẫn lộn vừa của thịt ôi, của nước tiểu, và của khói thuốc. Mấy bức tường trát vữa đầy những vệt nhơ nhớp nom như là vệt máu hay là những vệt phân người. Căn phòng lạnh ngắt. Giữa trần nhà thòng xuống một cái móc sắt đã cũ mòn, mũi nhọn hoắt hướng lên trên. Ngay ở dưới là một cái bàn bằng gỗ với một cái búa tạ to kềnh bằng thép và vài cái đinh cong queo han gỉ để trên đó. Ở xa phía cuối phòng, kê sát vào tường là một cái bồn bằng sắt, to bằng cỡ cái bàn ở thư viện, chứa đầy nước bẩn, trên mặt nước nổi lều bều mấy cục phân. Hết còn hy vọng trốn tránh, tôi thu mình lại một khoảnh biệt lập duy nhất trong phòng, đó là một cái góc ở bên cạnh bồn nước. Tôi ngồi bó gối, đầu gối chống lên cằm, càng cố thu nhỏ lại thì càng tốt.

Rồi tôi lại nghe có tiếng bước chân tiến đến gần và có tiếng mở ổ khóa. Tôi thu mình lùi vào góc xa hơn nữa, và cố nín thở. Tôi không muốn cho những kẻ bắt giam tôi nhìn thấy tôi khóc, sợ họ suy diễn nước mắt là bằng chứng có tội. Hai gã công an bước vào phòng. Cái bản lề rít lên rồi sập xuống lại ầm ĩ.

Một trong hai tên bước tới, tháo dây lưng và mọi thứ đeo theo như khẩu súng trong bao da cùng băng đạn lên mặt bàn. Mặt hắn trông bình thường như bất cứ người bình thường nào ở tuổi trung niên, với mái tóc lởm chởm và cái mũi tẹt. Gã kia thì nom trẻ hơn, đứng dựa vào tường và im lặng nhìn bạn đồng sự. Trong tay hắn có một nắm hạt bí rang, hắn vừa cắn rôm rốp từng hạt vừa gõ nhịp mũi giầy bẩn thỉu của hắn xuống sàn. Tiếng lách cách của hắn gây nên càng lúc càng làm cho tôi hồi hộp. Hắn búng một cái vỏ hạt bí về phía gã kia và hỏi:

- Hôm qua chú ngủ được không?

Người kia nhấc khẩu súng ra khỏi bao, tháo tất cả những viên đạn ra để lên bàn, nói:

- Không. Tôi thức cả đêm trên giường với một em rất thơm ở dưới phố. Ai mà cần ngủ chứ.

Người trẻ tuổi đồng ý:

- Sướng thế! Cháu cũng chẳng ngủ được bao nhiêu, nhưng vì lý do khác. Cháu phải trực suốt đêm.

- Tôi nghe nói các cậu tóm được một cặp gái điếm dưới Vịnh Cam Ranh rồi đem nó đi diễu ngoài phố. Bắt chúng nó làm trò hề thì cũng đáng xem đấy chứ.

- Ờ, vui đáo để...

Hắn bỗng ngừng lại và nhìn quanh căn phòng:

- Này! Cái thằng oắt con ấy đâu rồi nhỉ?

Tôi co mình lại thêm nữa trong góc tối. Người lớn tuổi trả lời:

- Nó ở đằng sau cái bồn ấy. Ê! Nhãi bước ra đây mau.

Ông ta gõ khẩu súng lên cái thùng làm tôi giật bắn người, chui ra khỏi chỗ núp.

Gã công an trẻ vứt mớ hạt bí còn lại xuống đất và tiến về phía tôi. Hai bàn tay của hắn ta nom có vẻ khổng lồ, ngón trỏ và ngón cái nám nâu mầu nhựa thuốc lá, y như mầu răng của hắn vậy. Hắn tóm lấy cổ tôi, đẩy tôi tì vào cái thùng nước, và chẹn họng tôi làm tôi nghẹt thở. Tôi vùng vẫy để thoát ra. Mũi hắn nở to, phì phò như một con trâu điên, rồi hắn rít lên vào mặt tôi:

- Nói cho tao biết, thằng nhãi, đứa nào là chủ ghe?

Tôi khò khè, cố thì thào trả lời:

- Thưa ông, cháu đâu có biết gì. Cháu chỉ bỏ nhà đi hoang thôi mà.

- Mày thẽo thượt quá, nhưng rồi không biết mày nói dối như thế được bao lâu.

- Thưa đồng chí, cháu không có nói dối.

Hắn gằn giọng:

- Nghe kỹ đây: Tao không là đồng chí của mày.

Mặt hắn nhăn nhúm đầy vẻ thù hận.

Bất thình lình, từ phía sau tên công an trẻ, lão già kia vung tay ra một đòn trời giáng vào giữa mặt tôi. Mắt tôi lóe lên cả ngàn con đom đóm. Rồi chúng nhấc bổng tôi liệng vào cái bồn sắt làm nước bắn tung tóe trên sàn xi măng. Tôi cố ngoi lên mặt nước, nhưng một bàn tay mạnh cùi cụi đã nhấn tôi chìm vào trong khối nước bẩn thỉu. Bị dìm trong thùng sắt, phổi tôi như căng phồng. Một trong hai tên nện cái vồ rầm rầm lên vỏ ngoài của cái bồn. Tiếng nước dội vào lại xuyên qua lỗ tai của tôi đau đớn như cả ngàn mũi kim. Tôi không còn biết trời trăng gì nữa nhưng bọn họ vẫn chẳng để cho tôi ngoi lên. Cuối cùng, chúng kéo tôi ra khỏi mặt nước như kéo một cái giẻ rửa bát dơ dáy.

Gã công an lớn tuổi lắc mạnh tôi, cười sằng sặc:

- Bây giờ thì mày chịu khai chưa?

Tiếng nói của họ nghe xa thăm thẳm vì hai tai của tôi đã ù. Tôi nôn ọe và ho sặc sụa để cố tống hết những chất lỏng còn đầy trong lá phổi. Họ đẩy tôi trở lại bồn nước. Nhưng lần này, tất cả đã chìm trong một mầu đen và tôi rũ xuống trong tay họ.

Tôi tỉnh dậy trong khoảng không tối như mực, hai tay bị trói ghì trước ngực. Má bên trái của tôi tì lên nền sàn bọc vải nhựa lạnh lẽo và mốc meo. Chung quanh tôi, tất cả dường như lắc lư theo một nhịp điệu đu đưa buồn nản. Rồi, ý thức của tôi bắt đầu nhận ra được tiếng động cơ nổ và cái mùi bụi đường. Tôi biết là mình đang nằm trong một cái xe lớn. Mỗi lần nó giồng lên một hòn đá, ruột gan tôi lại giật lên đau đớn. Tuy nhiên, tôi đã nôn được thốc tháo tất cả mọi thứ trong bụng, chỉ còn lại dư vị đắng nghét ở cổ họng mà thôi. Tôi tò mò chống tay ngồi dậy, lén nhìn qua một cái lỗ thủng nhỏ xíu trên thành xe bằng sắt.

Trời đang ban ngày. Chiếc xe leo lên một vùng núi cằn cỗi, hoang vu. Hun hút tới tận chân trời là một rừng cây trụi lá, chết đứng, rễ bám xuống lòng đất khô nứt nẻ. Tới cuối một con đường dài, quanh co khúc khuỷu, xe dừng trước một cách cổng han gỉ dựng bên cạnh một dẫy các bồn xăng. Trên cổng có một hàng chữ viết nguệch ngoạc bằng sơn đen: TRẠI CẢI TẠO số PK 34. Và ở hàng dưới có thêm mấy chữ: Dành riêng cho tội phạm vượt biên bằng thuyền.

Trại tù được bao quanh bằng hàng rào kẽm gai, và sau này có người cho tôi biết là có cả mìn bẫy nữa. Ở cả hai phía bên cổng, những đường hào hẹp được đào chạy chung quanh khu vực, rắc rối như một mê cung. Ở bên trong có một chòi canh mái lợp tôn, ba người lính đứng gác, nghiêm chỉnh trong bộ đồng phục mầu xanh lá cây của công an, súng trường đeo trên vai. Khi chiếc xe tải dừng lại, một trong ba người leo xuống để mở cánh cổng. Bất thình lình, tấm bạt che nguyên chiếc xe được kéo tung ra. ánh sáng chói chang ùa vào mang theo cái nóng nung nấu ở bên ngoài.

Thêm mấy người gác xuất hiện. Hai trong nhóm họ túm cái dây trói ở cổ tay tôi để lôi tôi xuống xe. Cái sân bên trong thì ngổn ngang bừa bãi những đồ phế thải. Đây đó lăn lóc các loại võ khí nặng, những quả bom Mỹ đã gỡ ngòi, những vỏ đạn súng cối và thêm cả cái xác thép của khẩu bích kích pháo. Khu vực của tù nhân bao gồm những căn trại dài, một tầng, cất theo kiểu trại lính nối liền với nhau theo kiểu tay nắm tay. Tùy theo tuổi tác và giới tính, tù nhân được cách ly trong những khu riêng biệt, phân cách bởi những hàng rào cao nghều nghệu, có nơi còn có cả bãi mìn.

Những người gác bỏ tôi một mình dưới nắng chang chang. Đây đó, tôi nhìn thấy những toán tù nhân đi theo một hàng dọc giữa những căn trại. Họ toàn là phụ nữ và trẻ em. Những cái đầu trọc phơi dưới ánh nắng mặt trời nóng như thiêu, những cái vai vẹo đi, những đôi mắt thất thần lặng lẽ nhìn xuống đất. Hình dáng họ đờ đẫn như những thây ma khiến tôi khiếp hãi quay mặt đi, không dám nhìn tiếp.

Từ bên trong một căn trại, một viên chức nhà tù sải bước đi về phía tôi. Hắn ta tuổi chừng ngoài bốn mươi, lùn tịt và ốm nhom. Đôi mắt của hắn, nấp sau cặp kính mát to quá khổ, chẳng lộ ra xúc cảm nào khi hắn túm lấy sợi dây trói và dẫn tôi đi ngang qua cái sân rộng hình vuông.

Hắn điệu tôi tới một cái miệng hầm nhỏ đào sâu xuống đất. Phía trước mặt, cách mấy chục thước là một hàng rào kẽm gai ngăn cách nhà tù với khu trại của đàn ông. Từ xa, một vài nam tù nhân lén nhìn hai chúng tôi trong khi họ cũng lê bước đi theo một hàng dọc.

Người cai ngục tháo cánh cửa sập để lộ ra một căn hầm lớn phía dưới. Ông ta nói:

- Xuống lẹ!

Tôi nhìn xuống căn hầm tối om, rộng khoảng hai thước rưỡi, dài chừng ba thước và sâu khoảng chín thước. Cái nền hầm lấp lánh phản chiếu ánh sáng và xông lên mùi nước cống nồng nặc. Có ai ở dưới đó rền rĩ than khóc nghe như từ dưới đáy địa ngục vẳng lên. Kinh hoảng, tôi vội giật lùi lại mấy bước. Người cai ngục cởi trói cho tôi rồi hỏi gằn:

- Ê, thằng lai Mỹ, mày muốn dùng cái thang hay là để cho tao đá mày xuống?

Tôi từ từ tụt xuống cái thang bằng gỗ nằm ở dưới, hụt hẫng cách mặt đất chừng non thước rưỡi. Cái hầm giam được xây bằng gạch đỏ, chẳng có ống thông gió ngoại trừ cách cửa lật. Khi luồng khí lạnh xuyên vào da tôi như những móng vuốt của thần chết, tôi chợt nhận ra rằng mái đầu của tôi đã hoàn toàn trọc lốc giống như tất cả các tù nhân trong trại PK 34. Hẳn là trong thời gian tôi bị ngất đi, những viên công an tại Vịnh Cam Ranh đã đem cái đầu của tôi ra cạo nhẵn.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:29 pm    Tiêu đề:


Chương ba mươi bẩy


Bên trong căn hầm giam ẩm mốc, khoảng hơn nửa thước nước rỉ từ dưới đất lên tạo thành một cái giếng cạn. Lòng đất cực kỳ lạnh giá mặc dù nhiệt độ nóng bức ở bên ngoài. Trong khoảng tối tăm bùn lầy, có bóng dáng tù nhân lép nhép xê dịch chậm chạp để chừa chỗ cho tôi. Khi tôi đã chui vào hầm, người cai ngục rút cái thang lên và hạ cánh cửa sập xuống. Đâu đó trong bóng tối, có tiếng đứa trẻ khóc. Rồi tiếng phụ nữ lạy lục van xin. Giọng của bà ta dội vào bức tường gạch rồi tan biến đi. Dần dần, mắt tôi quen với bóng tối, tôi nhận ra hình dáng của hàng vài chục người tù đang ngồi chen chúc, sát cánh nhau. Chưa bao giờ tôi lại trông thấy một nỗi tuyệt vọng cùng cực đến như thế.

Bỗng nhiên tấm ván cửa ở tầng trên lại bật mở và có tiếng động cơ nổ ầm ĩ. Mọi người đứng thót dậy và lao xao rên rỉ với nỗi lo sợ. Mặc dầu tôi không biết tiếng ồn ào đó có ý nghĩa gì nhưng tôi cũng trở nên hốt hoảng.

Hai cái vòi nước to và chắc chắn xuất hiện, tuồn qua cách cửa rồi chĩa xuống chúng tôi. Trước khi tôi kịp chuẩn bị để thích ứng thì một tia nước lạnh buốt đã xịt vô tất cả mọi người trong hầm. Trẻ em khóc ré lên, bám cứng lấy mẹ của chúng. Đám người lớn thì ép sát vào thành tường, ưỡn ngực ra để chống lại sự tấn công dữ dội. Mặc dù trong cơn hoảng hốt, tôi vẫn cảm thấy luồng nước lạnh quét đi cái khô khốc đắng nghét trong miệng, khiến cho cơn khát trong cổ tôi dịu đi. Mấy cái vòi tiếp tục xịt nước trong mấy tiếng đồng hồ sau đó. Bên trong gian hầm này, mực nước đã dâng cao tới bụng của tôi. Dưới chân chúng tôi, nền đất trở nên mềm nhũn và trơn trượt. Sau cùng động cơ máy bơm được tắt đi, mấy cái vòi cũng được rút lên. Bóng tối một lần nữa bao trùm lên khoảng không gian đầy bất hạnh này.

Tôi mất hẳn ý niệm về thời gian. Trong bóng tối bưng bít, ngày và đêm chẳng có ý nghĩa gì. Tôi ép mặt lên tường, thích hít thở cái mùi ẩm ướt của nó để tránh cái hôi hám bốc ra của hơn ba chục con người tuyệt vọng ở đây. Vài con bọ nhỏ xíu trườn trên khắp người tôi. Có con đậu ngay cách mũi của tôi nhưng tôi cũng không thèm đuổi chúng nó đi. Lạ thay, tôi càng chú ý đến sự hiện diện của chúng thì đầu óc tôi càng ít chú ý tới cái đau đớn của xác thịt. Điều ấy giữ cho tâm trí của tôi khỏi phát điên lên.

Trước mặt tôi, cách vài bước, là một phụ nữ. Ngực áo bà ta mở banh ra. Bà ta đang ghì chặt đứa con chừng sáu, bẩy tuổi vào tấm ngực trần của mình. Đầu đứa trẻ ngả trên vai gầy trơ xương của mẹ nó. Đôi môi bà run rẩy vì lạnh đang lắp bắp nói điều gì tôi nghe không rõ. Tôi xích lại gần bà hơn và nói:

- Thím nói gì, cháu nghe không rõ?

Bà ta quẹt mớ tóc ướt khỏi mặt. Rồi cũng bàn tay ấy, bà rờ lên đầu đứa trẻ, chớp chớp mắt. Mấy lời từ miệng bà thốt ra tôi nghe không mạch lạc Tôi lắc đầu:

- Cháu vẫn không hiểu.

Bà đẩy đứa con của mình về phía tôi. Trong bóng tối, tôi thấy thân hình bất động của nó được bọc bằng một cái chăn len. Bà mẹ nói, lần này nghe rõ hơn:

- Ẵm nó giùm thím chút đi cháu.

Tôi nhận đứa bé nặng nề trên tay của mẹ nó. Trong cánh tay tôi, đầu nó rũ lả về phía sau như con búp bê bị gẫy cổ. Cái chăn ướt rớt ra khỏi mặt con bé và mấy ngón tay của tôi chạm phải làn da nhăn nhúm và xù xì như một miếng da thuộc. Đôi môi của nó sưng phồng lên như hai con đỉa no căng trên khuôn mặt nhỏ bé và không còn sự sống.

Tôi thẩy cái xác của con bé trở lại vòng tay của mẹ nó và rú lên. Đầu óc tôi choáng váng. Người đàn bà nhận lại đứa con, lại ôm vào bộ ngực để trần của mình. Mặt bà vẫn giữ vẻ lạnh lẽo, không cảm giác. Tôi lùi lại cho xa hai mẹ con bà, tiếp tục kêu rú lên cho đến khi tôi mất thăng bằng và ngã xuống cái hầm phân bẩn thỉu.

Sau khi tiếng rên rỉ của đám tù nhân nguôi bớt đi, nỗi tuyệt vọng vô tận, cơn đói cồn cào và cái giá lạnh không ngừng mang tới chặng thứ hai của sự đầy đọa. Đầu óc tôi trống rỗng, không còn suy nghĩ nữa, thay vào đó, tôi thu mình lại, tự coi như rũ liệt cho đến khi cách cửa sập lại được mở lên. Tôi đã bị chôn vùi trong cái hầm dưới mặt đất này bao lâu rồi? Tôi chẳng thể biết được.

Ánh sáng lùa vào làm chúng tôi lóa mắt. Giọng của người cai tù gầm gừ vang lên ở phía trên, báo tin thời hạn khổ hình đã chấm dứt. Vẫn cái thang lúc trước được thả xuống.

Chúng tôi trèo lên như những bộ xương người từ dưới mồ chui ra. Cẳng chân tôi tê cóng, bầm tím và mưng mủ, líu quíu không tuân từ trí óc tôi nữa. Dưới ánh sáng mặt trời, chúng tôi xếp một hàng ngang, níu chặt lấy cánh tay nhau để nương dựa. Cái động cơ lại rú lên xình xịch và mấy người gác lại chĩa vòi vào cơ thể chúng tôi để rửa đi những chất bẩn. Sau cuộc tắm gội, chúng tôi được trao mỗi người một bộ đồng phục mới dành cho tù nhân gồm cái quần ka ki đen, cũ đã bạc mầu, loại “một khổ xài chung” và một cái áo thung có tay mầu đen.

Đứng trước chúng tôi, viên cai ngục khởi sự lên lớp. Mớ tóc rối beng của hắn trở thành mầu mực xanh dưới ánh nắng, to quá khổ với cái mặt nhỏ xíu. Hắn cố đọc một mảnh giấy nhầu nát qua đôi mắt kính râm. Sau vài lần cố gắng nhưng không thành công, hắn quẳng mảnh giấy qua một bên, rồi nói:

- Cái hầm mấy người mới chui ra, dân ở đây gọi là động Nước Đái Con Yêu. Trong đám các người, có kẻ bị ốm nặng, thậm chí có kẻ đã mất mạng rồi. Nhưng tôi đoán chắc là chẳng có ai trong đám mấy người bị điếc cả. Vậy hãy nghe cho kỹ. Ở đây là trại PK ba mươi bốn, nơi cư trú của tội phạm bằng thuyền từ ba tỉnh Nha Trang, Cam Ranh và Tuy Hòa. Một khi mấy người vô tới đây thì bắt buộc phải tuân theo một số luật lệ. Trại này đặc biệt dành cho phụ nữ và trẻ em. Tất cả mọi người sẽ sống, ngủ và hoạt động theo một guồng máy. Một ngày ba bữa, cấm không được mang đồ ăn vào trong nhà trại. Không ai được phép đi lại tự do trong trại, có nghĩa là muốn đi đâu thì phải đi từng hàng một, ngoại trừ con nít và người ốm bệnh, mấy người đó lao động trong trại. Phụ nữ bắt đầu lao động từ sáu rưỡi sáng đến bốn giờ chiều ngoài ruộng khoai lang ở bên kia núi. Mỗi tháng, các người được viết một lá thư cho gia đình. Tôi không đảm bảo là thư tới nơi nhưng ai muốn viết gì cứ việc viết. Vào lúc này thì gia đình mấy người đã được thông báo cho biết là mấy người đang ở đâu, vậy chừng tháng sau thì có thể trông đợi có người tới thăm. Bất cứ kẻ nào bất tuân luật lệ hay có ý định bỏ trốn sẽ bị nhốt lại trong động Nước Đái Con Yêu. Có ai thắc mắc gì không?

Chẳng có ai lên tiếng. Người cai tù nhún vai:

- Tốt. Hãy đi theo cảnh vệ về trại.

Chúng tôi cùng nhau bước qua khu đất rộng, theo con đường về phía trại. Tôi đi ở cuối hàng. Người đàn bà có đứa con chết di chuyển trước tôi vài bước. Bà ta thì thầm một bài hát ru con và đu đưa cái xác trên tay.

Bỗng nhiên ở phía sau tôi, cách hai lớp hàng rào kẽm gai, một giọng quen thuộc, như vọng từ ký ức, gọi tên tôi lên. Tôi cảm thấy có một luồng điện chạy qua xương sống lưng của mình. Tôi quay lại. Một người đàn ông tì trên hàng rào ở trại giam phía bên kia. Tay của hắn níu lấy hàng rào kẽm gai. Tôi không nhận ra được mặt hắn ta, nhưng cái giọng thì vẫn y nguyên. Hắn nhe răng ra cười và vẫy tôi:

- Ê! Kiên! Kiên đó à? Dượng Lâm đây, còn nhớ không?

Một người lính túm lấy hắn lôi ra khỏi hàng rào. Nhưng nụ cười trân tráo vẫn còn in trên khuôn mặt của hắn.

Tôi muốn bỏ chạy, nhưng đầu gối của tôi loạng choạng. Tôi muốn lên tiếng nhưng lời lẽ cứ mắc nghẽn trong cổ họng. Chung quanh tôi, mọi vật như tối sầm lại. Trong khi phấn đấu để giữ sự tỉnh táo, tôi tự hỏi tại sao hắn ta vẫn còn nhận ra tôi mặc dầu cách biệt đã gần sáu năm.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:29 pm    Tiêu đề:


Chương ba mươi tám


Tối hôm ấy, tôi thức dậy trong phòng giam mới, người run lẩy bẩy như thằn lằn đứt đuôi. Cái chiếu tơi dưới mình tôi ướt sũng mồ hôi, vậy mà tôi vẫn không ngớt run rẩy vì cái lạnh buốt phát ra từ tận trong xương tủy. Cơn đau cứ chạy ngược chạy xuôi suốt dọc xương sống, lan tỏa ra khắp các khớp tay chân.

Bên trong trại không có điện. Còn nhà giam thì lại không có cửa sổ để thông gió. Hậu quả là không gian trong nhà tù luôn bị chìm vào bóng tối nhờ nhờ. Một môi trường tuyệt hảo cho lũ chuột đói ăn. Chúng ngoi ra từ rãnh nước ở phía sau, xông lên sặc sụa mùi hôi thối. Cặp mắt của chúng đỏ lừ, sáng rực lên khi chúng chạy đuổi nhau hay nhẩy lên những tù nhân để kiếm thức ăn. Có vài con gậm nhấm bàn chân tôi, răng phát ra những tiếng tic tic. Kiệt sức, tôi không thể xua chúng đi. Tôi chỉ còn nước ngọ nguậy ngón chân, hy vọng là chúng sớm bỏ cuộc. Nhưng đó chỉ là ảo vọng.

Đêm tĩnh lặng. Những đứa trẻ khác cùng chung với chỗ của tôi thì chỉ ứ hự khi bị chuột rứt tóc hoặc cào vào da rồi lại tiếp tục ngủ ngon lành. Tôi nằm co quắp, cố gượng mình để giữ mấy củ sắn trong bao tử, bữa sắn mà tôi được chia phần chiều nay trong phòng ăn tập thể, khỏi phải ói ra. Khi cơn sốt lên cao, cái dạ dầy trở nên khuấy động càng lúc càng trở nên tàn bạo hơn. Tôi không còn chịu nổi, gập người nôn thốc nôn tháo ra sàn tuốt tuồn tuột mọi thứ ở bên trong. Trong khoảng khắc bọn chuột đã bu lấy cái đống bầy nhầy này. Tôi rê mình ra chỗ khác, nằm xuống. Cuối cùng, cái lạnh tàn khốc từ trong xương cũng nguôi đi.

Năm giờ sáng, bản quốc ca được phát ra qua một cái máy thu thanh bán dẫn. Những nốt nhạc rít lên trong loa phóng thanh, tiếp theo là chuông rung liên hồi, giục giã mọi người là phải thức hết cả dậy. Bên ngoài, mặt trời còn ẩn sau dãy núi. Cả khu vực bị bao phủ bởi một lớp sương mờ mờ, ảm đạm, dầy đặc đến nỗi chúng tôi có cảm giác như mình đang bơi giữa những tầng mây. Ở khu đất trống, chúng tôi run lập cập vì cái lạnh lẽo của buổi hừng đông miền núi, nên tập thể dục theo lời nhạc cho người ấm lên. Sau đó là bữa ăn sáng, mỗi người một khẩu phần gồm một chút cơm nhão trộn với ít cọng dền. Những con gián chết nổi lều bều trong chén, và đất cát bám vào các rễ rau không được rửa khiến có mùi vị đắng nghét.

Rồi thì người lớn phải ra xếp thành hàng ở trước trại. Bọn trẻ và tôi thì bị khóa lại bên trong phòng ăn tập thể cho tới tám giờ sáng. Chúng tôi nhìn mọi người sinh hoạt qua những cửa sổ được che chắn bằng chấn song và lưới sắt. Mỗi tù nhân phụ nữ được phân công một xe hai bánh chất đầy những dây khoai vừa mới được cắt và đã bó thành bó và sẵn sàng mang đi trồng. Họ đẩy những xe cút kít đó xuống con đường đi qua khu chứa vũ khí phế thải, qua cánh cổng chính của nhà tù để tiến về phía bên kia núi. Bọn lính canh theo sau bọn tù trên những xe ngựa kéo, lăm lăm những khẩu súng máy trên tay.

Khi tới thời điểm giao công việc cho lũ trẻ con, một anh lính canh đi vào khu nhà bếp. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế và mở xấp hồ sơ dầy cộm ra, kêu lên vài tên. Một người lính khác ló đầu qua cánh cửa ra hiệu cho tôi và hai đứa nhỏ khác đi theo.

Chúng tôi đi theo anh ta đến một khoảng đất cách chỗ có cái hầm giam ngầm không xa lắm. Anh ta dừng lại trước một đống đá cao nghễu nghện, cách cái hàng rào hai lớp khoảng hai chục thước. Chẳng thèm ngẩng cái đầu hói lên nhìn chúng tôi, anh ta ra lệnh:

- Ê, tụi bây. Khuân những hòn đá này chất ra ở hàng rào kẽm gai coi. Bắt đầu từ chỗ có vạch đen kia kìa và đắp đá dài theo đó. Giống như tụi bay đắp nền cho cái hàng rào vậy. Hiểu chưa? Đây là công việc giao cho tụi bay trong ba tuần, làm cho xong, nếu không thì tao sẽ tìm cách trị tụi bây đó.

Chúng tôi gật đầu vâng dạ.

Người lính đi khỏi. Tôi nhấc lên khối đá đầu tiên và vần nó dọc theo con đường. Thoạt tiên, việc này chả có vẻ gì là vất vả lắm, và có việc làm cũng tốt. Nhưng khi mặt trời đã lên cao và nhiệt độ tăng lên dần thì cái lưng của tôi đã bắt đầu đau âm ỉ vì phải khòm khá lâu. Cơn sốt đã trở lại ăn lan ra khắp người tôi như những giọt axít. Bên cạnh tôi, hai đứa kia cũng chia sẻ chung sự đầy đọa. Chúng cởi trần. Áo sơ mi cột vòng quanh thắt lưng để lộ ra những bộ ngực lép kẹp như ức chim sẻ. Hai vai của chúng xệ xuống và lưng thì oằn song song với mặt đất. Dưới sức nặng của những khối đá, chúng tôi loạng choạng cất bước.

Ở phía bên kia hàng rào hai lớp, dượng Lâm đang quì gối nhổ cỏ dại trên nền đất khô cằn bằng hai tay trần. Cặp mắt hắn đăm đăm nhìn tôi làm cho tôi phải quay đi chỗ khác. Bộ mã của hắn đã thay đổi rất nhiều so với hình ảnh trước đây tôi còn nhớ. Hai má sưng vều lên, đầy những vết tím bầm cả cũ lẫn mới. Cái mũi có vẻ như bị gẫy vài lần, bây giờ nom bẹp dí và vẹo hẳn đi. Trông hắn có vẻ quá mập, nhưng là cái mập bệnh hoạn, như thể dưới lớp da vàng bủng, hắn bị trương nước hơn là có nhiều mỡ. Hắn thì thào gọi tôi mỗi khi tôi tiến gần tới hàng rào:

- Lại đây, chú hỏi cái này.

Sau vài lần hắn gọi, tôi dừng lại và hỏi:

- Ông muốn gì? Làm thế nào mà ông nhận ra tôi?

Lâm ném một búi cỏ dại vào cái sọt đeo bên người nở một nụ cười nom cũng xảo quyệt như ngày xưa:

- Hỏi buồn cười chưa? Thật tình mà nói, lúc đầu tao chưa chắc là mày, nhưng tao thử gọi tên mày mà mày quay lại thì còn ngôn ngữ gì nữa. Vả lại, cũng chẳng có khó gì mà không đoán ra. Lẵng nhẵng với đám tù kia, mày lạc lõng giống như con chó với bầy cừu.


Hắn liếm môi, nói tiếp:

- Ngoài ra, trong suốt sáu năm vừa qua, tao còn biết làm gì ở cái chốn này nếu không nghĩ đến gia đình mày. Còn mày sao vậy, nhóc? Bộ lên hụt con tầu đi tới thiên đàng nên phải dừng chân ở đây thăm thú Địa ngục, phải không? Còn má mày bây giờ ra sao?

- Mẹ tôi bình an. Cảm ơn.

Tôi trả lời rồi bỏ đi lượm cục đá khác. Khi quay trở lại, tôi lựa một chỗ cách xa hắn. Vậy mà hắn lại lén tới gần chỗ của tôi, giọng hắn thì thầm:

- Không, má mày không bình an. Mày ở đây, chắc mụ ta cũng đang ngồi tù đấy thôi. Nó đâu, con đượi quỉ sứ?

Tôi ngắt lời:

- Đừng có mất công tìm kiếm. Bà không có trong này đâu.

Cặp lông mày của hắn nhướng lên một cách đắc thắng. Đôi lòng trắng trong mắt hắn cũng đã vàng ệch như nước da của hắn:

- Sự thật còn khá hơn là tưởng tượng của tao nữa. Mày đi tù thì cũng đủ giết má mày rồi. Cám ơn trời đất đã cho tao sống đến hôm nay để tao được nhìn thấy ngày hôm nay. Bây giờ có chết tao cũng hả dạ rồi...

Hắn ngừng lại, cặp mắt hấp háy dưới ánh nắng. Thốt nhiên, nụ cười tắt trên môi của hắn:

- Ngoại trừ cho mày vô tù là quỉ kế của con mẻ để bỏ rơi mày, cũng như sáu năm trước mẻ đã làm một lần như thế với tao?

Tôi đứng thẳng người lên, quên cả cái đau lưng:

- Ông khùng hả. Mẹ tôi không bao giờ làm cái chuyện thất đức như thế. Ông xui xẻo thì rán chịu, đừng có đổ thừa cho người ta.

Cơn giận bừng bừng lên mặt, hắn đứng bật dậy, tay nắm lấy cái hàng rào như muốn xông lại đánh tôi. Từ phía sau hắn, một người cai tù đang đi tới. Không cần gọi Lâm, gã này dùng chân đá một cục đất đỏ về phía hắn. Cát văng lên trúng gáy Lâm làm hắn sững người lại. Hắn cắn môi, rồi quay lại trực diện với người lính. Liếc nhìn cái số tù in trên ngực áo của hắn, người cai hỏi:

- Có chuyện gì đó, anh X-không-sáu-bẩy-năm-tám?

Hắn lắp bắp:

- Thưa không có chuyện gì. Có con sâu chui vào trong đũng quần của tôi, thưa ông. Nhưng tôi đã đập chết nó rồi.

- Tránh xa cái hàng rào ra. Đừng có để cho tôi phải quay lại một lần nữa. Dù anh có đau ốm hay không thì tôi cũng tặng anh một phát đạn vô đầu cho rồi đời.

- Vâng thưa ông!

Lâm trả lời và làm bộ như tiếp tục nhổ cỏ dại trên khoảng đất cằn cỗi.

Ngay khi người lính coi tù vừa đi khuất, hắn lại thì thào với tôi:

- Lắm lúc sự đời xẩy ra chẳng giống như mình tưởng. Má mày là đồ phù thủy, Kiên ạ. Con mẻ tống mày vô cái trại tử này là có lý do, giống như mụ đã làm thế với tao. Mụ ta thù đàn ông có hạng, mà coi mày kìa, bắt đầu trổ mã thành gà trống rồi. Chuyện mụ ta hại mày thì cũng dễ hiểu thôi!

Lòng đầy giận dữ, tôi phun một bãi nước bọt vào hướng hắn đứng, rồi bỏ đi.

Lâm phá lên cười:

- Nhìn tao đây này. Nhìn cho kỹ mặt tao đi, Kiên. Bởi tao bây giờ chính là hình ảnh tương lai của mày, nhóc. Đây là địa ngục và cũng là nhà mồ của mày, nơi mà dân vượt biên vào để vĩnh viễn chôn thây.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:30 pm    Tiêu đề:


Chương ba mươi chín


Ngày 15 tháng 5 năm 1981

Hai tháng ròng, tôi sống héo hon sau hàng rào giây kẽm gai. Thế giới không còn hiện hữu nữa. Mỗi đêm, trước khi đắm chìm vào giấc ngủ trên manh chiếu, tôi lấy một cục than nguệch một nét lên tường. Cuốn lịch này càng tăng lên thì hy vọng của tôi càng lụi tàn đi. Từ từ, tôi đổi lốt để trở thành một tù nhân. Lúc đi trong hàng một với các người tù khác, đầu tôi cúi xuống, hai vai so lại, dường như có một cái gì đó đang khởi sự kiệt quệ trong tôi.

Vào buổi sáng ngày mười lăm tháng năm, ba ngày sau cái sinh nhật lần thứ mười bốn của tôi, sau bữa sáng, bọn con nít đã bị nhốt trong nhà ăn như thường lệ. Bên ngoài khu đất trống, viên cai tù đứng trên một chiếc ghế và đang dò trên một xấp hồ sơ mỏng. Tù nhân đứng xếp thành hàng, mệt mỏi, lờ đờ và dửng dưng. Tuy nhiên đằng sau cái nhìn trống vắng của họ, có nhen nhúm một tia hy vọng.

Người cai tù dành thì giờ để đọc tên những người tới thăm nuôi trong danh sách ông ta cầm trên tay. Đứng ở cái chỗ cửa sổ nhỏ chen chúc cùng lũ trẻ, tôi nghe thấy có cả tên mẹ tôi. Tôi có thể cảm nhận được sự hiện diện của bà. Bà đang ở đâu đó sau tấm cánh cổng han gỉ kia, giữa đám đông huyên náo cũng tới để thăm thân nhân của họ. Mùi thịt chà bông, mùi xôi nếp và mùi cà ri thơm lừng trong không khí. Tôi cũng nghe tiếng nồi kêu loảng xoảng bên cạnh bếp lửa rộn rã mà họ nhóm lên để chống lại cái lạnh lẽo của buổi sáng sớm.

Bằng một giọng ôn tồn không giống thông lệ, viên cai tù nói:

- Ai có người thân mà tên vừa được đọc thì người ấy có thăm nuôi. Vậy hãy ở lại nhà trại cho tới khi được gọi. Còn những người khác thì vẫn lao động ngoài ruộng khoai như thường lệ.

Sau cuộc thông báo, bon trẻ con vẫn phải ở trong nhà ăn tập thể, còn người lớn thì lục đục quay về chỗ ở của họ. Vào lúc mười giờ rưỡi, tiếng chuông trên văn phòng của cai tù reo thật lâu làm ai nấy nhẩy bắn cả người lên. Chúng tôi chạy ùa ra khỏi dãy nhà trại và đứng xếp thành hàng một, lòng bồn chồn chờ đợi tới lúc được di chuyển.

Phía sau tháp canh vào khoảng mười lăm thước và đối diện với khu chứa đồ phế thải, là khu dành cho khách thăm nuôi được xây bằng gạch nung, có cột xi măng và lợp ngói đỏ. Mọi người dồn ép và thúc đẩy nhau trong một khoảng chật hẹp để cố tìm gương mặt quen thuộc của người thân. Nhưng khi tôi nhìn thấy mẹ tôi thì mọi tiếng ồn ào và rối loạn đó chìm đi. Bà ngồi trên chiếc ghế băng ngay trước hàng ghế cuối cùng, kề cận với đám đông. Đã nhiều năm qua, đây là lần đầu tiên tôi thấy bà son phấn trang điểm chỉnh tề. Mái tóc đã muối tiêu của bà bới về phía sau thành búi tóc lớn, đơn giản. Đôi môi của bà vẫn mọng và rõ nét được thoa phớt lên bằng một mầu son tự nhiên. Nước da xanh xao và có tuổi của bà được che phủ bằng một lớp phấn. Sự trang điểm, tuy vậy không làm mẹ tôi xa lạ và dữ tợn như ngày xưa. Trái lại, bây giờ chính son phấn đã làm cho nét mặt của bà trở nên mềm mại, dịu dàng hơn, và khiến cho tôi cảm thấy gần gũi với bà hơn. Nom thấy tôi, bà vẫn ngồi yên trên ghế và nhìn sững. Đôi mắt của bà với những nét chì tô đậm, đã đẫm lệ.

Tôi ngã quị xuống trước mặt mẹ tôi. Bà giữ lấy đầu tôi trong hai tay, hai đầu gối tôi dựa lên đôi chân của bà. Tôi thấy nước mắt của mình ràn rụa qua những ngón tay của bà và rớt xuống đùi bà, nhưng tôi mặc kệ. Đã từ lâu tôi không được khóc một cách công khai, mà nỗi thống khổ của tôi thì vô cùng. Mẹ tôi ôm lấy tôi vỗ về như ngày xưa tôi còn bé. Và giọng dịu dàng của bà thì thầm vào tai tôi, bà hát “Happy Birthday! chúc mừng sinh nhật con.”

Rồi bà hôn lên má tôi. Nước mắt của mẹ tôi nhỏ xuống cổ tôi, nhưng tôi cảm thấy khỏe hơn trước, như được hồi sinh. Tôi nói:

- Mẹ ơi, con không cứu được dì Đặng. Dì mất rồi.

Mẹ tôi gật đầu:

- Mẹ biết, con à. Chuyện dì mất mẹ biết từ mấy tháng nay rồi. Ba ngày sau khi con bị bắt, các ngư dân đã tìm thấy xác của dì dạt vào vịnh Cam Ranh. Cha mẹ của dì tới để làm đám tang.

Bà ngừng lại, lấy cái bóp ra và nói:

- Thôi mình nói chuyện khác đi. Mẹ không muốn xuống tinh thần nữa. Hãy nói về quà sinh nhật của con đây này.

- Mẹ ơi, con không muốn bất cứ món quà nào đâu. Ở trong này con không được giữ bất cứ cái gì, chỉ trừ đồ ăn thôi.

Đôi mắt của bà sáng lên:

- Mẹ biết chắc chắn là con thích cái này.

Bà moi ra một tấm giấy có ép plastic hẳn hoi và trao cho tôi:

- Đây là quà của con, giấy thả con đó. Mẹ tới để đón con. Cứ khi nào con sẵn sàng xong là mình về.

Tôi la lên một tiếng reo mừng, nhưng sự khích động của tôi đã vụt tắt ngay khi tôi trông thấy người lính gác bận bộ đồng phục mầu xanh đứng ở lối ra vào. Tôi hỏi mẹ:

- Họ không cho con về thì sao?

Bà quả quyết:

- Đừng lo. Mẹ đã báo cáo với ông đội trưởng rồi. Ông tổng thư ký trưởng ở Nha Trang đã tự tay ký vào tờ giấy tha này rồi. Chẳng có ai dám cản con ra khỏi đây đâu.

Bà mở cái bao ra và sắp xếp vài món đồ ăn trên lòng bà rồi ra hiệu cho tôi ăn. Mặc dù cái hộp đựng đồ ăn trong còn đậy nắp, tôi phát giác ra cái mùi vị của bánh tét gói trong lá chuối, mùi quen thuộc, béo ngậy, của món gà xào gừng, và trên hết thẩy, cái món mà tôi ưa thích nhất là món bò nghiền ướp tỏi, ớt, bọc trong lá nho nướng. Tôi ngốn mấy món ấy thật nhanh và nhìn lên mặt mẹ tôi. Đôi môi của tôi óng lên vì mỡ gà. Tôi nói:

- Mẹ ơi, có điều này mẹ nên biết.

Bà nhìn tôi, đôi mắt lộ vẻ thắc mắc. Tôi đứng dậy và nhìn chăm chú ra phía cửa sổ. Qua khu đất trống, tôi nhìn thấy một khuôn mặt đen đúa, tay đang nắm lấy sợi dây kẽm gai và nhìn chòng chọc vào tôi. Nắng gay gắt xói lên mặt của hắn ta, nhưng hắn vẫn đứng yên, bất động. Chỉ vào hắn, tôi nói với mẹ tôi:

- Dượng Lâm đang ở kia kìa. Ông ấy cũng ở trong này đã sáu năm rồi.

Mẹ tôi gật gù như một chuyện đương nhiên, như cái tin vừa rồi chẳng có gì làm bà phải xúc động:

- Con đã có nói chuyện với hắn ta không?

- Chút ít thôi. Ông ta có cái ý tưởng như thế này, ổng đổ thừa mẹ là người đã đưa ông ấy vô tù.

Bà cắn môi dưới của mình:

- À ra thế. Đã tới lúc mẹ và hắn phải nói chuyện với nhau rồi.

Bà đưa mắt nhìn tôi, thoáng nét ưu tư:

- Con nghe đây. Dù biết hay không, thì nay con đã lớn rồi. Mẹ nghĩ rằng con nên tham dự vào câu chuyện mà mẹ sắp nói với hắn ta. Mẹ muốn con đi với mẹ và chỉ nghe thôi, không nói gì hết nghe con. Mình gặp hắn chỉ khoảng mười phút thôi, đừng có sợ. Thôi mình đi.

Bà quơ lấy một cái giỏ khác và lôi ra một chai rượu cognac. Để lại mọi thứ trên sàn nhà, mẹ tôi tiến lại tên cai tù. Bà chào ông ta bằng nụ cười đon đả:

- Thưa ông, xin ông giúp tôi một việc. Chai rượu này chẳng đáng là bao, nhưng xin ông nhận cho. Tôi muốn được gặp người đàn ông đứng ở đằng kia. Tôi quen thân nhân anh ta và họ gửi lời nhờ nhắn với anh ta.

Người cai tù mỉm cười phô ra hàm răng cáu bẩn khói thuốc. Đôi lông mày của hắn nhướng lên sau cặp kính mát tối thui. Hắn hỏi:

- Nhắn cái gì thế?

Mấy đầu ngón tay của mẹ tôi cà cà vào dấu ấn ở cổ chai, bà ấp úng:

- Thật ra thì cũng chẳng có gì nhiều, ông ạ. Chỉ coi anh ta có mạnh khỏe không, thế thôi. Gia đình của anh ta chỉ muốn biết có thế.

Ông ta cầm lấy chai rượu:

- Năm phút thôi đấy nhé. Bắt đầu ngay đi.

Mẹ tôi nắm lấy tay tôi và kéo tôi ra khỏi phòng. Người cai tù kêu lên:

- Ê!

- Dạ, thưa ông...

- Dáng dấp nhà chị giống mệnh phụ lắm đấy...

- Xin cám ơn ông.

Ông ta gật đầu:

- Tôi nói thật. Nếu tôi không nom thấy chị ngồi cùng với cái thằng con lai này thì không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng chị đã từng là gái chơi cho tụi ngoại quốc bẩn thỉu. Tướng sang quá mà! Thật đó.

Mẹ tôi nuốt nước miếng đánh ực rồi ùa chạy ra ngoài, băng qua khu đất hoang. Lâm đứng chết sững, mắt không rời chúng tôi, những khớp tay hắn nắm lên trên dây kẽm trắng bạch. Chúng tôi ngừng lại trước mắt hắn khoảng vài bước. Không ai nói với ai. Cuối cùng, mẹ tôi lên tiếng phá vỡ sự im lặng:

- Chào Lâm. Mạnh khỏe chứ?

- Đ. M. Con điếm thối.

Mẹ tôi chợt phá lên cười. Tay bà xiết chặt lấy tay tôi:

- Sáu năm, sáu năm trời không gặp, anh chỉ biết chửi bậy thôi à? Bộ anh không có gì thắc mắc để hỏi tôi hay sao? Nói đi, không nói thì tụi tui đi à.

Hắn ta hít một hơi thật dài rồi chăm chú nhìn mẹ tôi:

- Tại sao mày đẩy tao vào cái chốn này?

- Ờ... Có khối lý do: anh là một ông bố tồi tệ, anh làm hoen ố thanh danh gia đình tôi, anh phung phí tiền bạc của tôi.

Lâm túm lấy đũng quần của mình rồi hỏi:

- Có thật không đó, Khuôn? Tao nghĩ mày ganh với tao vì tao có con c. bự, còn mày thì không, có phải không nào?

Mẹ tôi xích lại gần, hơi thở bà phà vào mặt hắn:

- Thằng lưu manh. Tao tống mày đi là vì mày hại con tao. Tao là một người mẹ, tao không có cách nào hơn là trả thù, thế thôi.

Hắn ta lùi lại và nhìn tôi:

- Cái gì...? Tại sao mày biết. Phải nó nói với mày không?

Mẹ tôi gật đầu, vuốt tay lên tóc tôi, sự buồn bã lộ trên khuôn mặt:

- Đúng. Bằng một cách gián tiếp, con trai tao đã cho tao biết. Phần lớn là qua hành vi của nó. Tự nhiên con tao đang vui vẻ như thế đó, vừa thấy mày là nó chết khiếp liền. Cũng giống như cái cách mà tao nhìn thấy ở con Loan. Mày có biệt tài Lâm. Mày mò tới ai là kẻ đó xấc bấc xang bang ngay.

Lâm lầu bầu:

- Vô lý...

Mẹ tôi tiếp:

- Dĩ nhiên còn nhiều bằng cớ khác nữa. Bao giờ tao cũng là kẻ biết điều. Nếu không có bằng chứng cụ thể, tao đã chẳng có thể trả thù. Có những đêm thằng bé khiếp đảm vì ác mộng.

Lệ hòa lẫn với chì tô lông mi chảy xuống đôi má của bà:

- Trong lúc tao bụng mang dạ chửa đứa con gái của mày, tao ngồi bên giường của nó coi nó trằn trọc thâu đêm. Môi nó cứ mấp máy kêu tên của mày. Rồi tao hỏi thẳng nó. Trong cơn mê sảng, nó đã kể hết cái chuyện đồi trụy mà mày đã gây ra cho nó. Vậy tao phải làm gì đây? Ông trời xa quá, đợi ổng trừng phạt mày thì đến bao giờ. Vả lại, tao phải tìm cách nào đó để bảo vệ con tao, chấm dứt cơn ác mộng của nó.

Bà quay đi, lấy mu bàn tay gạt những giọt lệ còn vương trên má:

- Vĩnh biệt, Lâm! Tao cầu cho mày rục xương trong tù.

Lâm gọi với theo:

- Chờ đã Mẹ tôi ngừng lại. Hắn hỏi:

- Mày đã làm thế nào? Làm thế nào mà mày đã sai khiến được cả bọn chúng nó bắt tao?

Mẹ tôi thở dài và quay lại đối diện hắn:

- Trước hết, tao báo cáo với ông Trần về chuyện mày với con Loan, mày hiếp nó như thế nào, nó phải phá thai ra sao. Tao hay lắm, vừa lúc tao kể xong chuyện là hắn muốn bằm mày ra. Nhưng đối với tao, tội của mày mà cho mày chết liền thì quá dễ dãi cho mày. Ở tù rục xương, theo tao, thì hay ho hơn nhiều, nên tao lại phải kiếm một lá bài khác để hỗ trợ cho mưu toan của tao. Ông ba Quì đã là cứu tinh. Với cái đầu óc của con này và hai lão phường trưởng chống lại mày thì mày có trốn đi đằng trời!

Hắn ta gào lên, nước bọt bắn tung tóe:

- Đồ đĩ! Mày giết con tao. Cho nên tao làm thế cũng chỉ là huề thôi. Mày không có quyền đem tao vô đây.

- Mày cứ nói mãi về đứa con của con Loan mà không ngó ngàng gì đến đứa con gái của mày là con bé Ti. Bộ mày thật sự tưởng là tao tin cái chuyện mày biết quan tâm tới kẻ khác ngoại trừ bản thân mày hả?

Hắn ta không trả lời, mẹ tôi tiếp:

- Tao mang con tao về nhà, Lâm. Trong vòng vài tiếng nữa, chúng tao lại được hít thở bầu không khí tự do. Dù vết thương lòng do mày gây ra có sâu bao nhiêu đi chăng nữa, thì rồi nó sẽ lành lại theo thời gian. Nhưng còn mày, mày sẽ ở lại đây cho tới khi chết, như một con chó hoang. Và tao cho mày biết, sẽ chẳng có ai trên cõi đời này đoái hoài tới mày.

Mẹ tôi quay lại phía tôi. Đôi mắt của bà phản chiếu ánh mặt trời mầu nâu sậm và lần đầu tiên chúng không lộ vẻ gì bí hiểm. Bà nói:

- Bây giờ con đã biết câu chuyện rồi. Con cũng hiểu tại sao mẹ lại kết bạn bè với ông Ba Quì, phải không. Cái đó gọi là trả thù. Và trả thù thì phải trả giá. Mẹ đã tới với ông ta mỗi lần mẹ xin một sự giúp đỡ. Ông ta nghĩ là ông ta đang lợi dụng mẹ, nhưng thực ra thì chính mẹ là người lợi dụng ông ta. Mẹ làm thế để có thể tống gã Lâm vào tù và gần đây nhất, là để đánh đổi lấy sự tự do của con. Sau này con lớn, tùy con phán xét mẹ về những điều mẹ đã làm, nhưng mẹ xin con hãy hiểu tại sao mẹ phải làm như vậy. Chính mẹ là người đầu tiên thừa nhận rằng những hành động mẹ đã làm là không đúng. Nhưng vì sự an toàn của con, vì sự an toàn của tất cả các con của mẹ, mẹ cũng sẽ chẳng ngần ngại gì mà là y như thế, nếu cần. Một ngày kia, con sẽ phải giúp mẹ giải thích cho em gái của con để cho nó hiểu.

Tôi hỏi:

- Có phải ông ba Quì bắt giữ ông Lâm không hả mẹ?

- Đúng đấy, con.

- Mẹ làm thế nào để ông ấy nghe lời mẹ?

Bà vuốt lên đầu tôi và đáp:

- Bí quyết là ở nụ cười, con ạ.

Nắm lấy tay tôi, bà dẫn tôi đi về khu nhà thăm nuôi để thu thập vật dụng của bà. Rồi chúng tôi đi ra cổng, ở đó đã có chuyến xe đò chờ sẵn dưới ánh nắng chói lọi. Hai tiếng đồng hồ sau, chúng tôi rời khỏi trại giam PK 34.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:30 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi


Chúng tôi ngủ qua đêm tại Cam Ranh. Sáng hôm sau, xe đò tới Nha Trang. Trời đổ mưa từng đợt. Bây giờ là vào những ngày của tháng năm, mây xám che kín cả bầu trời và những cơn gió điên cuồng thổi tốc cơn mưa nặng hạt qua thành phố. Nước mưa tạt vào mặt khi mẹ tôi và tôi bước qua cách cổng trước khu nhà của chúng tôi. Những hạt nước mưa bắn tung tóe trên mặt các chỗ trũng nước trong vườn đe dọa một sự ngập lụt trên mặt đất vốn đã sũng nước rồi. Dưới cây ổi, lũ vịt của nhà bác tôi đang đứng bất động, dấu mỏ vào trong cánh, và nhìn thời tiết bên ngoài bằng những con mắt hé mở. Bên dưới cách cửa chớp nơi cửa sổ phòng ngủ của tôi, một đàn kiến mối đang lăng xăng tìm chỗ khô ráo làm nơi trú ẩn.

Chúng tôi đi vào nhà bằng lối cửa sau. Đem những bao bị vào trong bếp xong, mẹ tôi lôi từ phòng của bà ra một cái chiếu bằng cói và trải ra trước đôi chân lấm láp của tôi. Nhìn từ ngưỡng cửa, căn phòng của tôi nom rộng rãi hơn mọi khi. Cái tủ đứng, cái tủ có ngăn kéo đựng quần áo và cả những cái giường của chúng tôi đều biến mất.

Như để trả lời cho những thắc mắc trong lòng tôi, mẹ tôi nói:

- Để có tiền đút lót cho con được thả, mẹ bán tất cả rồi.

Mọi người trong nhà đều ngồi cả trong phòng của ông ngoại tôi, không nghe thấy tiếng chúng tôi trở về vì trời đang mưa to. Căn nhà nom tối tăm, ảm đạm vì chỉ có chút ánh sáng lùa qua những cửa sổ. Ông ngoại tôi nằm ruỗi trên đệm như đang đắm chìm trong kinh Phật. Cái ống điếu còn nằm hững hờ ở một bên miệng của ông. Khung giường của ông tôi và bàn thờ cậu cũng không còn, chỉ để lại dấu tích mờ nhạt trên nền sàn xi măng mầu xám. Căn phòng trở nên trơ trụi ngoại trừ mấy món đồ của bà ngoại tôi. Bên cạnh tấm gối của bà, vẫn còn cái chầy và cái cối bằng đồng mà ngoại tôi vẫn thường dùng để giã trầu, kế đó là cái giỏ đựng quần áo của ngoại.

Thằng em tôi lúc đó đang ngồi quay lưng ra, bóp chân cho ông tôi. Ngay gần đó, em gái tôi chơi đùa với con Lu đang nằm cuộn mình bên cạnh cái gối của Bé Ti. Một bàn tay nhỏ xíu của nó nắm lấy cổ dề để cho con Lu nằm yên, còn tay kia thì vuốt bộ lông và nựng nựng vào cái nếp nhăn của con chó.

Lu là kẻ đầu tiên nhận ra sự hiện diện của chúng tôi. Nó nhẩy lên từ bàn tay của em gái tôi, vẫy cái đuôi và sủa lên vài tiếng. Jimmy chạy lại với chúng tôi, mặt nhợt nhạt đi vì xúc động. Dưới ánh sáng lờ mờ, khuôn mặt của nó xanh xao như tạc bằng đá hoa cương. Tôi ôm chầm lấy nó và cảm thấy thân mình của nó run rẩy trong vòng tay của tôi.

Ông ngoại tôi lúc đầu còn sững sờ, sau thì quá đỗi vui mừng. Ông nhổm dậy và ra hiệu cho tôi lại gần. Ông nói với tôi giọng đầy xúc động:

- Cám ơn trời phật đã phù hộ cho con được bình an.

Rồi ông lắc lắc cái đầu ra vẻ ngao ngán, nói tiếp:

- Lại đây với ông đi, tội nghiệp cháu tôi.

Khi chúng tôi đang ngồi quây quần sau bữa ăn trưa, Bà bác của tôi tiến vào bếp bằng lối cửa sau. Mới chỉ cách vài tháng mà trông bà già đi đến cả chục tuổi. Khuôn mặt của bà xọp đi, đầy mệt mỏi và có vẻ khắc khổ hơn là bình thường. Ngay cả mái tóc vốn dầy và dài, bây giờ nom cũng mất sinh khí và đuỗn ra như một cái đuôi ngựa. Bà hấp háy đôi mắt sưng húp vì khóc và nói với tôi một cách ngượng nghịu:

- Mừng cháu đã về.

Rồi bà cúi nhìn xuống chân và tiếp:

- Vui lòng giúp bác một chuyện. Con gái bác nó muốn gặp cháu.

Tôi ngẩng lên nhìn mẹ tôi khi đó vẫn giữ im lặng và nhìn chăm chú vào bát cơm. Ông ngoại tôi khẽ vỗ lên vai tôi và nói:

- Đi đi, Kiên. Ánh Nguyệt nó vẫn đang chờ cháu. Đi gặp và chào từ giã chị ấy đi. Chừng mười lăm phút nữa ông và mẹ cháu sẽ gặp cháu.

Bác tôi lấy khăn hỉ mũi ầm ĩ. Vâng theo lời ông, tôi đứng dậy và đi theo bác.

Cái divan bằng gỗ gụ trước đặt ở trong phòng khách mà chị Nguyệt hay nằm trên đó trong suốt thời gian bệnh tật, nay được rời vào phòng chị theo lời chị yêu cầu. Vài bông sen mới nở và một ly sữa được đặt trên một cái quầy ở gần đó. Ánh sáng từ bên ngoài vào chiếu lên khuôn mặt trang điểm quá lố của chị thành những bệt trắng đen, khiến cho chị nom giống như một con búp bê Nhật bản.

Vừa trông thấy tôi, chị Ánh Nguyệt ho lên dữ dội. Thân mình của chị gập lại trong vòng tay của ông bác tôi, cố hớp lấy chút không khí, hai tay chị ôm lấy ngực. Cả gia đình chị đều đứng rải rác ở bên ngoài phòng và nhìn chị, im lặng. Cơn ho cứ mỗi lúc một tăng mạnh hơn cho đến khi chị thổ ra một búng máu trên divan. Áo của chị cũng sũng máu, một phần bắn xuống sàn nhà bên dưới. Sau cùng, cơn ho dịu đi và chị vẫy tôi.

Tôi tiến lại gần giường của chị, bà bác thì đứng ngay bên cạnh tôi. Tôi nhấc một tay của chị lên và giữ lấy trong tay tôi, cảm thấy những ngón tay của chị lạnh như nước đá. Cha của chị bất giác kéo chị ra xa tôi.

Chị Ánh Nguyệt nhấc đầu lên. Mí mắt của chị năng trĩu che lấp hai tròng đen. Chị thì thào:

- Em về rồi. Cuối cùng thì chị cũng còn được thấy em. Chị thì sắp hết rồi, Kiên ạ

Tôi chớp mắt, nghẹn ngào. Chị nói tiếp:

- Ba ơi, ba để cho con một lát riêng với Kiên, được không?

Đôi lông mày rậm rạp của ông bác tôi nhíu ngay lại. Chị nhắc:

- Con xin ba làm ơn. Chỉ ít phút thôi.

Ông bác đứng dậy và nói với tôi:

- Ngồi xuống đây và đỡ lấy chị. Có chuyện gì xẩy ra thì kêu liền. Tụi tao ở ngay bên ngoài.

Tôi ngồi bên giường của chị, chị lùi mình lại, ngả vai vào ngực tôi. Thân mình của chị trơ xương, mỏng manh như thủy tinh. Đôi môi của chị xanh tái chị cố gắng mỉm cười, nhưng cũng chỉ có một bên mép của chị là nhếch lên được thôi. Một vệt máu đang đông dần trong không khí và biến thành mầu nâu sậm trên làn da xanh xao của chị.

Khi chỉ còn hai chúng tôi, chị Ánh Nguyệt thì thầm:

- Sáng nay chị đợi lâu ghê ông đưa thư mới đến, nhưng vẫn không có tin của anh Tống Ty.

Tôi nói tiếp:

- Tội nghiệp chị quá.

Chị nói:

- Này, chị có cái này cho em.

Tôi xua tay:

- Đừng, chị Moonlight. Chị không phải cho em cái gì hết. Hãy cứ khỏe lên thôi.

- Tin chị đi. Em sẽ thích cái này. Nhưng hãy đỡ chị nằm xuống trước đã.

Tôi nhẹ nhàng đặt chị nằm xuống giường và nhích ra xa để lấy chỗ cho chị. Chị chậm rãi lùa tay vào trong áo gối và mò mẫn tìm. Khi tìm thấy, chị lôi ra và giữ chắc nó trong lòng bàn tay. Miệng chị nhoẻn cười, vẻ mặt ảm đạm:

- Giá chị khỏe thêm một ngày để ra bãi biển, bơi lội dưới nước, nô đùa dưới nắng, thì đổi gì chị cũng đổi. Em có biết cảm giác như thế ra sao không? Dĩ nhiên là em đang mạnh khỏe, em làm sao biết được. Em muốn đi chơi lúc nào không được. Nhưng đừng bao giờ lạm dụng nó nhé, Kiên à. Đời sống quí giá vô cùng.

Tôi gật đầu.

Chị ngước lên trần nhà để tĩnh trí lại, rồi tiếp tục:

- Cái ngày em lên chùa Long Sơn với chị, chị còn nhớ em cầu khẩn đức Phật Ngàn-Mắt-Ngàn-Tay về ba của em.

Tôi nói một cách cay đắng:

- Ờ, em cũng cầu xin cho sức khỏe bà ngoại, nhưng bà vẫn mất. Và bây giờ, nhìn chị coi. Phép lạ không luôn luôn xẩy ra với người nghèo đâu, chị Moonlight ơi.

Chị nài nỉ:

- Đừng có mất niềm tin. Ít nhất thì cũng đừng mất lòng nhân, Kiên ạ. Chị biết là em hận đời ghê lắm, và hơn ai hết, chị hiểu được cảm giác của sự bị ruồng bỏ. Hãy nhìn vào chị với cái bệnh tật này. Thiên hạ ai cũng sợ bị lây, đâu ai dám lại gần chị!

Chị ngừng nói và hớp lấy không khí.

- Chị ơi, chị sẽ khá hơn mà. Cứ từ từ thôi.

Chị lắc đầu:

- Điều đó không còn quan trọng nữa. Chị muốn xin lỗi em về gia đình của chị. Chị muốn em tha thứ cho họ.

Tôi tránh cái nhìn tha thiết của chị:

- Em không hiểu chị nói cái gì vậy.

- Xin em! Hãy tha thứ cho họ. Chị muốn nói với em một điều bí mật quan trọng. Em hãy hứa với chị là em sẽ dùng cái điều này mà làm tốt. Đừng xài nó để chống lại gia đình của chị. Em có thể thù ghét họ vì những chuyện họ gây ra cho gia đình em, nhưng chị thực không muốn có một cuộc khiêu chiến khác xẩy ra trong nhà này.

Tôi nắm lấy tay chị:

- Chị Moonlight ơi, bất cứ chị muốn cái gì. Em xin hứa theo ý chị.

- Không, chị sắp chết rồi. Em phải thề chị mới chịu.

Tôi òa lên khóc và gật đầu. Người thư thái hẳn. Chị giơ bàn tay lên và xòe mấy ngón để lộ ra một mảnh giấy nhỏ. Mọi nếp nhăn trên giấy đã ngả sang mầu nâu đậm, còn mực viết ở trên thì đã phai mờ. Tôi đón lấy trên tay chị. Nó có vẻ như là một mảnh của cái bao thư, có nét chữ mẹ tôi nghệch ngoạc vài chữ ngoại ngữ. Tôi hỏi:

- Cái gì thế này, chị Moonlight.

- Đấy là địa chỉ của ba em. Bây giờ nếu em muốn thì em có thể ghi thư cho ông ấy được rồi.

Quá kích động, tôi lắp bắp:

- Làm thế nào chị có được cái này. Mọi thư từ đều đã đem chôn và bị mất từ mấy năm nay rồi. Mẹ em đã xới tung cả bồn cỏ lên để tìm rồi mà.

Chị Ánh Nguyệt nấc lên vì nghẹn đờm. Rồi bỗng nhiên, hai má của chị xanh xao bỗng hồng lên rồi trở thành ửng đỏ, nhưng rồi chị trấn tĩnh lại và thở một vài hơi thật sâu. Bà bác tôi ló đầu vào dòm chừng nhưng chị ra hiệu cho bà lui ra. Chị nói:

- Kiên ạ, chị không có lời giải thích cho em. Chẳng có lời lẽ nào chị nói ra lại có thể bào chữa cho được thái độ của gia đình chị. Bây giờ thì em hiểu tại sao chị không trao cái này cho em sớm hơn. Làm ơn vì chị, em đừng tiết lộ cho ai nhé.

Tôi ngắm nghía mảnh giấy trong tay:

- Có đúng là địa chỉ của ba em không. Cái tên bị mất đi một nửa.

- Chị cũng thấy. Nhưng chị chỉ có thế. Chị cầu cho em có nhiều may mắn để tìm ra cha em. Và đến khi đó thì...

Chị ngừng lại. Tôi nói:

- Thì sao hả, chị Moonlight?

Chị nức nở:

- Em hãy tìm anh Tống Ty cho chị. Nói với anh ấy rằng trái tim chị tan nát. Nói với anh ấy rằng chị đã chờ anh ấy theo anh ấy yêu cầu, nhưng người đưa thư không bao giờ tới.

Tôi lau những giọt lệ trên mặt chị, và hôn lên trán chị trước khi ra khỏi phòng. Mẹ của chị đẩy cánh cửa ra, chạy ùa vào. Ông ngoại tôi đi theo tôi trở về nhà, thắp một ngọn nến trước ông táo rồi chuẩn bị pha trà. Tiếng than khóc của bà bác tôi vang vọng yếu ớt, cuốn đi theo mưa.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:31 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi mốt

Tối hôm đó, cơm nước xong, tôi phụ mẹ tôi rửa bát ở bờ giếng. Mọi người trong gia đình bác tôi thì đang quần trong phòng của chị Ánh Nguyệt cùng với một ông bác sĩ. Ngọn đèn cầy dưới đất, ngay cạnh chúng tôi, lặng lẽ ứa ra những giọt nến đỏ, bóng ngời, chảy dài xuống chiếc đĩa đồng. Ánh sáng le lói chỉ đủ cho mẹ tôi có thể có thể nhìn thấy công việc bà đang làm. Mưa đã tạnh. Dưới giếng sâu tối đen như mực. Mỗi lần tôi thả gầu xuống để múc nước chỉ thấy có một tiếng va chạm ướt át vẳng lên. Tiếng cót két của sợi dây thừng cũ kỹ xiết vào cái trục quay khi gầu nước được kéo lên nghe rền rĩ. Sau khi đã đổ đầy chậu, tôi ngồi xuống bên cạnh mẹ, lên tiếng:

- Mẹ ơi, con muốn hỏi mẹ cái này, được không mẹ?

Mẹ tôi đáp:

- Được chứ

- Mẹ có còn nhớ chút gì về cha con không?

Mẹ tôi ngập ngừng. Mái tóc dài của bà phủ gần kín gương mặt nên tôi không nhìn thấy một nét biểu lộ nào. Quơ lấy bát đĩa, mẹ tôi nói:

- Mẹ có nhớ đôi chút.

Tôi hỏi tới:

- Cha con giống ai hả me?

Chùi tay vào cái khăn dắt bên cạnh mình, mẹ tôi ngước mắt nhìn lên trời cao. Dưới ánh sáng mờ mờ, đôi mắt mẹ tôi trông tối lại và bí mật như cái bóng tối trong cái giếng sâu kia. Mẹ tôi mơ màng:

- Đã bao nhiêu năm qua rồi. Sao bỗng nhiên con lại muốn biết?

Tôi nhún vai:

- Con cũng không biết nữa. Tò mò thôi mà, mẹ. Ai cũng có cha. Con muốn biết cha con còn sống không, vậy thôi.

- Cha con vẫn còn sống, đâu đó ở bên Mỹ ấy.

- Ông ấy có biết gì về con không hả mẹ?

- Có, con à. Khi cha con ra đi, mẹ mới sinh con được ba tháng.

- Mẹ ơi, mẹ gặp cha con trong trường hợp nào?

Mẹ tôi vươn vai, rên lên nho nhỏ, phàn nàn là mỏi lưng. Trong bóng đêm mờ ảo, mọi sự vật chung quanh chúng tôi dường như thật là yên tịnh. Trời trở lạnh. Bằng một giọng nhẹ nhàng, thì thầm như tự nói với mình, mẹ tôi kể cho tôi nghe về cuộc tình của bà với cha tôi:

- Đáng lẽ ra mẹ được gả cho con trai của bạn ông ngoại. Ngày đó, không có cái chuyện lấy nhau vì tình, mà là vì môn đăng hộ đối. Tối hôm trước ngày cử hành hôn lễ, mẹ lén nhìn trộm mặt chú rể tương lai, dĩ nhiên là nhờ có sự trợ giúp của cậu út con. Cậu và mẹ trốn sau một bụi tre phía ngoài nhà hắn ta suốt hai tiếng đồng hồ dài dằng dặc trước khi nhìn được mặt hắn lần đầu tiên. Thiên địa ơi, sao mà hắn xấu khổ xấu sở! Mẹ khóc như cha chết, tủi cho thân phận mình. Làm sao mà có thể sống với người đàn ông này suốt đời! Thế là ngay đêm hôm đó, cậu của con, cũng trạc tuổi con bây giờ, đưa mẹ ra xe buýt để vô Sài Gòn.

Tôi ngắt lời:

- Mẹ ơi, bỏ nhà đi mà mẹ không sợ à?

- Sợ thôi hả? Mẹ thật là kinh hãi nữa ấy chứ. Nhưng cái gì mà mẹ đã định thì nhất quyết phải làm cho được. Ông ngoại điên tiết lên, thẳng tay trừng trị cậu của con rồi phóng vào Sài Gòn tìm mẹ. Trước khi ông ngoại vào tới Sài gòn, mẹ đã kiếm được việc làm rồi. Mẹ làm bàn tay mẫu cho một tiệm kim hoàn. Mẹ không chịu trở về. Ông ngoại phải xin lỗi nhà trai và hoàn trả lễ vật cho họ để từ hôn. Thật là một vụ tai tiếng lớn, may thay, ông ngoại không vì chuyện này mà từ mẹ. Mấy tháng sau đó, nhiều người Mỹ tới Việt Nam. Người mình đua nhau học tiếng Anh để hy vọng kiếm một việc làm tốt với người ngoại quốc, lương cao, và được trả bằng đô la thay vì tiền Việt. Mẹ rất hứng khởi với nền văn hóa đa dạng của họ nên mẹ ghi tên hoc lớp Anh văn ban đêm. Mẹ gặp cha con ở Sài Gòn, khi đó cha con đăng báo tìm một thông dịch viên, mẹ tới để được phỏng vấn, rồi kết quả là ở lại qua đêm. Cha con cao lớn, tóc nâu đen và rất đẹp trai, như tài tử điện ảnh. Ổng hớp hồn mẹ! Đoạn tiếp theo thì con biết rồi đó. Cha mẹ dọn về Nha Trang rồi thì mẹ mang thai con. Năm sau, con ra đời.

Trước mặt chúng tôi, bát đĩa đã được rửa sạch, lau khô, xếp gọn gàng trên khay. Mẹ tôi tiếp tục, giọng nhỏ nhẹ, ngậm ngùi:

- Khi con vừa được ba tháng thì cha con ra đi. Cha con rất buồn vì phải bỏ con lại. Thật ra thì ông đề nghị được mang con theo ông ấy, nhưng mẹ từ chối. Con có một người cha tốt như tất cả mọi người, con à. Dù chỉ sống với nhau có một thời gian ngắn, nhưng cha con đã yêu con vô cùng.

- Cha con tên là gì vậy mẹ?

Mẹ tôi thở thật sâu:

- Mẹ không nhớ.

- Sao mẹ lại không nhớ tên cha? Mẹ sống chung với ông ấy mà.

Mẹ tôi giải thích:

- Ông ấy là xếp của mẹ. Giống như tất cả mọi người trong công ty, mẹ gọi ông ấy bằng họ, ông Russo, mà thôi. Con có biết đã bao nhiêu năm trôi qua rồi không? Mẹ phải cố gắng xóa mờ hình ảnh này trong tâm khảm, con à.

Tôi hơi có ý trách:

Mẹ tôi phá lên cười:

- Mẹ thật sự không tin điều đó. Cha con chưa bao giờ biết tên thật của mẹ. Ông thường gọi mẹ là Nacy Kwan. Nhưng tên mà làm gì? Chẳng quan trọng đối với tụi này. Đó là vào thập niên sáu mươi ấy mà, ui dà!

Tôi hỏi:

- Mẹ có tin rằng đôi khi ông ấy còn nhớ tới mình không?

- Chắc chắn là có chớ.

- Liệu ông ấy còn muốn có con không?

Mẹ tôi nhíu mày:

- Mẹ không biết, con à. Nhưng nếu mà mẹ là cha con, chắc chắn là mẹ muốn có con rồi. Cha mẹ nào cũng hãnh diện vì có một đứa con như con, Kiên, con là đứa con ngoan.

Tôi đứng dậy vuốt nhè nhẹ lên mái tóc bà:

- Cám ơn mẹ, mẹ ơi.

Đêm hôm đó, sau khi mọi người đã vào giường, tôi bò dậy rót thêm dầu vào cây đèn cũ. Cái giường mới của tụi tôi làm bằng bao bố tời đựng gạo đã phế thải do Tín lượm về từ sở của hắn. Nằm trên đó, tôi viết nháp lá thư gởi cho cha tôi, dù đã có sự giúp đỡ của cuốn từ điển Anh -Việt, và với vốn liếng ít ỏi văn phạm Anh mà tôi đã thâu thập được ở trường, quả thật ngoại ngữ là thứ khó khăn hơn tôi tưởng tượng. Dưới bóng đèn mờ, tôi cố gắng gởi gấm vào lá thư những điều tôi mong cha tôi biết, e ngại rằng liệu ông có thể hiểu được qua lá thư này chăng.

Lá thư như sau:

Thưa ông Russo,

Con là con trai cha tại Việt Nam. Cha chưa biết con. Tên con là Kiên Nguyễn, mười bốn tuổi. Con sinh ngày 12 tháng năm năm 1967. Đó là năm cha rời Nha Trang.

Sáng nay, khi con tìm được địa chỉ của cha, con thật là vô cùng mừng rỡ. Con đã chờ đợi cha từ bao nhiêu năm. Con nghĩ đến cha hàng ngày và mong mỏi được gặp cha.

Xin hãy đem con đi Mỹ. Con không có lý do gì để mà sống ở Việt Nam. Con luôn luôn bị đói và buồn bực. Con không có quần áo mới hoặc chăn. Con phải ngủ trên hai cái bao bố đựng gạo vì không có giường. Sau những cơn mưa, muỗi bay quanh nhiều vô kể và ban đêm ở đây lạnh vô cùng. May ra cha còn nhớ những chuyện này vì trước kia cha đã từng ở đây.

Xin viết thư cho con. Con mong nhận được tin tức của cha. Con không thể gửi ảnh cho cha vì hiện nay con chưa có. Nacy Kwan gửi lời thăm cha. Mẹ nói rằng cha yêu con và sẽ săn sóc con. Con rất mong những lời mẹ nói là đúng sự thực.

Con của cha

Kiên Nguyễn

Tôi đọc đi đọc lại lá thư, cố gắng sửa lỗi càng nhiều càng tốt trước khi bỏ vào phong bì. Rồi thì, mệt đừ với niềm hân hoan và hy vọng. Tôi lăn ra ngủ, tay còn ôm lá thư trên ngực.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm, dự định đem khoe bức thư với chị Ánh Nguyệt. Vừa tới bếp thì tôi bị mẹ tôi chận lại. Tay bà cầm đôi đũa bếp. Sau lưng bà là chảo cơm chiên mỡ đang xém xèo xèo. Từ trong nhà bác tôi, vẳng ra ba tiếng chuông ngân rền trong sương sớm. Có mấy vị sư mặc áo vàng thấp thoáng trên lối vào nhà bác tôi, giữa mấy khóm hồng.

Mẹ tôi hỏi:

- Con định đi đâu?

- Con đi gặp Ánh Nguyệt.

Mẹ tôi buồn rầu:

- Thôi con ơi! Ở lại đây đi con, Ánh Nguyệt đã qua đời đêm qua rồi. Đừng làm phiền gia đình nó.

Tôi loạng choạng ngồi xuống, cái tin làm cho tôi chóng mặt và sững sờ. Bên ngoài, mưa đã tạnh, mây trắng lững lờ trôi trên nền trời nắng đẹp, ánh sáng phản chiếu từ những mảng sân đẫm nước lóng lánh như báo hiệu đã sang hè.

Một lúc sau, từ dưới sàn, tôi gượng đứng dậy bước ra khỏi bếp. Nơi bàn ăn nhà bác tôi, ông tôi ngồi như người mất hồn. Trước mặt ông là ly cà phê chưa hề đụng đến. Ngoài sân, bác trai với sự phụ giúp của các vị sư, đang tháo cái cửa lồng để thả hàng trăm con chim sẻ. Chúng rối rít vẫy cánh dưới nền trời nắng tưng bừng trước khi biến mất vào không trung. Bên ngoài phòng Ánh Nguyệt, bác gái nằm gục trên nền nhà, đầu tựa vào cái ngạch cửa xi măng. Bác than vãn thảm thiết trong khi đám con gái xúm xít xung quanh bác. Ngay khi vừa nhìn thấy mặt tôi, bác ngừng khóc, nhỏm dậy, nhào tới tôi, hỏi:

- Tao muốn biết nó nói gì với mày đêm qua.

Tôi giả bộ:

- Ai? Cháu không hiểu bác đang nói gì.

- Ánh Nguyệt, con tao. Nó đã nói chuyện gì với mày?

Tôi lắp bắp:

- Cháu không thể nói, thưa bác. Đó là chuyện riêng.

Bà rền rĩ:

- Tại sao không nói được? Tao là mẹ nó. Nói cho tao biết.

- Thưa bác không thể được. Cháu đã hứa với chị ấy. Vả lại, chuyện đó không còn quan trọng nữa.

Ánh giận dữ trở lại mắt bà trong khi Hồng kéo bà đi ra xa tôi. Bà gào lên:

- Không quan trọng? Mày dám nói thế hả? Nó đợi mày bao nhiêu tuần, chờ mày trở về để có thể nói điều gì đó với mày. Mày dám không chia sẻ những điều con gái tao nói với mày à?

Tôi lắc đầu chạy mất.

Ngoài vườn, tôi gặp ông Ba Quì đang bước về phía bếp nhà bác tôi, ông niềm nở:

- Ơ! Mày về rồi à?

- Thưa ông vâng.

- Hay quá! Tao có tin vui báo cho mày. Tao đã nói với ông hiệu trưởng. Ông ta bảo rằng mày cứ vui chơi thoải mái mùa hè này. Khóa học tới, mày có thể trở lại trường. Nhà trường đã thẩm định hạnh kiểm của mày nên sẽ không có sự trừng phạt nào đâu.

Tôi nhìn thẳng vào mặt ông:

- Xin cảm ơn ông. Hay là tôi nên nhờ mẹ tôi cảm ơn ông giùm tôi.

Nụ cười biến mất, ông cáu kỉnh:

- Đồ con lai vô ơn! Mẹ mày chẳng là cái thá gì. Bộ mày tưởng mẹ mày là bà hoàng chắc? Còn mày nữa, từ nay tránh xa con gái tao. Mày với không tới nó đâu. Khôn hồn thì đừng làm tao trở thành một trong những kẻ thù của mày!

- Nếu không vì mẹ tôi, tại sao ông giúp tôi?

Ông ta xua tay:

- Cút mau, tao phát lợm giọng với mày rồi.

Tôi bước qua mặt ông, đi thẳng ra nhà bưu điện để gởi lá thư cho cha tôi.

Ba tháng sau, một buổi sáng thứ bẩy, người bưu tá tìm tôi để trao cho tôi lá thư mà chỉ nhìn phong bì, tôi nhận ra ngay lập tức. Cái thư bị trả về, chưa hề được mở ra, sau khi đã du lịch vòng quanh thế giới. Một dấu ấn đỏ chạy qua chỗ viết địa chỉ cha tôi có kèm theo hàng chữ “Hoàn trả lại người gửi - Địa chỉ không rõ”

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:31 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi hai

Nha Trang, tháng tư năm 1984

Khi lá thư tôi gửi cho cha tôi bị hoàn lại còn dán kín, tia hy vọng cuối cùng về một đời sống khá hơn rút cuộc đã bỏ rơi tôi. Ngày tháng qua, tôi thấm dần với nỗi thất vọng, chán chường, đành chấp nhận nó, tự nhủ lòng rằng bất hạnh là một phần của cuộc đời tôi. Với những cái chết của Ánh Nguyệt và dì Đặng lùi xa dần vào quá khứ, và sự bạo hành mà tôi phải chịu đựng từ bàn tay của bọn công an còn mới mẻ trong tâm tưởng, tôi chú tâm xây dựng một đời sống bình thường, ít sóng gió. Tôi cố quên đi những nỗi kinh hoàng mà tôi đã trải qua. Vào năm 1984, tôi được mười bẩy tuổi, Jimmy mười lăm và bé Ti lên chín. Quần áo chúng tôi đã rách bươm sau bao nhiêu năm dài không được thay bằng quần áo mới. Những miếng vá chằng vá đụp, lớp trên đè lớp dưới, trông thật tả tơi, khó coi. Mẹ tôi đành phải tìm mua quần áo cũ ở những cửa hàng bán đồ tầm tầm, đem về cặm cụi sửa chữa cho vừa với tầm vóc của chúng tôi. Mặc những bộ đồ xốc xếch ấy ra trường, chúng tôi trở thành cái đinh lôi cuốn sự chú ý của thầy cô và bạn học. Sự diễu cợt của họ thật là tàn nhẫn, nhưng không thể tránh được. Jimmy và tôi đánh nhau với tụi nhóc gần như cơm bữa, nhưng không đứa nào mách mẹ vì chúng tôi hiểu rằng mẹ chúng tôi đã có nhiều nỗi lo âu, phiền muộn chất chồng lên cuộc đời bà.

Cho tới lúc này, mẹ tôi đã moi móc đồ đạc trong nhà để đem bán tất cả những gì có thể bán được. Lần lượt, từ chăn màn cho tới khung cửa sổ, đá vân cẩm ngoài ngưỡng cửa, v v... đến cả một phần tôn của cái mái bếp cũng được gỡ ra đem bán. Tới hồi không còn gì để bán nữa, mẹ tôi lại trở ra chợ. Lần này, vốn liếng quá ít, bà chỉ còn cách thu dọn một chỗ nhỏ xíu ngay lối đi vào chợ để bán cháo cá. Thực khách là những bà nội trợ trong xóm ngày ngày ra chợ ăn hàng rong.

Mỗi ngày từ rạng đông, mẹ tôi đã trở dậy, trước tất cả mọi người trong nhà. Bà vào bếp hâm lại nồi nước dùng mà bà đã sửa soạn sẵn từ tối hôm trước, chiên những miếng chả cá, hấp mì và xếp rau xà lách vào hộp đựng rau sống. Khi nồi nước dùng đã sủi tăm và mùi cá chiên thơm phức tỏa khắp nhà, mẹ tôi xếp tất cả vào trong một cái thúng sơn dầu bóng loáng. Thúng bên kia, mẹ tôi xếp những cái bát đàn, đũa, muỗng và các thứ gia vị. Tới lúc cái đồng hồ treo tường nhà bác tôi reo ngân nga sáu tiếng, thì mẹ tôi nâng gánh hàng nặng trĩu trên vai, rảo bước ra chợ.

Những ngày cuối tuần không đến trường, Jimmy và tôi giúp mẹ bớt chút công việc khó nhọc. Mẹ tôi thường đem em bé Ti đi theo. Nó tha thẩn sau mẹ tôi, một tay ôm tô rau xà lách, một tay cầm cái chổi. Hai mẹ con đi xuyên qua những xóm làng và những cánh đồng lúa. Tới khu chợ, mẹ tôi bầy hàng ngay dưới đất, nơi một gốc cây sồi. Bé Ti ngồi chơi với cái gối của em ngay bên vỉa hè bẩn thỉu trong khi mẹ tôi sửa soạn để đón khách ăn hàng, bỏ thêm vào lò vài mẩu than bà đem theo trong cái hộp thiếc, để giữ hơi nóng.

Buổi trưa, sau khi đã bán đến tô cuối cùng, mẹ tôi dẹp cái cửa hàng tí hon lại và sửa soạn công việc thứ hai. Trong khi bé Ti đợi bà ở gốc cây sồi, trông chừng mấy cái thúng, mẹ tôi cầm chổi quét đường, quét tới quét lui, cho tới khi toàn thể khu vực dẫn vào chợ sạch láng. Chủ những quán quay mặt ra đường trả mẹ tôi một chút ít thù lao nhỏ để giữ cho lối đi được sạch sẽ. Mẹ tôi thường đùa với chúng tôi rằng mẹ đã quét đi những tháng năm gian truân, khổ sở của mình.

Vào những ngày mưa bão, khi mà những trận cuồng phong hú qua những tàn cây, mẹ tôi cúi gập người, đầu đội cái nón tơi, cố gắng vun quét cho rác khỏi bung ra khắp phố, trông thật đau lòng. Mẹ tôi càng ngày càng gầy, da cháy nắng nâu sậm. Mái tóc hầu như bạc trắng rối bù xù, xơ xác, phủ quanh đầu bà như bông gòn. Đôi mắt long lanh, đầy quyến rũ một thời của bà, từ lâu rồi, đã lu mờ, nay mang thêm nét ảm đạm, lạnh lùng.

Rất may là tôi lại có nguồn lợi tức đều đặn. Qua một loạt bài dự thi viết văn do ủy Ban Giáo Dục tỉnh Nha Trang tổ chức, tôi đạt được một học bổng hàng tháng được lãnh mười lăm ký gạo và một trăm năm mươi đồng. Đồng thời nhờ vậy, tôi được gia nhập một chân trong hội những cây bút trẻ, một tổ chức có uy tín. Từ đó, thay vì hàng ngày đến trường, nền học vấn mà tôi đạt được là nhờ tham gia các hoạt động của hội.

Đời sống trở nên nhẹ nhõm trong khoảng dăm bẩy tháng trời. Ấy thế rồi, vào thời gian học lớp mười một, trong khi các học sinh khác chuẩn bị cho kỳ thi tuyển vào đại học sắp tới, ông giám đốc hội của tôi từ chối không chịu nộp đơn xin thi tuyển vào đại học cho tôi. Ông ta khuyên tôi rằng, là một thành viên của “giai cấp phản động”, đến đây là tôi đã đi đến tận cùng con đường học vấn của tôi rồi. Tương lai tôi sẽ không có gì nhiều mà chọn lựa. Tôi chỉ có thể trở thành, hoặc là giáo viên phụ khuyết, hoặc là thầy dạy kèm trẻ tư gia mà thôi. Trong xã hội này, dù tôi có được đào tạo, huấn luyện thêm cũng không có triển vọng nào cả.

Giấc mộng vào đại học tan tành, tôi phải xét lại sự lựa chọn. Dù cố gắng đến mấy, tôi cũng không thể trốn thoát cái quá khứ không thuận lợi của tôi. Lòng ham muốn lìa bỏ Việt Nam lại nổi lên thôi thúc tôi. Thế nhưng lần này mẹ tôi không còn tiền để hỗ trợ tôi, hoặc là bắt liên lạc được với những người vượt biên để giúp tôi trốn thoát. Mà ngay như nếu mẹ tôi có khả năng, thì tôi cũng đã quá hãi hùng với chuyến đi trước để mà thử thời vận thêm một lần nữa.

Trong nỗi niềm tuyệt vọng, tôi nghuệch ngoạc đại những cái thư gởi tới Liên Hiệp Quốc và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan, xin họ giúp. Không nơi nào trả lời. Dường như những lời cầu khẩn của tôi tan biến vào không khí ngay khi rời khỏi đầu ngón tay tôi ở nhà bưu điện.

Rồi một ngày nắng đẹp vào tháng tư kia, tôi nhận được lá thư đầu tiên từ Bangkok. Hai tay run rẩy, tôi xé mở phong bì. Mùi nước ngoài từ trong phong bì tỏa ra tràn ngập hai buồng phổi tôi. Lá thư được in trên một trang giấy tái chế biến mầu nâu, như sau:

Văn phòng liên lạc thiện nguyện (J. V. A. )

Phân bộ người tị nạn

Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ

Bangkok, Thailand

Kiên Nguyễn thân mến

Trong thời gian qua, anh đã nhiều lần gửi thư yêu cầu chúng tôi cung cấp đơn xin tái định cư tại Hoa Kỳ. Căn cứ vào những dữ kiện mà anh đã cung cấp trong những lá thư, chúng tôi muốn giải thích về những quyền lợi mà anh có thể được hưởng. Chiếu theo đạo luật về tị nạn ban hành năm 1980, Hoa Kỳ đã ký với chính phủ Việt Nam một hiệp định liên quan đến trường hợp các trẻ em lai Mỹ Việt bị bỏ lại sau khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975. Chương trình ra đi có trật tự (O. D. P. ) qui định rằng tất cả những trẻ em nào có cha là người Mỹ sẽ được coi là đủ điều kiện để định cư ở Hoa Kỳ. Anh được phép rời Việt Nam. Điều này sẽ được thực hiện trong vòng trật tự, chúng tôi sẽ giúp anh tìm một người bảo trợ tại một số những hội thiện nguyện tái định cư. Thông báo về đạo luật này sẽ được phổ biến tại địa phương cùng với đơn xin tái định cư. Để tiện cho anh, chúng tôi gởi kèm theo với thư này một bản sao của tờ đơn đó.

Dầu vậy, anh không thể gửi đơn trực tiếp cho chúng tôi. Thủ tục phải đi qua chính quyền địa phương. Khi nào anh nhận được giấy thông hành (giấy xuất cảnh ) của nhà chức trách, hội bảo trợ của chúng tôi sẽ sắp xếp một người bảo trợ và sẽ cung cấp những dịch vụ khởi đâù công cuộc tái định cư cho anh và gia đình.

Rất trân trọng sự hợp tác của anh.

Chân thành,

Richard C. Cooke

Đại diện văn phòng thiện nguyện

- Đính kèm: A/S

Trong cái oi nồng của buổi trưa hè, tôi đứng đờ ra ngay ở ngưỡng cửa, hàm trễ xuống. Cổ họng tôi nghẹn cứng, không thốt lên được lấy một tiếng. Lá thư ngắn ngủi, nhưng tin tức mà nó đem tới thì như trời long đất lở đối với tâm hồn tôi. Tôi hồi tưởng những năm dài gia đình tôi sống trong thống khổ, cuộc đào tẩu thảm hại của tôi và biết bao con đường gian nan, đau đớn mà tôi đã bước kể từ khi thiên đàng sụp đổ. Chưa hề có lấy một giây phút hạnh phúc kể từ cái ngày tôi được nghe cái từ ngữ “con lai giống”.

Ngón tay tôi cứ mân mê, sờ soạng lên những dòng mực đen của lá thư, tự hỏi trong nỗi niềm hân hoan, xúc động: “Ai là người đã đánh máy bức thư này? Họ sống ra sao? Họ như thế nào?” Họ dường như ở quá xa, thế nhưng, một phần của họ ngay đây, nằm gọn trong cái tin tức mà họ gửi cho tôi này. Hàng ngàn hình ảnh chạy qua óc tôi, kết lại thành một câu hỏi lớn: “Trong cái tin này, bao nhiêu phần sẽ trở thành sự thật?” mặc dù đã gặp biết bao nỗi thất vọng trong quá khứ, tôi muốn tin bức thư này, muốn nuốt chửng nó, để mỗi lời nói, mỗi nét mực, tan hòa trở thành một với tôi. Lá thư đến đúng lúc, đem lại cho tôi sức mạnh và sự hỗ trợ tinh thần mà tôi đang rất cần để tiếp tục sống nổi. Không có nguồn tin này, tôi không thể hình dung được chuyện gì sẽ xẩy ra cho tôi. Tôi ngồi đó, mắt đẫm lệ, cho đến khi nền trời ngả sang mầu tím nhạt.

Tối hôm đó, khi mẹ tôi bước thấp bước cao, mệt mỏi trở về, tôi đón mẹ tôi ở ngoài cổng với nụ cười hớn hở. Sau khi giúp bà mang hai cái thúng vào bếp, tôi treo áo, nón và bưng cho bà một chậu nước mát để bà rửa mặt. Jimmy kéo cái ghế độc nhất trong nhà ra cho ông ngoại. Ông tôi ngồi dưới ánh đèn vàng vọt, trông ra ngoài cửa sổ, chờ đón hoa quỳnh nở vào lúc nửa đêm.

Đến bữa cơm tối, tôi giơ bức thư ra, cố gắng hết sức dịch bức thư ra tiếng Việt. Mẹ tôi nhìn sững tôi bằng cặp mắt mở lớn, hoảng hốt, dường như cái tin quá lớn lao, trong nhất thời, bà không cáng đáng nổi. Jimmy chắp hai tay lại, đầy xúc động. Tôi tiến đến cửa sổ với ông tôi. Bên ngoài, vườn cây đã chìm vào bóng đêm đầy bí mật. Cách chúng tôi mấy bước, bụi cây quỳnh tẩm trong không khí mát mẻ, khô ráo mùi thơm phảng phất quyện thêm với hương thơm của những bụi hồng. Những chiếc nụ trắng nõn nà, thanh tú như những ngón tay của người đàn bà quí phái, vươn từ phía ánh sáng tỏa ra từ phòng tôi, chờ đợi ánh trăng lên giúp nó hé nở.

Một lát sau, mẹ tôi hỏi:

- Họ muốn chúng ta làm gì tiếp theo, hả con?

- Chúng ta phải điền đơn, mẹ ạ. Rồi chúng ta phải chụp hình, xin chữ ký của ông chủ tịch phường, rồi nộp đơn. Sau đó chúng ta sẽ ngồi chờ chuyện kế tiếp.

Mẹ tôi lẩm bẩm:

- Con làm gì thì làm. Chuyện này sao mẹ thấy có vẻ khả nghi và rắc rối quá. Miễn là đừng kỳ vọng quá nhiều.

Kéo tôi lại sát cạnh, ông tôi thì thầm:

- Thử thời vận đi cháu. Có mất gì đâu.

Ngày hôm sau, tôi dậy sớm. Trời còn tối thui, tôi đã có mặt ở trụ sở ủy Ban Hành Chính phường. Sau ba tiếng đồng hồ chờ đợi ở cửa văn phòng ông Ba Quì tôi nhận được tờ đơn có đóng dấu và ký tên bởi người thư ký của ông ấy. Sau đó, tôi tiến hành thủ tục qua ngả Sở Di Trú và Ngoại Kiều, một tòa nhà cao tầng tọa lạc cách biệt thự họ Nguyễn chỉ có ba quãng đường ngắn ngủi. Mùi gió biển thổi qua những đường phố đông đúc nhắc nhở tôi rằng cái bãi biển quen thuộc chỉ ngay gần đây thôi.

Sở Di Trú đã đầy ắp những khuôn mặt lo âu, khắc khoải, tay ôm cứng những xấp giấy. Lúc đầu, tôi tưởng mình lộn địa chỉ, đi lạc vào một văn phòng bác sĩ đông khách, vì cách kiến trúc rất giống kiểu. Phía cuối, nơi có một tấm kính lớn ngăn chia căn phòng, có rất nhiều kệ chất đầy hồ sơ từ sàn lên đến trần nhà. Một số hồ sơ hẳn đã bị bỏ quên từ lâu, gáy bìa đã ngả mầu nâu, đầy bụi bậm. Đằng sau cửa kính, cô tiếp viên ngồi thưỡn trên ghế nghiền ngẫm cuốn “Những Kẻ Khốn Cùng” của Victor Hugo. Không rời mắt khỏi cuốn sánh, cô ta trao cho tôi một con số. Mũi cô chun lại một cách khó chịu khi cô bảo tôi hãy kiếm một chỗ mà ngồi đợi.

Tôi nhìn quanh phòng đợi để kiếm một cái ghế trống, nhưng không còn. Phần đông đang ngồi ngay dưới đất ăn bữa trưa hoặc bồn chồn nhìn nhau. Đây là một ngày quan trọng đối với tất cả mọi người. Và cái viễn tượng được ra đi chiếu tia hy vọng lên mặt họ. Tôi bước ra hành lang, hòa nhập với nhóm đông đang chờ ngoài đó.

Một người đàn ông trạc ba chục tuổi chen vào sát tường, châm điếu thuốc lá. Hắn ngẩng đầu nhìn tôi với vẻ tò mò lộ liễu. Ngoài nét mặt thon thon, thanh nhã của người Châu Âu, toàn bộ đặc điểm của hắn đều mang vẻ tang thương, tơi tả và mệt mỏi của bất cứ một người Việt Nam nào. Tôi đứng ngay lối vào, chăm chú nghe tiếng gọi số phát ra từ phía trong.

Gã đàn ông vẫy tay về phía tôi:

- Này, em thuộc diện gì?

- Xin lỗi, anh nói gì?

Hắn lại hỏi theo kiểu khác, có ý muốn tôi hiểu:

- Tại sao em đến đây?

Tôi cũng trả lời một cách lưỡng lự:

- Thì cũng đại khái. Có cái chương trình gọi là O. D. P.

Người đàn ông phà một làn khói thuốc cho nó lan tỏa rộng ra, nói:

- Có, anh biết cái chương trình đó. Nó dành cho con lai. Anh đệ đơn sáu tháng nay rồi. Hôm nay anh đến để hỏi xem tình trạng của anh ra sao. Xem thử đơn của mình đã được gởi ra Hà Nội chưa.

Tò mò tôi túm lấy hắn:

- Làm đơn có khó không?

Hắn lắc đầu:

- Không đâu. Chỉ điền vào cái mẫu rồi nộp cho họ. Phần khó khăn là ở giai đoạn chờ đợi.

Tôi nói:

- Cám ơn anh nhiều.

Người đàn ông hít vào một hơi thuốc, khi hắn thở ra, lời nói kèm theo làn khói thuốc:

- Này, nhìn anh, em có tin rằng anh là con lai Mỹ không?

- Em không biết, còn anh, anh tin không?

Hắn gãi cằm, lưỡng lự:

- Ờ, cũng không chắc mấy. Cha anh là người Pháp. Anh mong là có thể qua mặt họ khi vào phỏng vấn. Em nghĩ anh có lọt không?

- Em không biết nữa, anh ơi. Nhưng mà, chúc may mắn.

Hắn nói:

- Cám ơn, anh cũng chúc em như vậy. À, thế em có mang cái gì cho ông trưởng phòng không đấy?

- Không, em không biết rằng phải làm chuyện đó.

Người đàn ông gật gật đầu, vẻ hiểu biết:

- Em không “phải” làm, nhưng em “nên” làm. Có thủ tục “đầu tiên”, hắn sẽ gửi thư của em đi mau hơn.

Anh ta di di cái mẩu thuốc lá thừa vào bức tường dơ bẩn và bước trở vào phòng đợi.

Cuộc gặp gỡ với viên trưởng phòng di dân của tôi thật là ngắn ngủi. Trong căn phòng rộng, tràn ngập những bó hoa và quà tặng. Hắn ta ngồi ườn người trên chiếc ghế to kềnh. Sau lưng hắn, xuyên qua một cửa sổ rộng, phong cảnh đẹp đẽ của bãi biển xanh ngắt trải ra mênh mông. Hắn ta trạc ngoài bốn chục, mập quá khổ. Cổ áo sơ mi trắng và cái cà vạt có vẻ như xiết vào cái cổ núng nính của hắn quá chặt, làm cho bộ mặt bự của hắn đỏ rần lên. Cặp má tròn trịa đồ đôi mắt lên thành hai đường mỏng dính, như hai nét bút lông. Hai chân hắn ghếch lên bàn lúc tôi bước vào phòng.

Hắn la lớn để át tiếng sóng gầm:

- Mày muốn gì?

Giọng hắn vọng vào tường, vang lên, càng tăng thêm sức mạnh của uy quyền.

Tôi ôm lá đơn một cách cẩn thận ở trên ngực, trả lời:

- Tôi đến đây để hỏi về cái chương trình có tên là O. D. P.

Hắn với tay về một cọc giấy trên mặt bàn, hỏi:

- Mày muốn xin đơn?

- Thưa ông, không. Tôi đã có đơn rồi.

- Thì điền đi

- Dạ, đã điền rồi.

- Nếu vậy đưa đây.

Tôi đưa cho hắn cái bìa trong đó có mấy lá đơn. Mắt hắn gặp cái nhìn chằm chằm của tôi bèn quay qua nhìn vào cái núi quà ở dưới đất, rồi lại nhìn qua tôi. Vài giây nặng nề qua, hắn thở dài, chấm dứt buổi gặp mặt. Cái nhìn của hắn trở thành băng giá:

- Đây là biên nhận. Hộ của mày đứng số ba trăm năm mươi lăm.

Hắn đưa cho tôi mảnh giấy nhỏ rồi ném tập hồ sơ của tôi xuống dưới đất, trên nóc những cái khác.

Tôi hỏi:

- Thưa ông, tôi phải chờ bao lâu?

- Tao không biết, mà cũng không cần biết. Đơn đã ra khỏi tầm tay tao rồi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:32 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi ba

Nha Trang - Tháng 9, năm 1984

Tháng chín dương lịch mang lại mùa mưa tới. Từ hơn hai tuần nay, một màn mây xám luôn bao phủ bầu trời. Gió gào thét, quất rầm rập vào những hàng dừa. Qua khung cửa sổ lớp học, hằng ngày tôi chỉ còn nhìn thấy những lớp nước trắng xóa đổ không ngừng xuống thành phố vốn đã ngập lụt khắp nơi.

Vào những ngày mưa, mẹ tôi nhận thấy khó khăn mà bán hết nổi nồi cháo. Dù bà có đậy điệm kỹ lưỡng, khách hàng cũng không thể thưởng thức món ăn một cách thoải mái trong khi gió giật từng hồi ngoài đường phố bùn lầy, quất những giọt mưa nặng hạt xuống đầu họ. Quần áo mẹ tôi sũng nước và cái thuốc nhuộm rẻ tiền nhuộm áo mẹ tôi, nay gặp nước bị ra mầu, chảy loang lổ xuống thân hình bà một loại chất lỏng mầu đen. Rất nhiều ngày mẹ tôi gánh về nồi cháo còn ế nguyên. Sau lưng mẹ, em gái tôi đuổi bắt bong bóng nước dưới đất, tay nắm chặt cái gối ướt sũng. Cùng với số vốn còm cõi của mẹ tôi rơi rụng dần, chúng tôi có thể nhìn thấy dấu hiệu của một hồi kết thúc tàn khốc.

Một buổi chiều sau tiết học cuối cùng, tôi vội vã rời trường văn, tay giơ cái dù rách che đầu. Bên ngoài, phía sau cổng sắt lớn của nhà trường, Kim đứng co ro trong một cái áo mưa lớn quá khổ mầu vàng, kéo lên che kín nửa khuôn mặt. Tôi phóng qua cổng, làm tung tóe những đám lá rụng trên lối đi lát gạch, để gặp nàng.

Ngó thẳng vào mặt tôi, Kim nói:

- Anh Kiên ơi, em tìm thấy anh rồi.

Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy Kim ngoài cổng trường. Đã nhiều tháng qua, từ ngày tôi ra tù, chúng tôi chỉ bí mật gặp nhau ban đêm, hoặc là dưới gốc cây mộc lan gần nhà, hoặc ngoài cánh đồng lúa ở sau bếp nhà nàng mà thôi. Tôi hỏi:

- Có chuyện rắc rối hả?

Nàng lại gần tôi. Hàng lông mi của nàng vừa dài vừa rậm, rung rinh như đôi cánh bướm. Tôi có thể nhìn thấy cặp mắt nàng mở lớn như những khung cửa, mời gọi tôi đắm đuối thả hồn. Tất cả mọi thứ ở Kim tỏa ra đều dường như mong manh, trực giác tôi bừng lên ý muốn bảo vệ nàng. Dĩ nhiên là tôi không thể quên được tất cả mọi thứ mà gia đình Kim là tiêu biểu. Với những ý nghĩ mâu thuẫn đó, tôi đứng chết trân như tượng dưới trời mưa như trút nước.

Kim lên tiếng:

- Về ông ngoại anh. Em vừa nhìn thấy ông trên đường phố, đang đứng nghe Tòa Án Nhân Dân. Hôm nay chi bộ đảng Cộng sản triệu tập một phiên sử để loại trừ những “hiện tượng tiêu cực” trong nội bộ chính quyền tỉnh. Khi em tới, em trông thấy ông ngoại anh đang đứng trong đám đông. Có quá nhiều người tham dự em hơi lo cho sự an toàn của ông.

Nàng hạ thấp giọng, tiếp tục:

- Sao anh lại hỏi “có chuyện rắc rối phải không”?

- Tại sao anh giật mình khi anh thấy tự nhiên em đến đây, vậy thôi.

- Tại sao em cứ phải cần có một lý do mới gặp anh được?

Câu vừa nói của nàng mhư một luồng hơi ấm mơn trớn tôi, khiến cho tôi quên bẵng cả bản thân và trận mưa không dứt hạt. Đối với tôi bây giờ chỉ còn là người con gái mảnh khảnh với đôi mắt nhung và cái cách nàng nhìn tôi mà thôi. Kim nói:

- Chúng ta đi thôi.

- Đi? Đi đâu?

Kim cười:

- Đi tìm ông ngoại anh chứ ai, rõ ngố.

Tôi yên lặng gật đầu, tay quờ ra nắm lấy tay nàng, dẫn nàng qua những đường phố có những cành cây sồi rậm rạp lơ lửng trên cao. Ngón tay nàng mềm mại cọ nhẹ trong lòng bàn tay tôi. Niềm rạo rực được kề cận với Kim cùng với nỗi băn khoăn, lo ngại bị thiên hạ bắt gặp đang cùng đi với Kim tay trong tay ngay tại khu phố lớn nhất của thành phố Nha Trang giữa ban ngày khiến cho tôi cảm thấy choáng váng.

Chúng tôi đã đi qua khu chợ chính. Kim dẫn tôi đến khu đất trống, nơi nàng đã trông thấy ông tôi. Đó là nơi có sáu đại lộ của thành phố gặp nhau, nay bị ngăn lại bởi những tấm cản và đã có đông nghẹt những người tò mò đến coi. Công an mặc đồng phục khắp nơi. Bất chấp mưa gió, dân chúng đã đứng nghẹt đường, chờ đón chương trình mà chính phủ đã loan báo cách đây mấy ngày. Chuyện chưa xẩy ra, nhưng đám đông đã ồn ào hưởng ứng. Bên kia đường, tôi trông thấy ông tôi đứng dưới một cái cột đèn, tay dựa vào cái ba toong. Người ông ướt đẫm nước mưa nhưng hình như ông không quan tâm tới thời tiết. Mắt ông nhìn đăm đăm, dường như đang suy nghĩ lung lắm.

Kéo tay Kim, tôi nói:

- Anh trông thấy ông rồi. Tụi mình làm thế nào băng qua đường được nhỉ?

Kim hét lên để át tiếng ồn ào:

- Đi theo em.

Phải mất cỡ hai mười phút chen chúc trong đám đông, chúng tôi mới đến cạnh một viên công an. Xa xa, có tiếng giầy đinh giậm thình thịnh. Kim vỗ nhẹ vào vai viên công an, hắn quay lại nhìn, mắt hắn đỏ ngầu vì bị nước mưa quất, nàng nói với hắn:

- Anh có thể cho phép chúng tôi băng qua đường được không?

- Chờ chút đã. Tù nhân đang đi tới.

Như để phù họa với lời phát biểu của anh ta, ngay tại lối rẽ ở đầu phố, một đoàn người xuất hiện, có đội công an dẫn đầu. Những biểu ngữ bay phần phật trong gió, phơi bày những khẩu hiệu như sau: “Chiến dịch sửa sai chống lại bọn phản đông len lỏi vào hàng ngũ Đảng Cộng Sản” và “Tư tưởng sai lầm và hành vi chống chủ nghĩa xã hội của bọn phản bội đích đáng lãnh trừng phạt nặng nề của Tòa Án Nhân Dân”, những dòng chữ viết bằng mực đậm mầu trên nền vải trắng. Viên chỉ huy công an ngồi trên chiếc xe jeep di động đọc những lời ca ngợi Cộng sản qua chiếc loa phóng thanh. Sau mỗi câu, hắn ngừng lại để tới lượt đám đông hoan hô. Tù nhân, ít ra cũng cỡ ba chục người, bước lảo đảo thành hai hàng, đầu cúi gục, tay bị trói giật ra sau lưng. Những chiếc mũ giấy - Loại mũ các diễn viên hề Trung Hoa đội khi trình diễn - gán họ với những chiêu bài “phản bội”, “phản động” Và “chống chủ nghĩa xã hội”.

Khi bọn tù nhân đi qua đám đông, từ hai bên đường, dân chúng ném loạn xạ vào họ nào là trái cây thối, gạch đá, đồng thời hô lên những khẩu hiệu “Đảng Cộng Sản muôn năm” và “cảnh giác trước âm mưu nham hiểm của bọn bành trướng Trung Quốc và đế quốc Mỹ”. Có những bàn tay giận dữ đấm lên không trung và có những giọng hét khàn khụa kêu gọi pháp luật.

Bên kia đường, ông tôi nặng nhọc tiến từng bước, dò dẫm cái gậy xuống mặt đường. Bàn tay ông run rẩy chìa ra. Theo hướng mắt ông đang nhìn, trong đám tù nhân, tôi nhận ra gương mặt thân yêu của chị Loan.

Ngay khi nhận ra ông tôi, chị dừng lại, đầu gối khuỵu xuống rồi chị ngã gục trên mặt đường ướt át. Cái mũ kỳ cục tuột khỏi suối tóc dầy của chị và biến mất dưới bước chân của đám dông. Tôi nhìn thấy sợi dây thừng quấn quanh cổ chị quàng theo hình chữ X trước ngực, vòng xuống cột giật hai tay chị về phía sau lưng. Với đôi chân trần, trông chị bé bỏng, thậm chí như một bé gái nhỏ.

Ông tôi khập khiễng bước về phía chị Loan. Ông vuốt vai chị, áp mặt chị vào lòng ông và vuốt tóc chị. Miệng ông tôi mấp máy nhưng tôi không nghe thấy vì đường phố quá ồn ào. Viên công an đứng ở góc phố nhận ra cảnh tượng trìu mến này, bèn sấn tới, dùng súng hất ngược ông tôi ra. Sức mạnh và sự hung hẵn của hắn đẩy cả ông tôi và chị Loan ngã vật xuống đất. Ông tôi bật ngửa, bàn tọa nện mạnh xuống lòng đường.

Tôi hét lên:

- Ngoại ơi!

Ông tôi không trông thấy tôi. Tôi liệng cái dù rách xuống đất, gặt phắt viên công an đang giữ chặt Kim và tôi tại chỗ, lao vào đám đông. Ông tôi chống khuỷu tay nhìn quanh, ánh mắt ngơ ngác. Tôi nâng ông dậy, phủi rác rưởi bám trên quần áo ông. Kim đuổi theo được tôi, đứng luẩn quẩn bên cạnh. Viên công an đã hất ngã ông tôi đứng cách đấy mấy bước, cái lưng hắn che khuất chị Loan khỏi tầm nhìn của chúng tôi. Tôi nhận ra hắn là tay chân thân tín của ông Ba Quì.

Tôi hỏi ông ngoại:

- Ngoại ơi, ngoại có sao không?

Ông tôi đáp:

- Ngoại không sao. Dẫn ngoại lại với Loan, ngoại muốn từ biệt nó.

Viên công an đã cản chúng tôi hồi nãy xỉa tay về phía chúng tôi, cảnh cáo:

- Cấm không được biểu lộ tình cảm với tù nhân. Tôi khuyên hai người hãy dẫn ông già đi khỏi nơi đây ngay đi.

Bỗng có tiếng người la hét, chửi bới những tù nhân nên viên công an quay về phía họ để nghe ngóng.

Tôi đứng thẳng lên, nói với Kim:

- Em trông chừng ông ngoại giúp anh. Anh đi chào từ biệt chị Loan giùm ông.

Thừa lúc viên công an lơ đãng, tôi vụt chạy tới với chị Loan. Quì xuống bên cạnh chị, tôi nhận ra tên Trần cũng ở gần đó. Ngực hắn còn tòn ten treo một tấm bìa cạc tông, có ghi như sau “Tôi vốn là một đảng viên, nhưng tôi đã làm điều ô nhục đối với Đảng và phản bội tổ quốc. Tội ác của tôi đã vượt trước sự khoan hồng”. Vừa nhìn thấy tôi, một nét xấu hổ thoáng qua mặt hắn ta. Môi trên của hắn ta sưng vù, phồng ngược lên, lộ ra một lỗ hổng đen ngòm, hai chiếc răng cửa dơ bẩn đã rụng mất. Hắn ta vội vã nhìn ra phía khác.

Chị Loan vẫn tiếp tục quì gối đưới đất. Mái tóc đẫm nước mưa xõa xuống mặt, có vài sợi dính trên miệng chị. Cặn lòng trứng và hột cà chua bê bết trên quần áo chị. Đầu óc tôi choáng váng như đang ở trong một cơn ác mộng. Tiếng ồn ào của cái đám đông phẫn nộ nhỏ dần. Tôi với tay ra, vuốt má chị.

Chị Loan úp mặt vào hai bàn tay tôi, khóc mùi mẫn, vai rung lên bần bật. Bỗng nhiên tôi cảm thấy lưỡi chị lè ra khỏi miệng, mềm và ướt, lướt qua làn da của tôi. Lẹ làng, chị nhả cái gì đó vào lòng bàn tay tôi. Rồi chị ngẩng đầu lên nhìn tôi, một sợi dây chuyền vàng kèm theo một miếng ngọc thạch mầu xanh lá cây cỡ bằng đồng tiền trung hoa cổ, lấp lánh dưới ánh chiều xám xịt. Tôi nắm lại không kịp suy nghĩ.

Chị Loan nói:

- Cất đi, Kiên. Khi chị mới tới gia đình em, bà ngoại em cho chị. Nói với mẹ là chị trả lại cho mẹ em.

Bỗng một cú điếng người giáng vào lưng tôi, khiến cho tôi ngã sấp về phía trước. Ngó lên, tôi thấy viên công an đứng lù lù ngay phía trên tôi, đôi mắt trợ giộc, vừa dùng báng súng đánh tôi, vừa giận dữ hét:

- Đã bảo không được gần cái tụi phản động!

Kim rú lên:

- Đừng!

Nàng để ông tôi ngồi trên vỉa hè, chạy vội lại chụp lấy cánh tay gã công an.

Nhìn thấy Kim, vẻ hung tợn của tên công an đổi sang thành sợ hãi. Hắn lắp bắp:

- Xin lỗi cô hai, tôi không nhận ra cô.

Kim nắm tay tôi:

- Chúng tôi đi ngay bây giờ, không làm phiền chú nữa.

Kim và tôi đến với ông tôi rồi cả ba vội lẩn vào đám đông.

Màn đêm bao phủ quảng trường, mưa đã tạnh. Phía ngoài rạp hát Tân Tân có một cái sân khấu lộ thiên lớn treo đèn mầu quay ra phía quảng trường. Trên bục gỗ, phía bên trái, có một cái chắn bằng gỗ dùng làm vành móng ngựa cho tội nhân. Ngay chính giữa, có ba ông quan tòa ngồi trên một cái ghế dài nhìn xuống hàng đầu là chỗ bọn tù nhân ngồi. Vì là Tòa Án Nhân Dân, nên không cần đến bồi thẩm đoàn và luật sư. Hơn nữa, trong suốt thời gian tòa xử, bị cáo không được phép lên tiếng. Đại biểu Nhân Dân đã quyết định xong tội của họ. Bây giờ là lúc tuyên án mà thôi.

Chúng tôi đứng trong bóng tối, theo dõi nghi thức từ đằng sau hàng trăm cái đầu nhấp nhô. Mọi người chen ra, chen vô khỏi hàng ghế của họ, to tiếng dành nhau chỗ ngồi tốt hơn. Quà vặt chuyền tay nhau như thể người ta đi xem văn nghệ vậy. Tôi đứng thẫn thờ, nhìn chằm chằm vào chị Loan trong đám tù nhân. Chị ngồi, đầu cúi gằm, vai rút lại, dấu mặt giữa hai đầu gối. Hai cánh tay chị bị trói giật về đường sau. Tôi đau lòng khi nhìn tình cảnh chị bị như vậy.

Để khai mạc phiên tòa, viên công an bắn ba phát súng. Tiếng súng vang lên khắp quảng trường khiến cho đám đông im bặt. Một số người trong số những ông tòa đứng trước cái loa phóng thanh, tay cầm một tờ giấy. Tất cả như mờ ảo trước mắt tôi, cho tới khi tôi nghe gọi tên chị Loan. Hai viên công an vừa đá vào chị vừa quát tháo, lôi chị lên chỗ đứng của bị cáo. Một viên công an nhét giẻ vào mồm chị. Một ông tòa lên tiếng cáo buộc chị và chồng chị cái tội đạo đức suy đồi, mà họ gọi là “một biểu hiện tư hữu cực kỳ nguy hiểm của thành phần nông dân Cộng sản: Bọn cơ hội chủ nghĩa, bọn xét lại chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mao”, họ đã phản bội tổ quốc, bắt tay với bọn phản động. Họ xúc phạm thanh danh của Đảng Cộng Sản. Và, vì những tội kể trên, viên quan tòa phán:

- Bọn chúng phải bị trừng phạt!

Chị Loan bị kết án mười lăm năm tù khổ sai không có cơ hội được giảm khinh. Chồng chị bị kết án tù chung thân. Sau phiên tòa, cả hai bị đẩy xuống khỏi sân khấu, lên xe đi luôn.

Mẹ tôi ngồi chờ ông ngoại và tôi dưới gốc cây ổi gần lối vào. Sau trận mưa, không khí trở nên mát mẻ. Những quả ổi chín rữa rơi rải rác gần chân bà ẩn hiện giữa làn hơi nước trong vườn đang bốc lên thành một lớp sương mờ ảo, lãng đãng trên mặt đất những hình ma bóng quế. Khi mẹ tôi mừng rỡ ôm lấy ông cháu tôi, tôi ngửi thấy mùi đồ ăn chiên tỏi còn vương vất trên quần áo của bà. Tôi chú ý đến cái phong bì dầy trên tay bà.

Mẹ tôi kêu lên:

- Đố cái gì đây? Chúng ta có giấy phép xuất cảnh. Trong vòng ba tháng, chúng ta sẽ vào Sài gòn để dự cuộc phỏng vấn tại tòa Lãnh sự Mỹ. Kiên, cuối cùng thì công lao khó nhọc của con chạy giấy tờ đã được đền bù. Tối nay chúng ta sẽ ăn mừng vận may bằng một bữa cơm thịnh soạn.

Trong cơn thảng thốt vì cái tin đến bất ngờ, tôi đưa cho mẹ tôi sợi dây chuyền. Giọt lệ mừng vui của tôi có lẫn chút vị đắng ở ngay đầu lưỡi.

Mẹ tôi nhìn săm soi sợi giây hỏi:

- Cái gì đây?

- Của chị Loan. Chị ấy nói chị hoàn lại cho mẹ. Ông ngoại và con từ phiên tòa xử chị ấy trở về.

Mẹ tôi nhìn ông tôi, buồn rầu nói:

- Ba ơi, con...

Ông tôi giơ tay chận lại:

- Thôi con ạ, đừng...

Rồi vừa khập khiễng bước về buồng, ông vừa nói:

- Không phải lỗi của ai cả, con ơi.

Tôi hỏi mẹ tôi:

- Mẹ ơi mình sẽ làm gì với cái này?

Mẹ tôi trả lời không chút ngần ngại:

- Chúng mình làm lộ phí vào Sài gòn chứ còn làm gì nữa?

Tôi đề nghị:

- Mẹ có thể bán sợi dây. Nhưng còn miếng ngọc, cho con giữ được không hả mẹ? Đó là vật độc nhất chị Loan để lại.

Mẹ tôi cau mày:

- Con có chắc là con muốn như thế không?

Tôi gật đầu.

Mẹ tôi thở dài, tách miếng ngọc thạch ra khỏi sợi dây chuyền vàng rồi đưa cho tôi:

- Được, vậy hãy cầm lấy ngay trước khi tao đổi ý. Nếu mà mày vô phước làm mất thì đừng có trách tao.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:32 pm    Tiêu đề:


Chương Bốn Mươi Bốn

Tối đó, sau bữa cơm, tôi lỉnh vào giường để nghiên cứu mấy tấm giấy thông hành mà chúng tôi mới nhận được từ Hà Nội. Tờ giấy có chiều ngang mười phân, chiều dài ba mươi phân, gấp làm tư, mỏng manh dễ rách như bất cứ một tờ giấy nào đó. Trang ngoài mầu trắng, đóng dấu có biểu tượng của nước Việt nam - một vòng đỏ tròn trên cái cờ với cái sao vàng ở giữa, viền bằng những nhành lúa chín. Ở đưới đáy cái hình đó, nhánh lúa vàng được bện vào nhau và cột bằng cái nơ đỏ, có hàng chữ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được in ngang bề mặt. Phía dưới cùng là hàng chữ “Thông hành số 40783 ATH1”. Bên trong là hình tôi nhìn thẳng vào máy ành, dọc theo là khoảng trống dành cho chữ ký của tôi. Phần còn lại của tờ thông hành có nền xanh nhạt, đóng đầy những vết con dấu đỏ, phần lớn ghi ngày 30 tháng Năm, năm 1984. Hấp dẫn nhất là câu “Người cầm tờ giấy này được phép rời khỏi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trước ngày 30, tháng Năm, năm 1985 để tới nước Hoa Kỳ”. Tôi đọc đi đọc lại mấy hàng chữ đó cố gắng tận hưởng cái nghĩa của nó.

Bên ngoài, có tiếng mẹ tôi gọi ra phụ rửa bát. Tôi gấp mấy tờ giấy thông hành lại, đứng dậy vươn vai rồi bước ra. Mặc dù mới trải qua một trận mưa, vậy mà căn bếp không có mái cũng đã gần như khô rồi. Đó đây, chỉ còn lại một vài vũng nước đọng dưới sàn phản chiếu lóng lánh dưới bầu trời trong vắt, không một gợn mây. Mẹ tôi đứng trong bóng tối ngó ngó sang nhà bác tôi, chờ đợi. Gió lạnh thổi hun hút qua phòng ăn trống trải, lướt vào quần áo mỏng của mẹ tôi phần phật. Bước chân của tôi đi tới làm mẹ tôi giật mình.

Đặt một ngón tay lên miệng ra hiệu cho tôi im lặng, mẹ tôi thì thào:

- Suyt.! Đừng làm ồn. Mẹ đang chờ bác.

Tôi dừng lại. Có tiếng nước dội ào ào từ trong phòng tắm vọng ra qua hành lang. Một thoáng sau, tôi nghe tiếng mở cửa ra rồi đóng lại, rồi tới tiếng guốc quen thuộc của bác tôi lộp cộp tiến lại gần. Rồi thì chính bác tôi hiện ra dưới ánh sáng bạc nhược của ngọn đèn bếp, tay còn đang thắt giải rút quần.

Mẹ tôi hắng giọng:

- Chào chị.

Bác tôi nhìn lên, kinh ngạc:

- Ờ... hờ... chào!

Trong bóng tối của cái hành lang, đôi mắt bác tôi sâu hoắm làm mặt bà giống như một con cú mèo. Bác tiếp:

- Tôi không trông thấy cô đứng đấy. Cô làm tôi sợ gần chết.

- Xin lỗi chị. Chắc chị đã nghe tin hôm nay chúng tôi nhận được giấy thông hành.

Bác tôi xốc lại quần áo cho chỉnh tề, vừa trả lời:

- Có, tôi biết. Mừng cho cô.

- Cảm ơn chị. Tôi có vài chuyện muốn bàn với chị. Tôi đang nghĩ đến chuyện phải bán căn nhà và dọn vào Sài Gòn. Ngày đi Mỹ cũng không còn xa và tôi cần kiếm chút đỉnh tiền để lo công việc.

Bác tôi ngắt lời:

- Đừng nói với tôi chuyện đó bây giờ. Cô cần phải bàn bạc với ba sắp nhỏ.

- Tại sao vậy? Đó là nhà của tôi và tôi sẽ bán nó. Tôi chỉ muốn cho chị biết dự tính của tôi vì chị là chị ruột. Tôi không cần phải trình với chồng chị.

Bác tôi mở miệng ngáp dài:

- Tôi nghĩ cô nên nghe theo lời tôi. Sáng mai mình sẽ gặp nhau.

Mẹ tôi gật đầu:

- Được, nếu chị quyết định như vậy. Thế mai mấy giờ?

- Chín giờ sáng mai, tại phòng khách nhà tôi.

Sáng hôm sau mẹ tôi dậy sớm mặc dầu không phải sửa soạn bán hàng ngoài chợ. Ngồi lặng lẽ trên một cái ghế đẩu nhỏ trong bếp, mẹ tôi châm nước sôi để pha trà gừng cho ông ngoại tôi. Gió hun hút thổi qua cái lỗ hổng lớn mà xưa kia vốn là cửa sổ, đưa luồng hơi lạnh giá ùa vào trong phòng khiến cho tôi tỉnh ngủ, tuy còn nằm nướng lại. Mấy cái bao tời cũ rách lổn nhổn thay cho giường cứ châm chích vào da lưng tôi. Tôi lật lớp bao bố lên, rút ra mấy cái thông hành mà tôi đã dấu, đọc lại một lần nữa những cái chữ nhỏ xíu, bâng khuâng tự hỏi làm sao mà chúng tôi có thể rời khỏi Việt Nam trước ngày hạn chót là ngày 30 tháng Năm năm 1985. Jimmy cũng đã nhỏm dậy. Nó vừa gãi đầu vừa bước vào bếp. Mẹ tôi đưa cho nó một ly nước lạnh cùng với cái bàn trải đánh răng đã trét đầy muối trộn chung với baking-soda. Nó chải răng, xúc miệng xong bèn hất chỗ nước dư ra vườn qua một cái lỗ hổng trên tường.

Bên ngoài, xóm giềng bắt đầu nhộn nhịp. Đó đây, nào là tiếng ồn ào trong mọi nhà, tiếng gà gáy, tiếng mở cửa đóng ken két, và tiếng trẻ con ôn lại bài lần chót trước khi tới trường. Muôn vật đều như bừng lên một vẻ sạch sẽ, sáng sủa sau cơn mưa, cùng với mùi đất ẩm tràn ngập trong không gian.

Chiếc đồng hồ treo tường bên nhà bác tôi điểm chín tiếng âm vang qua khu vườn. Mẹ tôi mặc cái áo lụa mầu xanh lơ sậm gần như mầu đen, có điểm những bông hoa dành dành nhỏ xíu đã bạc mầu và cái quần nylon đen. Đó là bộ quần áo tươm tất độc nhất còn lại của mẹ tôi, và nó cũng chỉ được dùng vào những trường hợp thật là đặc biệt. Tóc mẹ tôi được cột túm ra đằng sau. Dáng bà đi đứng cứng ngắc với đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Bà thở một hơi thật dài rồi bước ra khỏi bếp, đi qua khu vườn. Jimmy và tôi nhìn theo bà qua khung cửa sổ cho đến khi bóng mẹ khuất sau cái cột cao phủ đầy rêu ở nhà bác tôi.

Nhưng, chỉ một khoảng khắc sau, bà đã đẩy tung cửa nhà bác tôi, giận dữ phóng ra. Tay bà dứ dứ trên đầu, miệng thì la lớn:

- Ba ơi, ba đâu rồi?

Ông ngoại tôi thò đầu ra khỏi phòng, nét mặt ngơ ngác. Mái tóc của ông tôi xù tung, dựng đứng trên đầu, trông như đám lông nhím. Ông tôi hỏi:

- Có chuyện gì thế con?

Mẹ tôi bước ào qua cửa bếp, vừa đá phốc cái ghế ra khỏi lối đi, vừa thét:

- Ba! Có việc con cần nhờ ba giải quyết. Xin ba đi với con.

Quay qua Jimmy và tôi, cũng một giọng, bà ra lệnh:

- Tụi bay nữa, mặc đồ vào rồi theo mẹ.

Trước khi hai đứa tôi mặc đồ xong, mẹ tôi đã lôi chúng tôi sải bước trở lại phòng khách nhà bác tôi. Đi sau chúng tôi vài bước, là ông ngoại. Bác trai tôi đang ngồi bên bàn cà phê, quay lưng lại bàn thờ Phật, hai tay bác khoanh trước ngực. Qua cặp kính dầy, đôi mắt bác trừng trừng nhìn chúng tôi. Phía sau bác, như một trung đội lính đã sẵn sàng để ra trận, tám người con trai của bác đã đứng sững, như để yểm trợ cho cha họ. Ở một khoảng nhỏ trên bức tường sau lưng bàn thờ Phật, có treo tấm hình chị Ánh Nguyệt ghép gọn ghẽ trong một khung hình mầu đen, cạnh đó là hình bà ngoại tôi. Khói hương nghi ngút từ bàn thờ tỏa ra bầu không khí vốn đã căng thẳng. Trong sự im lặng lạnh lùng, chúng tôi có thể nghe thấy tiếng tích tắc không ngừng của cái đồng hồ.

Mẹ tôi lên tiếng hỏi trống không:

- Bà chị đáng kính của tôi đâu rồi?

Bác trai tôi dùng cùng một giọng điệu để trả đũa:

- Vợ tôi không tham dự cuộc họp được vì mắc bận việc bất thình lình.

- Còn chuyện gì có thể quan trọng hơn chuyện này? Bộ bà ta sợ đụng mặt tôi hả?

Bác trai tôi nói:

- Về việc này, vợ tôi không quan trọng. Cô muốn gặp chúng tôi ở đây hẳn có lý do. Tai sao cô không nói ra điều cô cần nói rồi ra về?

Ông ngoại tôi lên tiếng:

- Anh có tính mời chúng tôi ngồi không đây?

Bác tôi nói:

- Xin ba tha lỗi.

Quay sang Lễ, người con trai lớn nhất, bác ra lệnh:

- Kéo ghế cho ông ngoại.

Như người máy, Lễ bước ra khỏi hàng, nhưng mẹ tôi đã vẫy tay ra hiệu cho anh ta ngưng lại và nói:

- Dẹp cái hình thức giả dối ấy đi. Việc này chỉ tốn có một phút thôi. Tôi muốn mấy người biết rằng tôi đang dự tính bán căn nhà của tôi.

Bác tôi nói:

- Rất tiếc! Cô không thể bán được!

Mẹ tôi nhướng một bên lông mày:

- Tại sao không? Đó là nhà tôi, phải không? Tôi là người đứng tên trong văn tự.

Bác tôi quay sang người con lớn nháy mắt ra hiệu. Lễ bèn mở cái hộp nhỏ để đàng sau bàn thờ Phật, lôi ra một sấp giấy tờ, đưa cho cha.

Mẹ tôi nguýt:

- Hứ.

Bác trai tôi bắt đầu giở những trang giấy đặt trước mặt, lên tiếng:

- Cô Khuôn, cô nói rằng cô là chủ căn nhà, đúng vậy. Tuy nhiên, cô không thể bán căn nhà của cô được vì tôi là chủ miếng đất mà căn nhà của cô tọa lạc. Điều đó được ghi rõ trong hồ sơ địa bộ đây. Khi nào bình tĩnh, cô có thể nghiên cứu giấy tờ, nếu như cô không tin tôi.

Mặt tối sầm lại vì giận, mẹ tôi nói:

- Mấy năm trước tôi đã mua lại khoảng đất đó của anh rồi. Thằng con lớn của anh vừa đúng mười lăm tuổi cái hôm anh dẫn nó lại biệt thự của tôi. Tôi còn nhớ tặng nó cái xe đạp đầu tiên mà nó có, đồng thời đưa cho anh nốt số tiền thanh toán miếng đất cộng với chi phí sửa sang. Cha mẹ tôi và con anh chứng kiến việc đó. Sao bây giờ anh dám trở mặt? Ngoài ra, trên thực tế, so với số tiền mà tôi đã đưa cho gia đình anh trong bao nhiêu năm nay, ít ra tôi cũng đã mua đứt toàn thể khu vực này từ lâu rồi.

Ông ngoại tôi gật đầu một cách trầm ngâm:

- Tôi tuy già nhưng chưa lú lẫn đâu. Tôi còn nhớ ngày hôm đó như in. Lễ, cháu có nhớ không?

Lễ tránh cái nhìn đăm đăm của ông ngoại. Mẹ tôi dằn tay lên ngực như để trấn tĩnh. Đoạn, bà nói với bác tôi:

- Tôi biết làm gì bây giờ? Tôi cần tiền để lo cho chuyến đi. Anh có ý kiến gì để chúng ta có thể giải quyết không?

Bác tôi đấm mạnh nắm đấm xuống mặt kính của cái bàn cà phê, dằn từng tiếng, như ông ta đang nói với một đứa bé lên năm bướng bỉnh:

- Tôi không cần biết cô làm cái gì. Cô không được bán đất của tôi. Đó là câu trả lời cuối cùng.

Rồi ông ta đóng sấp hồ sơ, hai bàn tay va vào nhau cái chát.

Sự im lặng trở lại căn phòng.

Cuối cùng, mẹ tôi hất mái tóc ra khỏi gương mặt, lên tiếng:

- Được lắm, tụi bay toàn đồ ăn cướp. Nếu tao không bán được căn nhà, tao sẽ phá tan hoang, từng viên gạch một. Tụi bay đừng hòng chiếm được căn nhà, ngày nào mà tao còn sống. Chưa có xong đâu.

Rồi bà lao ra ngoài, đồng thời vẫy tay làm hiệu cho Jimmy và tôi đi theo.

Có tiếng cười lớn của lũ anh em họ đuổi theo chúng tôi vang trong khu vườn.

Năm phút sau, Tín xuất hiện ngoài bếp. Ánh nắng xuyên qua lỗ hổng trên bức tường phòng ngủ của tôi chiếu lên khuôn mặt đầy mụn của hắn. Hắn chớp mắt lia lịa. Mẹ tôi bước ra khỏi phòng, nạt lớn:

- Mày còn muốn cái chết dấp gì nữa đây?

Tín lắp bắp:

- Cháu đến để lấy mấy cái bao bố chứa gạo. Ba cháu cần để chứa đồ.

Jimmy phản đối:

- Lấy cái giường của em đi hả? Rồi em ngủ ở đâu?

Mẹ tôi bảo Jimmy:

- Đừng cãi, con Quay qua Tín, bà nói giọng ráo hoảnh:

- Lấy hết đi. Đem tất cả những thứ khốn nạn ra khỏi nhà tao đi.

Em Bé Ti khóc:

- Mẹ ơi, nền xi măng lạnh lắm.

Mẹ tôi ôm mặt, thổn thức:

- Lạnh thì lấy giấy báo lót mà nằm. Cần quái gì mấy cái bao tải ấy.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:33 pm    Tiêu đề:


Chương Bốn Mươi Lăm


Sài Gòn, ngày 2 tháng giêng, năm 1985

Với số tiền bán sợi dây chuyền của chị Loan, mẹ tôi đưa chúng tôi vào Sài gòn sớm hơn kỳ hẹn cuộc phỏng vấn một tuần lễ. Chúng tôi tạm trú ở nhà hai cụ thân sinh ra dì Đặng. Hai vợ chồng già sống heo hút trong một căn xép nhỏ, cách dinh Độc Lập có vài con đường. Cái căn xép này trước kia đã từng là nhà bếp của họ. Còn cái nhà lớn bên cạnh, nơi mười năm trước mà chúng tôi đã gặp dì Đặng trên đường đi tới máy bay trực thăng thì đã bị cắt sẻ nhiều lần bán cho nhiều chủ rồi. Nay hai cụ chỉ còn lại căn nhà bếp và cái nhà tắm nhỏ xíu. Chỗ ở quá sức là nhỏ, dù chỉ dành cho hai cụ già, tuy vậy, hai cụ Hôm đã nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi.

Sài Gòn đã thay đổi quá nhiều kể từ khi chấm dứt cuộc nội chiến. Giống phần đông những cư dân bực bội, mệt mỏi, nếp sinh hoạt của thành phố cũng hiện lên vẻ khó sống. Những căn nhà đã có một thời xinh xắn, dễ thương, nay đổ nát, bị mối mọt gậm mòn. Tường sơn tróc lở, thay vào đó là những mảnh rêu xanh. Qua những lỗ hổng mà xưa kia là cửa sổ, đó đây, có những khuôn mặt bẩn thỉu của đám con nít thờ ơ nhìn khách qua đường. Xe đạp và xe xích lô tràn ngập trên những đường phố nhỏ hẹp, tạo nên một dòng âm thanh triền miên ồn ào điếc tai. Tóm lại, tiếng động ầm ỹ náo nhiệt của thành phố là một âm điệu mà chúng tôi khó có thể làm quen được.

Tôi bước qua những phố phường xa lạ, lòng lo âu về những thủ tục rắc rối của cuộc ra đi. Tôi sợ phải đối diện với những mối lo của tôi. Tôi không biết số phận sẽ dẫn gia đình tôi và tôi đi về đâu nữa. Tương lai chúng tôi là một điều bí ẩn. Sự đi hay ở của chúng tôi hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của những người vô danh, xa lạ, mà tôi sẽ chẳng bao giờ biết về họ.

Thành phố Sài Gòn vào thời điểm 1985 thì rất là tù túng, ứ nghẹn, tràn ngập rác rưởi. Vào những ngày nóng nực, bụi bậm bay mù mịt, không ngừng tỏa xuống mọi vật như một dòng suối tuyết mầu đen. Tôi sớm nhận ra bài học là không mặc mầu lợt khi đi ra ngoài. Mọi thứ sẽ bám bẩn rất nhanh, nhất là khu trung tâm Sài Gòn, nơi mọi người đổ xô nhau đi từ chỗ ô nhiễm này đến chỗ ô nhiễm khác.

Lá thư đính kèm với những giấy thông hành của chúng tôi ghi địa chỉ của sở Di Trú là số 4 đại lộ Duy Tân, một con đường nổi tiếng với những cây me cao vút, xum xuê, rực rỡ. Tàn cây me đan vào nhau che phủ lòng đường giống như một cái vòm. Dinh Độc lập cũng chỉ cách nhau khoảng vài con phố, ẩn sau những hàng cây lá xanh rờn đó. Vào sáu giờ rưỡi sáng, gia đình chúng tôi đã chờ sẵn ở ngoài cổng sở Di Trú cùng với khoảng hai chục trẻ lai Mỹ và gia đình họ. Tất cả đều đợi xe buýt chở chúng tôi đến địa điểm phỏng vấn, cách khoảng một giờ xe.

Vào thời gian đó, lệnh cấm vận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được thi hành rất chặt chẽ. Để có thể làm việc tại Việt nam, nhân viên Cơ Quan Thiện Nguyện Hoa Kỳ mỗi buổi sáng phải từ Bangkok đáp máy bay đến một thị xã bên ngoài Sài Gòn và ra đi trước khi trời tối. Chúng tôi đi xe buýt đến gặp nhân viên đại diện vào những giờ đã được chỉ định.

Đia điểm làm việc tọa lạc trong một khu dinh cơ, có lẽ hồi trước là tài sản của một nhà thầu giầu có. Dấu vết của sự xa hoa vẫn còn thấy rõ ở đó. Căn nhà nằm trên sườn đồi, nhìn xuống rừng cao su, xây theo kiểu chữ U, với hai cánh tả hữu vĩ đại nối vào căn trung tâm còn to lớn gấp bội, ôm lấy hàng hiên rộng mênh mông bằng đá cẩm thạch mầu đỏ. Những căn phòng rộng với những cửa kính khổng lồ ở tầng lầu thứ hai được dùng làm văn phòng.

Qua khung kính trong vắt, tôi có thể nhìn thấy những người ngoại quốc tay cầm hồ sơ, tay cầm bút đi tới đi lui. Một người nào đó trong bọn họ cũng có thể là người đã đánh máy cái thư đầu tiên gửi cho tôi. Và nay họ chính là người quyết định số phận của tôi. Từ một khoảng cách thật là ngắn ngủi, khuôn mặt họ sao mà đẹp đẽ, sáng sủa và cũng thật là xa lạ biết bao! Sao mà tôi lại mong muốn được trở thành một trong số họ đến thế! Và, lần đầu tiên từ bao nhiêu năm nay, tôi không thấy xấu hổ vì bộ mặt rặt Mỹ của tôi. Ngắm nhìn họ, tôi nhận thức được tôi từ đâu tới và tôi nên tùy thuộc vào đâu. Sự xuất hiện của họ đã khuấy động trong tôi một nỗi niềm khắc khoải dâng lên ngùn ngụt.

Như đọc được tâm trạng của tôi, mẹ tôi kéo tay tôi, chỉ vào những người Mỹ, nói:

- Nhìn kìa, Kiên! Con có biết thế là gì không? Con chim ưng mẹ đã kiếm ra con của nó rồi đó!

Trong khi chờ đợi được gọi tới tên, chúng tôi quây quần quanh cái bàn hình chữ nhật kê ở một phía bên hàng hiên. Mỗi chúng tôi đều cố gắng mặc bộ đồ bảnh tỏn nhất, theo với thời trang hiện đại của thành phố, Quần Jean, áo lụa rộng hoặc áo sơ mi sọc rằn. Phần lớn con lai trong nhóm tôi ở khoảng từ mười hai đến mười chín tuổi. Họ nhìn nhau không rời, cố gắng giấu giếm sự tò mò vào cái vỏ lãnh đạm một cách lễ độ.

Đứng cách xa cả nhóm là một đại gia đình gồm mười sáu người. diện quần áo đẹp, đeo nữ trang đắt tiền, trông rực rỡ như một bầy công. Họ túm tụm với nhau dưới một gốc cây phi lao, ăn bánh đậu xanh lấy ra từ cái giỏ đựng đồ đi picnic. Một cô gái cỡ mười bốn, tóc vàng hoe thẳng mướt, mắt xanh, đứng một cách nhút nhát trong đám, tay bưng một bình lớn đựng trà đá sữa bột. Người đàn bà lớn tuổi nhất trong đám, mập đến nỗi khi bà ta ngồi, cặp mông của bà nuốt chửng cái ghế. Bà lớn tiếng gọi cô bé với giọng rõ ràng, hả hê:

- Cho mẹ chút gì để uống đi, con gái út của mẹ.

Bà ta lập đi lập lại câu đó nhiều lần, cười sằng sặc như là câu nói đùa có duyên lắm vậy. Lớp phấn dầy từ hai đuôi mắt bà ta rạn ra. Gia đình bà tỏ ra ngượng ngùng mỗi khi bà ta kêu cô bé là con gái. Họ lẩm bẩm với nhau một cách dè bỉu, che dấu sự khó chịu của họ trong những câu chuyện hàn huyên dỏm.

Khi tên gia đình tôi được gọi lên, chúng tôi chạy vội đến gặp người phỏng vấn chúng tôi ngay tại chân cầu thang. Bà ta là một người da đen, mặc một bộ đồ lịch sự mầu xanh đậm, đẹp đẽ và xa lạ như một con búp bê bằng sứ. Mùi nước hoa của bà ta bay ra thơm lừng không gian như mùi hoa hồng trong vườn nhà bác tôi sau cơn mưa. Một viên thông dịch Việt Nam đứng sau bà ta mấy bước. Sau mấy câu chào đơn giản và những cái bắt tay, họ dẫn chúng tôi lên lầu.

Ngay sau khi bà ta mở cửa mời chúng tôi vào, một luồng hơi lạnh từ chiếc máy điều hòa không khí tỏa ra đã cuốn tôi vào cái lịch sự, nồng nàn của tây phương. Tôi hít một hơi dài, bỗng nhiên, nước Mỹ đã nằm trong lồng ngực tôi. Bên cạnh tôi, mẹ tôi bật lên tiếng khóc.

Ngay sau cuộc phỏng vấn, chúng tôi vội vã rời Sài Gòn, không có cơ hội để thưởng ngoạn thành phố. Chúng tôi không có khả năng tài chính để có thể chịu đựng nổi sự chi tiêu tốn kém nơi đô thị. Ngoài ra, nơi ở của hai cụ Hôm quá nhỏ bé để có thể chứa một gia đình đông như gia đình chúng tôi. Mẹ tôi bảo em Jimmy ở lại nhà cụ Hôm để theo dõi lịch trình các chuyến bay và danh sách người ra đi, được công bố hàng ngày ở sở Di Trú. Sau này, khi đã về đến Nha Trang, chúng tôi liên lạc với em phần chính là điện tín. Nhiệm vụ của tôi là lo việc giấy tờ. Theo chính phủ Việt Nam, người nào muốn lìa bỏ đất nước, phải hội đủ ba loại giấy tờ chủ yếu, đó là, chữ ký của sở Nhà Đất, giấy không thiếu nợ của Ngân Hàng Trung Ương và giấy chứng nhận của sở thuế, mục đích là để chứng tỏ rằng người ra đi không còn là chủ sở hữu động sản nào, không nợ nần Ngân hàng nhà nước, và không thiếu thuế. Đối với chúng tôi, thời gian không còn lại bao nhiêu.

Tin đồn về việc gia đình tôi gặp được phái đoàn Mỹ về tới Nha Trang trước chúng tôi. Đứng chờ chúng tôi tại trước cổng nhà là một hàng dài những con lai. Phần lớn họ là những đứa trẻ vô gia cư, quần áo bẩn thỉu rách rưới, những nước da xanh xao và những khuôn mặt trẻ con đã mất đi nét bụ bẫm. Họ nhìn chúng tôi đầy hy vong.. Rất nhiều em còn mang theo tờ đơn mà chúng đã lấy từ văn phòng Di Trú. Bước cạnh mẹ và em Bé Ti tôi đưa tay ra với cái then cửa.

Hai đứa bé da đen đứng ngay hàng đầu tiên nhe răng ra cười với tôi. Một đứa rụt rè:

- Chú Kiên ơi, xin chú giúp chị em chúng cháu. Chúng cháu cần điền cái đơn này nhưng không biết đọc và viết.

Đứa em nói thêm:

- Chúng cháu có ít tiền đây để trả công cho chú.

Cô ta mở bàn tay ra cho tôi trông thấy tờ giấy hai chục đồng nhàu nát. Chắc là cô bé đã nắm chặt tờ giấy bạc từ lâu lắm rồi, nên nó gần như mủn ra vì mồ hôi tay trong lòng bàn tay cô ta. Cô ta cẩn thận nhét tờ giấy bạc vào tay tôi. Hai cô bé dường như cùng một tuổi, cỡ mười ba, mười bốn. Đầu tóc chúng to xù như cây thông kiểng.

Tôi đẩy tờ giấy bạc về phía cô bé, nói:

- Giữ lấy, anh không lấy tiền của em đâu. Nhưng đừng lo, anh sẽ giúp em điền đơn.

Mẹ tôi lên tiếng:

- Tôi gặp mấy cháu ở đâu nhỉ. Phải tiệm mì trên đường Lê Chân không?

Hai đứa bé đồng thanh:

- Thưa bà đúng đấy ạ

- Trời! Từ bấy nhiêu năm! Bộ tụi con vẫn lang thang ngoài đường hả? Mẹ tụi con đâu?

Một đứa trả lời:

- Mẹ cháu chết năm ngoái. Bác sĩ bảo bị bệnh giang mai. Tụi cháu tự kiếm ăn từ đó đến nay.

Tôi cầm mấy tờ đơn trong tay chúng. Tò mò, tôi hỏi:

- Sao các em biết gia đình anh hôm nay trở về?

Cùng một nụ cười ngây thơ, hồn nhiên, sáng trên hai khuôn mặt, chúng trả lời:

- Chúng em nghe được tin may mắn của gia đình anh từ hôm thứ hai ở ngoài chợ. Từ hôm đó chúng em đã đợi ở đây là ba ngày rồi.

Hôm đó tôi điền được trên hai chục tờ đơn. Ngày hôm sau lại có thêm nhiều trẻ em tới, đem thêm nhiều tờ giấy. Mãi cho tới lúc đó tôi mới nhận thức được con số kinh hoàng về số trẻ lai bị bỏ rơi ở thành phố tôi ở. Mỗi sáng, khi nhỏm dậy, tôi nhìn thấy ít nhất khoảng mười khuôn mặt nhú ra từ đằng sau hàng kẽm gai, nhìn săm soi vào nhà. Tất cả đều lộ vẻ lo sợ, ngập ngừng, nhưng đầy hy vọng và tin cậy. Tất cả đều mong được sờ vào tôi, để đích thân cảm nhận được cái hiện thực đầy ý nghĩa về những người Mỹ mà tôi đã tiếp xúc. Đối với hầu hết những đứa trẻ này, chuyện xẩy ra cho gia đình tôi là giấc mơ mà chúng khao khát cho bản thân được sống vào một ngày nào đó trong tương lai.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:33 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi sáu

Nha Trang ngày 21, tháng ba, năm 1985

Điện tín của Jimmy tới hôm thứ tư, ngày 21, tháng ba, năm 1985, nội dung như sau:

“Cái list ra sáng nay tên nhà mình đứng hàng đầu. Ngày đi Mỹ là thứ tư, 28 tháng ba. Con về thăm ông ngoại. Biểu anh Kiên vô thế con.

Thân yêu,

Jimmy.

Tái bút,

Anh Kiên, tất cả giấy tờ anh lo xong chưa?”

Câu cuối cùng làm u ám cái tin tức đầy phấn khởi mà bức điện tín mang lại, cản không cho tôi nhẩy cẫng lên vì vui. Đã hơn hai tháng rưỡi rồi mà vẫn không lấy được chữ ký của sở Nhà Đất, xác nhận đã giải tỏa căn nhà của mẹ tôi. Tất cả những viên chức mà tôi đã gặp trong cái văn phòng ấy đều gạt đơn của tôi sang một bên mỗi khi họ trông thấy tên của ông bác tôi trên chứng từ chủ đất. Cái trường hợp nhà một chủ, đất một chủ quá rắc rối nên chẳng có ma nào thèm xử lý, mặc dầu mỗi lần đến gặp họ, tôi đều mang theo thuốc lá đắt tiền, hoặc trà sen để làm “quà tặng” cho họ

Mối liên hệ giữa bà bác của tôi và mẹ tôi ngày càng tệ mạt. Hai người cãi nhau gần như cơm bữa với những la lối, năn nỉ và hăm dọa của mẹ tôi. Cuối cùng, đã tuyệt vọng, mẹ tôi đành đề nghị tăng không cái nhà cho bà chị và ông anh rể để đổi lại chữ ký của họ trong giấy tờ giải tỏa. Tuy nhiên, cả hai bác tôi đều sợ là họ bị đóng cái loại thuế thừa kế gia tài nên họ không chấp nhận ngay cả ý kiến đó, mặc cho mẹ tôi khóc hết nước mắt. Bác trai tôi cho rằng một khi gia đình tôi bỏ rơi căn nhà thì chuyện dĩ nhiên nó sẽ trở thành tài sản của bác, vì bác là chủ miếng đất. Nhất cử nhất động của bác có thể khiến cho nhà nước để ý, biết đâu có thể gây thiệt hại cho gia đình bác.

- Đừng có chạy loạn lên, mày làm cho tao chóng cả mặt!

Mẹ tôi quát em bé Ti trong khi hai người đi xuyên qua khu vườn. Tiếng ồn ào của xoong nồi và mùi thơm nồng nực của chả cá bay tỏa khiến tôi đứng bật dậy. Mẹ tôi ì ạch bước vào bếp, lên tiếng chửi đổng vu vơ. Hai cái thúng nặng trĩu đồ đè hai đầu đòn gánh hằn xuống vai mẹ tôi, đau đớn. Bà hạ cái cái gánh nặng xuống sàn, ngồi phịch xuống ngay bên cạnh, cầm nón quạt phành phạch. Mồ hôi ướt đẫm từng mảng lớn trên áo bà, nhất là ở hai bên nách. Bé Ti đứng ở ngay lối đi, tay ôm tô rau sống vơi một nửa. Như thường lệ, trông em gái tôi như người đang trong cơn mộng du.

Tôi ngồi xuống cạnh mẹ, hỏi:

- Hôm nay bán tệ lắm hả mẹ?

Mẹ tôi đáp:

- Quá tệ! Cả một dẫy đầy nhóc hàng cháo tranh dành với nhau. Có thử cho không cũng chẳng ai thèm!

Tôi giơ cái điện tín của Jimmy ra. Mẹ tôi nhìn sững, mắt sáng lên. Bà quơ cánh tay tôi, ôm cứng, reo vang lên như đứa trẻ sung sướng. Đoạn, cả hai mẹ con tôi đều nhẩy cẫng lên trong khi mẹ tôi hân hoan vẫy vẫy bức điện tín cao quá đầu bà. Bé Ti cũng hùa theo chúng tôi, dù nó chẳng biết lý do nào đã khiến cho mẹ con chúng tôi mừng đến phát điên lên như vậy.

Khi chúng tôi ngừng lại để thở, tôi nói:

- Mẹ ơi! Con phải ra đi đêm nay. Con muốn bắt kịp chuyến tầu nửa đêm đi Sài Gòn. Sáng sớm mai Jimmy sẽ về tới nhà.

Mẹ tôi gật đầu đồng ý.

Tôi tiếp:

- Con cần chút đỉnh tiền để mua vé. Và mẹ phải cố lo cho xong cái vụ rắc rối về giấy tờ của căn nhà. Không có giấy tờ đó, mẹ biết đấy, chúng ta không rời bỏ khỏi cái đất này.

Niềm vui biến mất khỏi gương mặt mẹ tôi nhanh y như lúc nó tới. Bà hoàn lại cho tôi bức điện tín, lẳng lặng cầm nón lên, bước ra ngoài.

Tôi hỏi với:

- Mẹ đi đâu đấy?

Không quay lại, mẹ tôi nói to:

- Mẹ kiếm tiền cho con đi.

- Kiếm tiền? Bằng cách nào hả mẹ?

- Chưa biết nữa. Con khỏi phải lo. Vào chơi với ông ngoại đi.

Ông tôi ngồi trên cái giường lót bằng giấy báo trong phòng ông. Bên cạnh là cái giỏ đựng quần áo của bà tôi. Lặng lẽ, ông tôi lật những chiếc áo dài, rồi xếp ngay ngắn, có lần có lượt ở trước mặt. Hai mắt ông nhắm lại, những ngón tay tật nguyền vì phong thấp cứ vuốt mãi lên những đường viền, những mối nối của lớp vải đã phai mầu. Thỉnh thoảng ông tôi lại ấp cái áo lên mặt, hít vào thật sâu như là muốn chút mùi hương còn vương lại trong áo bà tôi có thể thấm sâu vào tận đáy phổi của người. Đôi môi ông hơi mấp máy. Trong cái yên tĩnh của buổi chiều tà, tiếng thì thầm của ông lan trong căn phòng nghe như tiếng gió rì rào, nhẹ nhàng cất lên những lời âu yếm với người vợ đã khuất. Cung cách đặc biệt này đã trở thành một nghi lễ đặc biệt của ông tôi kể từ ngày bà tôi qua đời. Đôi khi, cái cảm giác dường như bà tôi vẫn còn lẩn khuất đâu đây trong căn phòng với ông tôi khiến tụi tôi phát khiếp. Tôi gọi to, hy vọng tiếng nói của tôi xua tan được vẻ u ám của căn phòng:

- Ông ngoại ơi!

Ông nhìn lên. Nắng trưa oi ả xuyên qua mảng tường trống tuôn vào phòng, đậu lên mái tóc ông và trên sàn xi măng, hừng hực như hơi bốc lên từ nồi cháo nóng của mẹ tôi. Làn gió nóng bức lùa tôi lại gần ông hơn. Trông thấy tôi, ông nhếch môi cười, vỗ nhẹ tay lên sàn nhà ngay bên cạnh, bảo:

- Lại đây, lại ngồi gần với ngoại nè.

Tôi rời khung cửa lớn, lại gần và ngồi xuống cạnh ông, nói:

- Ông ngoại ơi, tối nay cháu vào Sài Gòn.

Ông ngoại tôi gật đầu:

- Ngoại biết, cháu à. Hồi nãy mẹ con cháu nói chuyện, ngoại có nghe.

Rồi ông quay lại sự chú tâm trở về với sấp quần áo. Đôi mắt ông trầm ngâm, những ngón tay mò mẫm trên chiếc áo dài nhung đen đơn giản, có hàng cúc bạc lớn và cái cổ cao theo truyền thống. Một vệt ố bẩn dài làm đổi mầu kéo từ vai cho đến phía dưới bụng. Nơi khuỷu tay đã mòn, lớp vải lót bên trong hiện lên qua lớp nhung rách

Ông tôi dịu dàng nhỏ nhẹ:

- Cháu có biết đây là cái áo mà bà ngoại thích nhất không? Bà mặc trong mọi dịp quan trọng. Đi sắm đồ, đi ăn tối tại nhà hàng Le Colonial, đi ngày ông lên chức đại úy, đám tang cậu của cháu... bà luôn luôn mặc chiếc áo này.

Tôi hỏi:

- Tại sao nó bị ố hả ông?

Ông tôi bật lên tiếng cười nho nhỏ:

- Tại ông đó. Ngày ông làm hư áo của bà, bà giận điên lên với ông.

- Cái gì mà làm thành một vệt ố lớn thế, bộ ông ngoại đổ axít lên hả ông?

Đang cười khúc khích ông phá lên cười sằng sặc. Với kỷ niệm xưa tràn ngập khuôn mặt, ông tôi nói:

- Chuyện xẩy ra lâu lắm rồi, chắc bà chẳng muốn kể cho cháu nghe đâu.

Tôi nài nỉ:

- Ông ngoại ơi! Ông giấu làm gì, kể đi mà. Cháu sắp đi xa rồi. Cho cháu chút gì để làm kỷ niệm về ông bà ở nơi xứ lạ quê người, đi ông!

Ông tôi cười:

- Ờ, cháu nói đúng quá. Ông cháu mình chả còn bao nhiêu thời gian với nhau. Thôi thì hãy nói chuyện vui về bà. Để ông sẽ kể đầu đuôi cho cháu nghe. Chuyện bắt đầu vào một đêm trăng tròn, đẹp, ông bà vừa đi ăn tối trở về. Bà ngoại bỗng nổi cơn ghen bậy. Cháu chưa thấy bà ngoại nổi cơn ghen đâu, còn hơn là sư tử Hà Đông. Mà càng ghen tuông càng dễ khiến cho người ta làm những điều khờ dại.

Tôi cắt ngang:

- Thế lúc đó cháu ở đâu?

- Lúc đó cháu mới chỉ là một thằng nhãi con, hai, ba tuổi gì đó. Mẹ cháu thì vừa mới tân trang xong căn biệt thự. Tối hôm đó, ông muốn đi ra biển hóng tí gió mát cho tiêu cơm. Chẳng hiểu sao bà lại không tin, bà lén đi theo cách ba chục thước để dò thám. Ông biết là bà theo dõi ông, nhưng ông làm bộ như không biết. Ông đi lạch bạch như con chim cánh cụt trên bãi cát để cho bả thấy mắc cở mà bỏ về, nhưng bà vẫn theo ông sát nút. Cuối cùng, ông đứng lại, vươn vai nói nói thật to để bà có thể nghe được: “Ui da, mắc tiểu quá, đái ở đâu được bây giờ nhỉ”. Ông nghe tiếng bà cháu nhẩy vào một bụi thông. Chờ một lát, ông quay ngược lại bước thẳng tới cái bụi. Cái đầu tóc bả đen thùi lùi, ông còn thấy rõ, nhưng làm bộ đui, ông kéo khóa quần, nhắm ngay tóc bà mà tiểu xuống. Bà ngồi lặng thinh không nhúc nhích, ngay cả đến một cái nhích bắp thịt, nhưng ông có thể nghe thấy lời rủa thầm trong nhịp thở của bà. Rồi ông huýt sáo, chỉnh tề lại, lẩm bẩm trước khi đi: “Đây là hiệp một. Chắc sắp phải xả thêm hiệp hai”. Vẫn không có một lời nào. Bà cháu ngồi tỉnh queo, chờ ông quấn gói ra khỏi tầm mắt.

Tôi phá lên cười. Ông tôi vỗ nhẹ lên vai tôi, nheo mắt trầm ngâm:

- Tốt lắm, cứ cười đi. Cháu còn nhỏ mà ít cười quá. Ông mong điều đó sớm được thay đổi.

Rồi ông nói tiếp:

- Khi bà cháu về tới nhà thì ông và mẹ cháu đang ngồi trong phòng khách. Hai cha con cố làm ra vẻ tự nhiên, nhưng chỉ được một giây, khi nhìn thấy bà ướt mem và giận như điên, ông cười tới nỗi ngã bổ chửng ra khỏi ghế, còn mẹ cháu vì nín cười thành ra bị nấc cục suốt buổi tối. Cái áo hư hoàn toàn. Nước tiểu của ông mạnh đến nỗi nó ăn thấu qua lớp nhung như là chất a-xit. Bả tức quá, không thèm đếm xỉa gì tới ông suốt một tuần lễ.

Tôi phát biểu ý kiến:

- Hồi nào tới giờ cháu chưa hề thấy ông kể chuyện vui như vậy.

Ông tôi với tay ghì lấy tôi

- Ông biết thế, cháu à. Ông lấy làm tiếc vì chúng ta đã xa cách nhau quá. Ông cũng lấy làm tiếc rằng thay vì có một người ông vui vẻ, đùa cợt, cháu chỉ có một người ông ngoại lặng lẽ, tật nguyền. Và ông cũng hối hận rằng đã giữ anh em cháu ở đây, trên cái mảnh đất tồi tàn khốn khổ này, nơi không thừa nhận các cháu. Đời đã xẩy ra quá nhiều cay đắng, ông cũng không hiểu mọi sự bắt đầu bị hư từ lúc nào. Ông chỉ còn biết cầu sao, đối với anh em cháu, đời cũng chưa đến nỗi quá trễ, để tụi cháu có một đời sống bình thản và hạnh phúc. Dù là các cháu ở đâu, nên nhớ rằng cuộc đời rất ngắn ngủi. Cháu phải tận hưởng mỗi giây phút trước khi nó trôi đi. Tha lỗi cho ông về những quyết định ngu xuẩn của ông. Ông đã quá ích kỷ và ương ngạnh. Tha lỗi cho mẹ cháu đã đánh mất tuổi thơ của các cháu. Mẹ cháu đã hy sinh tất cả đời mình cho mấy anh em cháu. Còn về bác gái cháu và cái gia đình ấy...

Ông tôi thở dài, rồi nói tiếp:

- Ông không biết cháu có thể tha thứ cho họ được hay không, nhưng ít nhất, cháu nên cố gắng giải thoát bản thân mình. Đừng để hận thù này tàn phá đời cháu thêm. Nếu cháu muốn đạt được hạnh phúc, đừng tìm về quá khứ, mà nên sống với hiện tại. Có nghĩa lý gì nếu cứ ám ảnh mãi về chuyện đã xẩy ra mà cháu cũng không thể thay đổi được nữa? Hãy biết sống và vui lên. Một ngày kia cháu sẽ có gia đình riêng của cháu, vậy hãy nhớ lời khuyên của ông hôm nay.

Tôi nói qua vai ông:

- Ông ơi, sau khi chúng cháu đi rồi, ông sẽ ra sao?

Ông tôi gật đầu:

- Ông sẽ không sao đâu, đừng lo cho ông. Ông còn có kỷ niệm của bà ở đây, luôn luôn bên ông.

Tôi ghì ông lần cuối. Ông hôn lên hai má tôi. Bao nhiêu năm đã qua mà hơi thở của ông vẫn còn ngát mùi kẹo Jolly Rancher. Bỗng nhiên tôi cảm thấy bé lại trong cách tay ông, như cái ngày tôi bước vào tuổi lên tám.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:34 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi bẩy

Đêm về trên thành phố. Hàng cây đổ bóng xuống mặt đường, tiếng chim ríu rít trên cành và tiếng động cơ nổ lạch bạch ở cuối phố, tất cả đều phai mờ đi khi hoàng hôn xuống. Chung quanh cánh đồng lúa, tiếng dế rền rĩ và tiếng ếch kêu hòa lẫn với nhau thành một bản nhạc buồn tênh. Con đường dẫn tới nhà Kim vừa xa vừa ngoằn ngoèo. Không có đèn đường, tất cả chìm trong màn đêm mờ mịt, tôi mò mẫn trên con đường đầy mấp mô.

Cái nóng đầu mùa hạ vẫn còn hừng hực khiến cho đất dưới chân tôi nóng như ở trong lò. Mồ hôi dầu nhỏ giọt xuống trán tôi làm tôi thấy sót cả hai mắt. Cũng không khó khăn lắm, tôi tìm thấy nhà Kim ở bên kia một con suối cạn. Sương lạnh bốc hơi từ con suối điều hòa cái nóng nhức nhối. Tôi khoan khoái hít thở bầu không khí mát mẻ từ đó tỏa ra. Xa xa, mọi phòng trong nhà của nàng đều chiếu ra ánh sáng của đèn huỳnh quang, trong khi cổng vòm bên ngoài thì chìm trong bóng tối. Nhà hàng xóm ở gần nhất cũng phải cách xa cỡ ba chục thước, cách biệt với nhà nàng bằng một khu ruộng lúa hoang.

Cũng chẳng mất nhiều thời gian tôi đã tìm được Kim. Qua một lùm dây leo mọc um tùm và bụi cây gai bọc quanh sân sau nhà nàng, tôi trông thấy nàng đứng bên bờ giếng. Thân thể nàng ướt rượt từ đầu đến chân. Làn ánh sáng mờ mờ hắt ra từ trong bếp tỏa trên mình nàng một thứ mầu đồng lấp lánh. Bộ quần áo của nàng dính sát vào thân mình nom như một làn da thứ hai. Cứ mỗi lần nàng xối một gầu nước lên người tôi lại ngửi thấy mùi hương của lá xả tươi mát thoang thoảng trong màn đêm. Cánh cửa bếp đang mở và tôi có thể nhìn thấy cái bóng cao cao của mẹ nàng đang chập chờn trên bếp lò.

Tôi cẩn thận leo qua cái hàng rào lởm chởm, cố tránh gây tiếng động và cầu mong sự hiện diện của mình không làm cho nàng giật mình. Rồi núp mình trong bóng tối, sau phía bụi tre, tôi thì thào gọi tên nàng, để cho gió mang cái đơn âm ấy đến tai nàng.

Mãi đến lần thứ năm, Kim mới ngừng tắm và nhìn chăm chăm vào bóng đêm, phía có tôi đứng. Với hai cánh tay co lên ngực, nàng nhích lại gần tôi và lớn tiếng:

- Ai đó?

Tôi chui ra từ trong bụi cây. Có tiếng mẹ nàng hỏi vọng ra:

- Có chuyện gì thế, Kim?

Tôi nói với Kim:

- Đừng sợ. Anh đây, Kiên đây mà.

Dưới ánh sáng mờ mờ, tôi thấy Kim ôm lấy ngực, hốt hoảng. Mấy giây trôi qua, rồi nàng nói với mẹ:

- Không có gì hết, mẹ. Chỉ là một con sóc chạy ngang qua.

Rồi nàng thì thào với tôi:

- Kiên, em không biết là anh tới gặp em tối nay.

- Anh có chuyện cần nói với em.

- Vậy chờ em vài phút để thay quần áo đã. Em sẽ gặp anh ở ngoài con suối nhé.

Tôi lắc đầu:

- Không, anh đã bị trễ rồi. Tối nay anh phải đi Sài Gòn, rồi đi Mỹ. Anh chỉ tới để chào từ biệt em thôi.

Nàng bước tới thêm vài bước, và tôi thò tay ra, kéo nàng về phía tôi. Chúng tôi lẩn vào sâu hơn trong ruộng lúa, rời xa chỗ mẹ của nàng. Thân hình còn ướt đẫm của nàng dướn cong lên trong vòng ôm nóng hổi của tôi. Đã ôm Kim trong vòng tay bao nhiêu lần, tôi không thể quên được cái sự mềm mại của thân thể nàng. Tim tôi đập dồn dập trong lồng ngực như muốn nổ tung ra. Cái ý nghĩ chỉ gặp nàng một lần cuối cùng đã mang thêm can đảm cho tôi để làm cái điều mà tôi chưa từng dám làm. Tôi chộp tay lên ngực nàng. Kim kêu khe khẽ lên một tiếng, nhưng nàng không chống cự. Tôi khỏa lấp miệng nàng bằng những nụ hôn, vẫn giữ chặt lấy thân hình của nàng trong khi cơ thể tôi bừng lên vì bị kích thích, thèm muốn dữ dội ân ái với nàng.

Bên tai nàng, tôi thì thầm những câu không có mạch lạc:

- Anh muốn em, thân mình của em. Mọi thứ về em đều đẹp tuyệt vời. Anh muốn ngắm chỉ riêng em thôi, không quần áo gì cả...

Kim trả lời:

- Em yêu anh. Anh có biết là em yêu anh ngay từ cái hôm đầu chúng mình gặp nhau trên bãi biển không?

Tôi cởi khuy áo sơ mi của nàng, lột nó ra khỏi thân mình nàng. Nàng run rẩy như một con chim sẻ bị mắc bẫy. Đôi mắt nàng long lanh lệ. Tôi không hiểu tại sao nàng lại khóc, dù vậy, tôi cũng không muốn tìm hiểu để làm gì. Một ý nghĩ cứ vang dội mãi trong đầu tôi, đó là: tôi phải trả thù cho mẹ tôi, và cho chính tôi. Sự trả thù lúc nào cũng phải kèm theo cái giá của nó. Tôi tự hỏi cái giá của tôi sẽ là gì? Tôi đặt tay lên cái quần nylon của nàng rồi kéo tuột nó rồi quăng ra đất, cạnh chiếc sơ mi của nàng. Say sưa với quyền năng mới của mình, tôi cũng cởi quần áo tôi ra, nhìn thân thể trần truồng của nàng run rẩy. Kim nói:

- Em yêu anh. Ngay cả nếu như em không còn gặp anh nữa, thì em vẫn mãi mãi yêu anh, Kiên ạ.

Tôi lấy tay che miệng nàng, bảo nàng:

- Đừng nói nữa.

Chúng tôi nằm với nhau trên mặt cỏ, Và một cách chậm rãi, tôi đã vào sâu trong thân thể của nàng. Ban đầu hơi khó một chút, nhưng rồi thân thể của chúng tôi đã nhập lại làm một. Nàng càng lúc càng run rẩy hơn và trong một thoáng, Tôi bỗng thấy sợ hãi. Hình ảnh cha nàng, tên Trần, và của đám công an cộng sản tạm thời biến đi đâu trong đầu óc của tôi.

- Anh có làm em đau không, Kim?

Nàng không trả lời. Thay vào đó, nàng càng thổn thức hơn. Cảm thấy mình tội lỗi quá mức, tôi năn nỉ:

- Anh xin em, cho anh biết là anh có làm em đau đớn không?

Nàng trả lời:

- Không. Không đau. Nhưng em sợ.

- Sợ cái gì?

Mấy sợi cỏ hoang dính bết lên mái tóc còn ướt của Kim. Nhìn xuống mặt nàng, tôi có cảm giác như đất đai nuốt chửng nàng vào lòng. Nàng quay mặt đi, thì thầm:

- Em sợ là anh cũng mắc phải cái lỗi lầm y như cha của anh đã làm. Nhìn chúng mình coi. Anh sẽ sớm rời khỏi cái xứ sở này. Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu em mang thai? Rồi con chúng mình sẽ ra sao? Sẽ lại là thứ thân phận dư thừa ngay cả trước khi nó được sinh ra và cha nó mang hai dòng máu.

Những lời của nàng đâm nhói vào tim tôi, xuyên thẳng vào nỗi thống khổ mà tôi đã vùi sâu trong tận đáy tâm hồn. Tôi co người lại và rời khỏi nàng và quờ tay tìm mớ quần áo của tôi. Kim vội túm lấy tay tôi, mu bàn tay kia quệt hai hàng nước mắt:

- Em xin anh. Đừng giận mà rời xa em. Em yêu anh. Anh muốn làm gì em thì làm nhưng xin anh hãy minh bạch với chính anh rằng tai sao anh lại làm như thế.

Tôi ngắt lời nàng:

- Thôi đừng nói nữa. Sao lúc nào cô cũng phải tỏ ra là mình giỏi hơn người vậy? Cô im mồm đi, cho tôi miễn mấy cái chuyện tình cảm của cô có được không? Cô muốn biết tại sao tôi đã làm như thế này à? Hãy thử nhìn lại mình coi. Bộ tôi với cô hợp nhau lắm hay sao? Cô thì với cái giọng nói kỳ cục sặc mùi cộng sản làm cho tôi muốn phát ói lên ngay từ lúc đầu tiên mới gặp nhau. Tôi thù cô, và thù tất cả những gì mà cô tiêu biểu. Tôi thù luôn cả cha cô với cái cung cách mà ông ta đối xử với mẹ tôi. Tôi thù tất cả bọn người phe cô, đã cướp đi tất cả những gì tôi có từ trước đến nay. Nếu tôi có thể hại một người trong đám bọn cô, tôi sẽ rời cái chốn này, thỏa mãn

Nàng quơ bộ quần áo ở trước mặt nàng và nức nở:

- Đừng có đi! Đấy không phải là những lý do mà anh tới đây tối nay. Hãy nói là anh tới đây vì anh yêu em. Anh đã hứa là không bao giờ làm khổ em mà, anh có nhớ không?

Tôi bỏ đi.

Tiếng rền rĩ của nàng dâng lên nhói buốt trong bóng đêm, một thứ âm thanh xa lạ giữa những tiếng dế nỉ non:

- Hãy nói với em như thế một lần thôi trước khi anh xa em mãi mãi.

Tôi đứng lại trên lối mòn, choáng váng vì những ý tưởng mâu thuẫn chạy qua đầu. Môi dưới của tôi run bần bật đến nỗi tôi cất lên lời một cách khó khăn:

- Anh không nói như thế được, Kim. Anh không thể yêu em được. Anh không biết cách yêu đương.

Rồi tôi lẻn trốn khỏi cơ ngơi của nhà nàng như một tên ăn trộm, bịt hai tai lại để khỏi nghe những lời khóc than của nàng.

Khi tôi về tới nhà, cả xóm đã chìm sâu trong giấc ngủ. Mặt trăng mầu bạc trên cao nom như một mẩu móng tay treo giữa không gian mênh mông. Mẹ tôi ngồi bên giường của em bé Ti chờ tôi. Bà lùa tay vào mái tóc em tôi dịu dàng ru lên một bài nó ưa thích. Ngọn nến cháy leo lét trong một cái khay để gần đó. Ánh sáng phản chiếu lên tường tạo nên một hoạt cảnh với những hình ảnh méo mó, chập chờn. Mặc dù đã trang điểm đầy đủ nom mẹ tôi vẫn phờ phạc, mệt mỏi và già nua. Đôi mắt của bà trũng xuống, bao quanh bởi bờ mi nhăn nheo và ủ rũ. Làn da mặt của bà xệ xuống, héo hắt như một thằng hề. Bà hỏi tôi:

- Con ở đâu về thế?

Tôi tảng lờ câu hỏi của bà, lục lọi trong phòng để tìm cái ba lô, rồi hỏi:

- Mấy giờ rồi, mẹ?

- Mười một giờ. Con đã đi đâu nãy giờ vậy?

- Con tạt qua chào từ biệt mấy người bạn. Mẹ ơi, mẹ đã kiếm được tiền mua vé xe lửa cho con chưa?

Bà nhún vai:

- Rồi.

Tôi nói:

- Vậy tuyệt. Con sẽ duyệt lại với mẹ mớ hồ sơ. Con sẽ mang đi hết nhưng để lại cho mẹ một bản sao về giấy tờ nhà cửa. Mẹ phải cố làm sao để bắt họ ký ở đây, trong trường hợp con không xin được sự chấp thuận với mớ của con ở Sài Gòn. Phải không, mẹ?

- Mẹ sẽ ráng. Mọi thứ ở cả trong buồng mẹ ấy.

- À này, làm thế nào mà mẹ kiếm được tiền vậy?

Bà nhìn thẳng vào tôi:

- Chuyện làm thế nào mẹ kiếm được, chẳng có gì là quan trọng. Con không cần biết, hiểu chưa?

Tôi bước vào căn buồng bà, mang theo ngọn nến. Sau khi bán đi cái mái bếp, nước đã gỉ vào trong phòng của mẹ tôi mỗi khi trời mưa. Trên tường, những tấm ảnh đen trắng chụp gia đình tôi được bọc bằng giấy bóng kính trắng, vài tấm chụp mẹ tôi với tôi, những tấm khác chụp mẹ tôi với Jimmy, tất cả đã hư hại vì hơi ẩm thường xuyên. Nước ảnh đã bong lên, rách ra và vàng ố ở các góc như tấm ảnh đã cũ kỹ từ năm chục năm. Trên mặt sàn, nơi trước đây kê cái bàn phấn của mẹ tôi, hồ sơ của gia đình tôi được gom thành từng chồng, xếp thành hàng, cao tới hơn nửa thước và dài trên một thước. Ròng rã đã ba năm theo đuổi tấm hộ chiếu, kết quả mang lại là cái núi hồ sơ đó.

Mẹ tôi đi theo vào. Bà ngồi dựa lưng vào tường, nhìn tôi duyệt từng hồ sơ. Tới một sấp dầy cộm được cất dấu, gồm toàn giấy biên nhận của bệnh viện, buộc chằng bằng một sợi dây thung, tôi cầm lên giơ cho mẹ tôi và hỏi:

- Những cái gì thế này, hả mẹ?

Bà trả lời thản nhiên:

- Cái đó của tao. Mồi lần tao bán máu thì bệnh viện lại cấp cho một cái giấy biên nhận.

Tôi bật lên một tiếng than nhỏ, rồi nói:

- Có tới cả năm chục cái biên nhận ở đây. Sao mẹ lại làm thế? Sao mẹ không cho chúng con hay.

Bà gạt đi và nói:

- Ờ, thôi bỏ qua đi. Mẹ phải cho con, em trai con và em gái con đi học. Mỗi học kỳ, con cần nào là sách vở, quần áo, giầy dép, đủ mọi thứ. Trong mười năm liền chẳng có công ăn việc làm chắc chắn, chẳng có lợi tức, mẹ còn có cách nào lựa chọn khác đâu? Chỉ vì không muốn cho con phải lo lắng nên chẳng bao giờ mẹ nói ra cho con biết.

Tôi thở một hơi thật dài, lòng ngập tràn mặc cảm tội lỗi. Mẹ tôi kéo cánh tay tôi. Khuôn mặt bà giãn ra, những nếp nhăn quanh đôi mắt nhướng lên khi bà mỉm cười. Bà nói dịu dàng:

- Nghe mẹ nói này, cưng. Con biết là việc học của con rất quan trọng đối với mẹ. Mẹ chẳng có gì cho con, ngoại trừ chỉ có một con đường sống tốt đẹp hơn cho cuộc đời con. Mà nhìn lại gia đình mình thử xem, đâu có đến nỗi nào! Con đã học hành giỏi giang ở trường. Con còn biết tìm tòi cách để mang cả gia đình chúng ta thoát khỏi cái đời sống khốn khổ này. Ngoài ra, con rất có hiếu với mẹ. Mẹ đoán chắc với con là kể từ nay, cuộc đời chúng ta sẽ sáng sủa hơn nhiều.

Tôi nói một cách chua chát:

- Có thể mình không ra khỏi đây được, mẹ ơi. Nếu cái lũ khốn không chịu ký những giấy tờ này, chúng ta sẽ kẹt mãi mãi ở đây.

Bà để một ngón tay lên môi:

- Đừng có nói như vậy. Hãy lạc quan lên và Trời Phật sẽ phù hộ cho mình qua được hết.

Tôi đứng dậy, nhét mớ hồ sơ vào trong ba lô. Đã tới lúc tôi phải nó lời từ biệt với bà. Tôi đứng một cách ngượng nghịu trong phòng để tìm lời lẽ. Bà hỏi tôi:

- Con sẵn sàng chưa?

- Rồi, mẹ.

Bà trao cho tôi ba tờ giấy một trăm đồng. Một ý tưởng thoáng qua óc, tôi chộp lấy tay bà, kéo hai tay áo lên để lộ ra những đường gân máu. Dưới ánh sáng lung linh của ngọn nến, tôi thấy có một miếng băng gạc quấn quanh ống tay phải của bà. Chung quanh, máu đã tụ bầm tím. Tôi kêu lên:

- Thôi rồi, mẹ mới bán máu của mẹ hồi chiều nay phải không?

- Thì như mẹ nói, có gì quan trọng đâu. Đi ngay cho kịp chuyến xe lửa.

Tôi ôm mẹ tôi và ghì chặt lấy bà. Thân mình bà quá gầy guộc trong vòng tay của tôi. Bà nói:

- Cầm tiền đi.

Tôi nhón lấy hai tờ và trao lại cho bà tờ cuối cùng:

- Con chỉ cần từng này thôi. Ngày mai mẹ phải đi mua thứ gì hay hay cho mẹ, hay là mẹ nhuộm tóc cho đẹp trước khi đi Mỹ.

Bà gật đầu, nói:

- Được rồi.

- Vậy con chào mẹ. Vài hôm nữa mình sẽ gặp nhau.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:34 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi tám


Tôi bước qua đường phố vắng ngắt vào lúc nửa đêm. Từ sau những cụm mây tím dầy, vài tia sáng mờ ảo từ mặt trăng le lói xuyên qua vùng bóng tối. Xa xa, có tiếng xe lửa đang xùng xục giảm dần tốc độ. Ga xe lửa nằm ở ngay bên bờ sông nước đen xì xì vì những cống rãnh của khu dân cư gần đó tuôn ra. Một làn khói phun mờ mịt khi cái toa xe từ từ tiến lại, bốc lên một mùi khó chịu của nhiên liệu.

Ngồi gọn lỏn trên một hòn đá bự là một bà già ngồi ôm một bình trà và một cái chén uống trà bằng men sứ. Sau lưng bà ta, cái cửa kính nhà ga phản chiếu hình bóng tôi dưới ánh trăng chênh chếch. Tôi vuốt mái tóc nhờn nhờn, sửa sang một chút để tạo một vẻ chỉnh tề, coi được. Bà già ngó tôi bằng cặp mắt toét, hấp him, rồi thận trọng ngó xuống bình trà, hỏi:

- Muốn uống trà không, năm cắc một chung đấy.

Rồi với vẻ nhiệt tình, bà tiếp:

- Nhưng với con thì qua không lấy tiền đâu.

Tôi lắc đầu từ chối lời mời, nhìn qua vai bà để tìm người bán vé. Phòng vé vắng tanh, không có lấy một bóng người nào, ngoại trừ người cảnh sát ngồi gà gật ngủ ở một góc. Nơi tay hắn, cái gậy tuần lập lòe trong bóng tối.

Bà già hỏi:

- Con đi đâu?

Tôi đáp:

- Con đi Sài Gòn. Mua vé ở đâu vậy?

Bà già lắc đầu:

- Giờ này thì còn ai ở đây đâu mà bán vé!

Nghĩ đến cảnh phải ở lại Nha Trang thêm một ngày, tôi phát hoảng:

- Bà có biết cách nào để con có thể đi Sài Gòn tối nay không?

Cây cột đèn thả ánh sáng lập lòe vào khuôn mặt đầy vết nhăn của bà lão, bà nhìn tôi, hỏi:

- Con có biết nhẩy tầu không?

Tôi lắc đầu:

- Dạ không.

Bà cụ giải thích:

- Dễ mà. Chờ cho xe lửa bắt đầu chuyển bánh, nhảy lên toa cuối cùng. Qua sẽ chỉ cho con chỗ núp để không bị tóm cổ. Khi tầu tới Sài Gòn, chờ cho khi nào nó tới gần ga, chạy chầm chậm thì nhẩy xuống. Cẩn thận đừng để gẫy chân là được rồi.

Tôi thốt lên:

- Vậy nguy hiểm quá, còn có cách nào để con kiếm được cái vé không hả bà?

- Nếu làm đúng theo lời qua chỉ, con sẽ bình an. Hơn nửa số hành khách là dân đi lậu. Chỉ cần giữ được bình tĩnh và hòa lẫn vào đám đông là thoát rồi.

Tôi thấy không còn con đường nào khác, đành lên tiếng:

- Thôi được, con rất cảm ơn bà.

Bà cụ đưa ra một ly trà đen, cái ly cáu bẩn với một chất gì đen kịt như những cái móng tay của bà, và hỏi:

- Con muốn uống không? Qua mời mà.

Tôi lễ phép lắc đầu. Ở trước cái bảng stop, một đám đông đang đứng túm tụm chờ xe lửa khởi hành. Tôi chào từ biệt bà cụ. Bà thì thầm:

- Qua biết con là ai. Cám ơn con đã giúp thằng cháu qua điền đơn.

Tôi quay lại và nhìn vào mặt bà:

- Cháu bà là ai vậy?

Bà cụ vừa nói vừa vẫy tay:

- Chẳng sao. Qua biết là tại sao con đi Sài Gòn. Ơn nghĩa của con làm cho chúng tôi, tôi không thể trả ơn được, nhưng tôi có thể cầu xin thần thánh phù hộ cho con đi bình an. Một ngày gần đây sẽ tới lượt thằng cháu tôi cũng sẽ đi trên chuyến xe lửa này, y như con vậy.

Chiếc đầu máy di chuyển trên đường rầy bóng ngời, ré lên inh ỏi. Viên công an đang ngủ, choàng dậy, ngó quanh. Tôi cẩn thận tránh hắn, bước ngược về phía bóng tối. Mười lăm phút sau, khi hành khách đã lên hết, tầu bắt đầu chuyển bánh. Vừa lúc nó lăn ngang qua tôi, tôi chộp lấy cái tay vịn nhỏ lòi ra ở thành phía sau toa cuối cùng rồi nhẩy tót lên, y hệt như đã được bà cụ chỉ dẫn. Gió thốc vào tóc tôi dữ dội. Tôi ép sát mình vào cái cửa thép lạnh lẽo và nhắm nghiền mắt lại.

Trong óc tôi, hình ảnh của Kim lại hiện ra thật là sống đông.. Mùi da thịt đàn bà của nàng còn như đọng trên ngón tay tôi, lòng tôi nổi lên những tình cảm rất là mâu thuẫn khi nghĩ về nàng. Tôi nhớ lại những giọt nước mắt nhỏ xuống khi ôm hôn tôi trong vòng tay, sự xúc động dâng lên bóp nghẹt trái tim tôi. Mặt tôi bừng bừng hổ thẹn. Bây giờ thì tôi hiểu được cái giá mà tôi phải trả về sự báo thù. Dù Kim có tha thứ cho tôi hay không, tôi cũng đã làm tan nát đời nàng. Cả về thể xác lẫn tinh thần. Tôi cũng chẳng hơn gì Lâm, hay cha của Kim, hay bất cứ một quân súc sinh nào tôi đã gặp trên đường đời. Tệ nhất là tôi đã phải sống với sự nhận thức ấy. Đó là cái giá mà tôi phải trả. Con tầu càng tiến sâu vào bóng tối, tôi càng nhận rõ khoảng cách giữa tôi và nàng tăng thêm.

Nửa giờ sau, tầu dừng lại ở ga kế, vừa đủ để hành khách kịp co duỗi chân cho bớt tê cứng, trước khi nó tiếp tục lên đường. Chuyền từ toa này qua toa khác, tôi phát hiện một toa phụ chở đầy nông phẩm. Ngay lối vào, hai người đàn bà nằm dựa vào nhau ngủ vùi. Tôi cẩn thận bước qua mình họ. Ôm chặt cái cặp trong tay, tôi lựa một bao gạo lớn, phẩy bụi, rồi nằm lăn xuống cái giường tạm thời, rung rinh theo nhịp xe, tôi mau chóng chìm vào giấc ngủ.

Cuộc viễn du chiếm thêm mười tiếng đồng hồ nữa để tới được Sài Gòn. Vừa nhìn thấy cảnh trí quen thuộc là tôi lao ra khỏi toa xe, hạ mình xuống bằng một bên hông. Xa xa, thoai thoải theo sườn đồi, thành phố nằm gọn trong vòng ôm của sông Sài Gòn, trông nhỏ xíu như cái đồ chơi của con nít. Nhà cửa xúm xít trong lòng chảo, kéo dài xuống sát tới mé sông. Những mái ngói đỏ ẩn hiện trong rừng cây thấp thoáng như những tia lửa giữa mặt trời. Tới ngã rẽ vào con đường bụi đỏ, tôi nhẩy phóc lên một chiếc xích lô về nhà cụ Hôm.

Năm ngày tiếp theo, tôi tới Sở Nhà Đất Trung Ương, tìm mọi cách để kiếm cho được cái chữ ký cuối cùng cho hồ sơ ra đi của chúng tôi. Mỗi lần tiếp xúc với một nhân viên nào đó, là tôi lại được ném cho một lời từ chối. Ngày qua ngày, bộ mặt của tôi xuất hiện tại phòng đợi trở thành nguồn cảm hứng cho sự trửng giỡn của mọi người, nhưng tôi quyết không bỏ cuộc. Tờ đơn nhầu nát trong tay tôi, ố bẩn vì chính mồ hôi của tôi và đã ngả vàng vì ánh mặt trời gay gắt chiếu vào. Mỗi chữ, mỗi dòng, nay đã trở thành một phần kỷ niệm trong ký ức của tôi.

Hai ngày trước lịch trình gia đình tôi lên máy bay, tôi nhận được điện tín của mẹ tôi, như sau:

“Ông ngoại đã mất đêm qua. Đừng trở về nữa vì mẹ và các em sắp lên đường đi Sài Gòn. Sẽ gặp con sớm. Thân yêu. Mẹ.”

Tôi không còn thì giờ để mà khóc ông. Còn cả đống việc tôi phải hoàn tất trước khi mẹ tôi tới. Trong một ngày, tôi lấy được vé máy bay, xong được vụ chích ngừa và khám tổng quát.

Tối hôm đó từ cửa sổ, tôi nhìn thấy mẹ tôi bước vào nhà trên lối đi tối tăm trơn trợt. Em Jimmy, em Bé Ti theo sau, mệt mỏi và lảo đảo vì cuộc hành trình dài dằng dặc. Trên những bức tường của nhà hàng xóm, bóng dáng gia đình tôi nhẩy múa như hình nộm được điều khiển bằng giây. Có những cánh hoa hồng rải rác trên sân ướt, tàn tạ bên khe đá và mảnh kính vỡ. Mùi từ cơ thể và đất bám trên quần áo của mọi người đã khiến cho tôi nhận ra ngay mẹ và các em tôi đi bằng xe lửa tới đây.

Tôi bật đèn ngoài sân, chờ mọi người bước vào. Cha mẹ dì Đặng lặng lẽ ngồi im lặng bên cái bàn chơi bài. Trước mặt họ là một bình trà nguội ngắt từ lâu, chẳng ai buồn rớ tới.

Mẹ tôi bước lên cửa, ánh sáng vàng rực kỳ bí từ trên trần tỏa ra trên mặt bà. Đôi mắt mẹ buồn thăm thẳm. Một vòng tang đen quấn quanh cánh tay mẹ tôi để nhớ tới người đã khuất. Mẹ tôi thẫn thờ giống y như hôm bà bị mất căn biệt thự. Trong cái nhìn đăm đăm, niềm thống khổ về những nỗi bất công của cuộc đời tràn ngập trên mặt bà.

Để phá sự yên lặng, tôi hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, chuyện xẩy ra thế nào?

Mẹ tôi trả lời:

- Mẹ cũng không biết nữa. Sáng hôm qua, khi ngủ dậy, mẹ thấy ông ngoại nằm trên giường, đã mất rồi. Chắc ông mất lúc nửa đêm. Có thể là bị nghẹn tim, hoặc có thể ông trút gánh nặng cho mình đi yên ổn.

Ông ngoại đáng thương của tôi! Đến lúc chết ông vẫn còn quan tâm đến chúng tôi.

Những dòng nước mắt lăn xuống má mẹ tôi, và ngay đó, tới phiên chính chúng tôi cùng khóc với mẹ.

Bỗng nhiên tôi nhớ tới con chó của Jimmy, bèn hỏi nó:

- Con Lu ra sao, Jimmy?

Jimmy trả lời:

- Tống Duy nhận nuôi. Nó cũng thích ở cái nhà mới lắm.

Tôi hỏi mẹ:

- Còn đám tang ông ngoại ra sao hả mẹ?

Mẹ tôi đáp:

- Gia đình bác sẽ sắp xếp đám tang. Cùng ngày đó, chúng ta lên đường sang Thái Lan.

Tôi nói:

- Chưa chắc chúng ta đi được, mẹ ơi. Con không xin được chữ ký. Trừ phi mẹ kiếm được ai đó ở Nha Trang chứng thực cho mẹ, con không thấy chúng ta có lối thoát nào khác.

Mẹ tôi lau nước mắt, hắng giọng. Sự mệt mỏi đã biến mất mà thay vào đó, xuất hiện một giọng nói cương quyết:

- Đừng lo, con. Chúng ta đã đi đến nước này, chỉ còn một cách là tiến tới. Chúng ta vẫn còn một ngày để chạy việc mà con.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:34 pm    Tiêu đề:


Chương bốn mươi chín

- Hãy giải thích trường hợp của anh thêm một lần nữa, thế mẹ anh là chủ căn nhà hả?

Tôi ngồi trên mép ghế, đối diện với Trưởng Ban Nhà Đất. Hắn ta đang cúi đầu kiểm tra tập hồ sơ của tôi. Cái bút chì trong tay hắn lướt một cách giận dữ. Phía bên ngoài hai cái cửa sổ văn phòng, thành phố tắm trong nắng chiều. Trên khung cửa sổ, một con bọ bò chậm rãi về phía cây chanh, vỗ vỗ cánh.

Tôi đẩy gói thuốc lá đắt tiền về phía hắn, giải thích:

- Gia đình tôi là chủ nhà. Bác tôi là chủ đất.

Hắn nhướng cặp lông mày:

- Tại sao không có chữ ký của chủ đất trên giấy tờ này? Ai thừa kế căn nhà bây giờ?

- Thưa ông, tôi nghĩ là bây giờ nó thuộc bác tôi vì chúng tôi đã bỏ nó từ hai ngày hôm nay rồi.

Viên trưởng ban lắc đầu, hít hà hàm răng một cách không tán thành. Xếp hồ sơ lại, hắn thẩy lướt nó ngang qua mặt bàn về phía tôi, nói:

- Tôi không thể ký được. Có ký cũng vô ích. Hãy trở lại Nha Trang, bảo bác anh gỡ rối cho cái đống bùi nhùi này, rồi trở lại đây gặp tôi.

Tôi phản đối:

- Nhưng mà thưa ông, tôi không thể làm điều đó được. Chúng tôi sẽ ra đi ngày mai.

Viên trưởng ban phá lên cười. Tôi nhắm mắt lại chờ đón những câu nói giễu mà tôi đã quen tai rồi. Hắn nhích lại gần tôi đến nỗi tôi có thể nhìn thấy những sợi lông mũi dài ngoằng, phập phồng theo nhịp thở, như là đôi cánh con bọ ở trên khung cửa. Hắn thì thào, nét đùa cợt hiện lên khuôn mặt:

- Sao mà anh thiết tha muốn tôi đóng dấu ký tên vào tờ giấy này đến thế? Anh chịu đổi linh hồn lấy chữ ký không?

Tôi tránh cái nhìn của hắn vì chẳng biết trả lời thế nào. Hắn ta tiếp tục cười, thẩy sấp hồ sơ vào đùi tôi, Xua tay:

- Thôi cuốn gói đi! Làm mất thì giờ của mỗ, thằng lai ngu ngốc!

Tôi nài nỉ:

- Thưa ông, xin ông mở lòng thương mà giúp cho. Tôi không bao giờ quên ơn ông đâu.

Viên xếp ngả người trở lại chiếc ghế da, ghếch hai chân lên bàn. Cặp môi hắn mím lại trong khi hắn ngắm nghía những ngón tay gọt tỉa tuyệt khéo. Tuyệt vọng, tôi sụp xuống quì trên hai đầu gối, lết vòng quanh cái bàn đến sát cạnh hắn, ôm lấy tay hắn van xin:

- Xin ông thương tôi. Ông là niềm hy vọng cuối cùng. Tôi hứa sẽ không còn bao giờ quấy rầy ông nữa.

Hắn hất tôi ra và vội vã lau bàn tay bằng cái khăn mùi xoa trắng. Rồi hắn đứng dậy, tự rót cho mình một chung trà trên cái ấm gần đó, chậm rãi uống. Tôi vẫn quì dưới đất, chờ đợi. Cuối cùng, hắn ném cho tôi một cái nhìn khinh bỉ:

- Mai trở lại. Nhớ đem, quà đến. Đây không có làm chùa cho ai cái gì hết ráo!

Tôi phản đối:

- Nhưng mà thưa ông, máy bay sẽ cất cánh sáng mai.

- Đã nói rồi. Sáng mai, khi anh mang quà có giá trị tới, tôi sẽ ký. Chưa đến lúc đó, đừng làm phiền tôi nữa.

Hắn đưa mắt nhìn qua cửa sổ, nơi có cành cây chanh đang rung rinh dưới ánh mặt trời. Tôi xếp sấp hồ sơ trên mặt bàn, bước ra.

Đêm đó, trừ bé Ti, không ai trong gia đình tôi có thể ngủ được. Mẹ tôi nằm lặng lẽ trên sàn nhà, đắm chìm trong suy nghĩ. Cạnh tôi, Jimmy trằn trọc trở mình hoài. Tất cả các cửa ra vào và cửa sổ đều mở để hứng gió mát. Những cánh hoa hồng theo gió lạc vào phòng rơi lả tả dưới sàn trông như những giọt máu rải rác. Ngoài trời, sương đêm mù mịt. Tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên mặt bàn vang lên rõ mồn một.

Tôi nằm nghiêng, hai tay bó hai đầu gối. Sự xúc đông. dàn trải trong tôi: buồn bã, đau đớn, hối tiếc và khao khát. Từ bên ngoài, ánh trăng mờ tỏa tia sáng yếu ớt xuyên qua cửa sổ. Tôi ngắm bầy thiêu thân vờn dưới ánh sáng, đâm vào nhau tự sát, lòng tôi bâng khuâng tự hỏi mình còn giữ nghị lực được bao lâu.

Có tiếng Jimmy thì thầm:

- Anh Kiên, anh còn thức hả?

Tôi quay mặt lại, nó hỏi tiếp:

- Ngày mai mình sẽ ra sao?

- Em sẽ ra phi trường với mẹ và em bé Ti. Lấy được chữ ký rồi, anh sẽ ra gặp em.

Mẹ tôi lên tiếng, giọng đầy lo lắng:

- Phi trường sẽ đóng cửa lúc mười một giờ sáng. Con phải gặp mẹ tại đó đúng giờ, có chữ ký hay không cũng mặc.

Tôi hứa:

- Dạ, mẹ ơi, nhất định con sẽ có mặt tại đó trước mười một giờ.

Buổi sáng, trời bỗng trở lạnh. Mẹ tôi nhỏm dậy trước tiên, lặng lẽ khuất sau cánh cửa phòng tắm với cái bàn chải đánh răng, trong khi Jimmy, Bé Ti và tôi thay quần áo. Hai em Jimmy và bé Ti được mẹ tôi mua cho mỗi đứa một bộ đồ bảnh tỏn để diện vào ngày trọng đại này. Xúng xính trong cái áo sơ mi trắng tinh và cái quần tây xanh, trông Jimmy láng coóng như một đồng xu mới. Cả đôi xăng đan đen cũng mới tinh. Em gái tôi thì lụng thụng trong bộ áo đầm mầu tím lớn quá khổ, tuy vậy, nó cũng sung sướng cười khoe hai cái răng cửa bự như răng thỏ. Tôi sẽ mặc cái áo sơ mi cũ và cái quần ka ki rách. Đây là lần cuối cùng tôi gặp nhân viên sở Nhà Đất, tôi muốn cho họ thấy bộ mặt nghèo túng của tôi. Một cảm giác lo sợ bỗng bùng lên khiến tim tôi đập nhanh, đầu quay cuồng như bị trúng gió. Bộ quần áo không đủ dầy để cản lạnh, tôi vội rúc vào tấm khăn trải giường.

Từ nhà tắm, mẹ tôi hiện ra với bộ đồ coi được nhất của bà, cái áo mầu xanh với những bông hoa dành dành xinh xắn và cái quần thâm bằng nylon quen thuộc. Đứng cạnh bàn, bà xếp vào túi xách của tôi chai rượu Cognac, hai tút thuốc lá và vài túi khô mực. Đưa cái túi xách cho tôi, Mẹ bảo:

- Con đem cái này đến cho lão Trưởng Ban Nhà Đất để đổi lấy chữ ký của hắn.

Bà cụ Hôm từ trong bếp đi ra, tay bưng một thố xôi đậu xanh. Mùi thơm của món điểm tâm đánh thức ông cụ dậy. Cụ bước ra khỏi giường, ngáp ồn ào, mò mẫm kiếm dôi dép trong bóng tối. Cụ bà lên tiếng mời chúng tôi:

- Ăn một chút rồi hẵng đi.

Trong khi gia đình tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất thì tôi đi bộ tới sở Nhà Đất lần cuối cùng. Mẹ tôi đã rúi vào tay tôi bốn trăm đồng và cái đồng hồ của bà để tôi có thể theo dõi thời giờ. Phòng đợi vắng tanh vắng ngắt với cái mầu xanh bệnh hoạn của rèm cửa. Tôi ngồi xuống chiếc ghế gỗ, nơi mà tôi đã trải qua năm ngày chờ đợi. Bên ngoài, mặt trời đang lên, ánh nắng vàng rực qua khung cửa sổ, nhẩy múa trên tường như những đốm hoa lung linh.

Một giờ sau, từng nhóm nhân viên lục tục bước vào sở, vừa đi vừa ồn ào tranh luận với nhau về số điểm của trận đá banh gần đây nhất. Ngay khi viên Trưởng Ban Nhà Đất xuất hiện ở cửa, tôi đứng ngay dậy. Tay cầm ly cà phê, hắn ta bước ngang qua tôi mà không thèm đếm xỉa gì đến sự có mặt của tôi. Trước khi tôi kịp chào, hắn đã biến mất sau cánh cửa đóng kín. Viên thư ký vừa chỉ vào tôi vừa cười đùa oang oang với bạn đồng nghiệp:

- Nhìn thằng nhãi kìa! Mày vẫn còn đó hả, nhóc? Tao tưởng mày bay đi Mỹ hôm nay cơ mà, sao còn la cà ở đây mà chùi cái đít Mỹ lai của mày trên ghế chúng tao

Tôi tức ứ họng, nuốt hận nhìn qua chỗ khác.

Thời gian chậm chạp trôi qua. Người tới kẻ lui nườm nượp, đem theo những giỏ đầy ắp quà tặng. Có những người vừa mới bước vào vài phút thấy mừng rỡ đi ra. Còn những người cùng cảnh ngộ bất hạnh như tôi thì cứ việc ngồi đồng ở đây mà chờ. Cuối cùng, vào chín rưỡi, tôi thu hết can đảm tiến đến bàn viên thư ký, vừa chỉ về phía văn phòng viên Trưởng Ban Nhà Đất, vừa nói:

- Thưa ông, xin phép cho tôi gặp ông ấy.

Hắn không thèm nhìn tôi, trả lời gọn lỏn:

- Không!

Tôi chìa ra một tút thuốc lá ra trước mặt hắn:

- Xin ông giúp tôi, chỉ tốn có một giây thôi mà.

Hắn chộp ngay lấy món quà từ tay tôi, càu nhàu:

- Lẹ đi!

Tôi vội lách qua lối đi đầy nhóc bàn giấy, tới gõ cửa văn phòng viên trưởng ban. Một giọng quen thuộc vọng ra:

- Vào đi.

Tôi bước vào. Viên trưởng ban ngồi trên chiếc ghế da quay về phía hàng cửa sổ. Cái bút chì được kẹp trong những ngón tay xoay vòng vòng như con vụ. Hắn quay lại nhìn tôi.

Rút quà từ trong cặp xách ra, tôi cẩn thận xếp từng món một trước mặt hắn. Với đôi mắt hé mở, hắn nhìn từ mặt tôi tới mấy món quà, vẻ thờ ơ. Tôi lắp bắp:

- Xin ông làm ơn ký giấy tờ giùm tôi, tôi phải bắt kịp chuyến bay ngay bây giờ.

Hắn cầm chai rượu cognac lên xem xét rồi phán:

- Ra ngoài kia chờ.

Tôi nài nỉ

- Thưa ông, tôi cần chữ ký của ông càng sớm càng tốt. Tôi không thể lỡ chuyến bay.

Hắn ngả ềnh người xuống cái ghế da, vươn vai:

- Này, anh có tin tôi tí nào không đấy? Ra ngoài chờ!

Tôi miễn cưỡng trở lại chỗ ngồi chờ. Nửa giờ trôi qua. Niềm uất ức trong lòng tôi bừng bừng tăng theo từng giây trôi qua. Cuối cùng, tôi đứng dậy phóng ra ngoài.

Có tiếng viên thư ký vang trong tai:

- Mai gặp lại nhen, thằng Mỹ lai.

Ra tới đường, tôi phóng tầm mắt tìm xe tắc-xi. Nhìn đồng hồ, tôi biết chỉ còn lại có bốn lăm phút để kịp gặp mẹ tôi ở phi trường. Trong đầu tôi, cơn giận bốc lên cuồn cuộn khiến cho tôi hoa mắt, không còn nhìn được mọi sự một cách sáng suốt nữa.

Từ góc phố, một chiếc xích lô tiến lại gần tôi:

- Cậu đi đâu, xin cho tôi chở.

Tôi gật đầu nhẩy lên, bảo hắn:

- Phi trường Tân Sơn Nhất.

Hắn vừa đẩy vào bàn đạp cho chiếc xe lao ra giữa đường, vừa nhỏ nhẹ:

- Xin lấy rẻ cậu bốn mươi tám đồng thôi, chắc giá.

Tôi ngả người xuống nêm da giả lép xẹp, không trả lời. Thành phố trôi qua loáng loáng, mơ hồ, với những người khách qua đường nhìn tôi như họ đã chứng kiến sự sỉ nhục mà tôi đã phải chịu, với những căn nhà mái ngói đỏ và những lối đi tôi đã bước qua, tất cả chen chúc xuất hiện trước mắt tôi rồi tàn lụi. Gió mát thổi tan những lo âu của tôi khi chiếc xích lô đã đưa tôi ra khỏi thành phố. Người phu xe báo:

- Tới nơi rồi.

Phía trước, cách khoảng trăm thước là cổng phi trường, tôi thấy đầy nhóc các loại xe, nào là tắc-xi, xe buýt, xe gắn máy. Xa xa, qua cánh đồng cỏ tranh mênh mông là mấy dẫy nhà mầu xám túm tụm vào với nhau. Con đường dẫn tới đó dài thăm thẳm, nóng bỏng dưới ánh mặt trời chói chang.

Ngay tại cổng phi trường, một viên cảnh vệ ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Sau khi xem xét kỹ căn cước người phu xích lô, hắn nói:

- Anh không có giấy phép chạy xe phía trong phi trường.

Quay sang tôi, sau khi kiểm tra xong giấy tờ hộ chiếu, hắn nói:

- Còn anh này, có thể cuốc bộ hay tìm cách gì đó mà vào phòng đợi.

Tôi hỏi hắn trong khi trả tiền cho người đạp xích lô:

- Từ đây tới đó bao xa?

Viên cảnh vệ đáp:

- Khoảng ba cây số. Họ sắp đóng cổng rồi, tốt hơn là lẹ lên.

Đồng hồ của tôi chỉ mười một giờ thiếu mười. Tôi la hoảng:

- Làm sao tôi có thể tới đó kịp với mười phút?

Trong đám chạy xe ôm gần lối vào, Tôi chú ý một anh chàng trẻ tuổi mặc áo sọc, anh ta ngoác mồm gào lên:

- Này, muốn mướn tôi không? Tôi có thể chở anh vào tận trong đó.

Tôi vội đáp:

- Được.

- Anh có bao nhiêu tiền?

Tôi móc túi lôi ra đếm xấp tiền giấy, rồi nói:

- Ba trăm năm mươi hai đồng là tất cả số tiền tôi có.

Một cách lẹ làng, anh ta chộp số tiền từ tay tôi:

- Được rồi. Chờ tại đây nhé.

Mặt trời lên cao hơn, hun nóng mọi thứ ánh nắng chiếu tới. Mấy người tài xế phi trường rút vào trong xe của họ để tránh cái nắng. Khi chàng trai trẻ xuất hiện trở lại, hai tay hắn dắt theo chiếc xe gắn máy cổ lỗ sĩ. Chiếc xe lẽo đẽo theo hắn trên đường như một con vật trung thành. Vừa vỗ nhẹ vào cái đệm, hắn vừa nói giọng hãnh diện:

- Nó đây rồi. Chúng ta chuẩn bị đi được rồi. Tuy vậy, có một vấn đề nhỏ xíu với chiếc xe này. Cậu phải giúp tớ đẩy cho máy chạy vì nó không tự động nổ nổi. Nó mà chạy được rồi là, a-lê-hấp, cậu nhẩy phóc lên đằng sau lưng tớ nhé.

Tôi thất vọng tột cùng. Cứ mỗi chướng ngại tôi gặp, mức độ khó khăn lại tăng. Lần này, chắc chắn là đã vượt quá sức chịu đụng của tôi. Chàng trẻ tuổi nhảy lên yên xe, quay lại ra hiệu cho tôi đẩy. Tôi khom mình, ẩy vai, chạy trên con đường lồi lõm. Chiếc xe chậm chạp bò trước mặt tôi rít lên òng ọc như một người bệnh già. Rồi thì có tiếng máy nổ tanh tách, phun ra một làn khói xậm mầu tạt vào mặt tôi. Bất thình lình, chiếc xe tuột khỏi những ngón tay tôi, phóng về phía trước trong đám bụi đỏ mù mịt. Tôi đứng lại, ngắm nó chạy mà không thể ngờ được. Cái cảm tưởng như mình bị mắc lừa làm cho tôi giận điếng người. Tôi ngó quanh để tìm người cảnh vệ.

Nhưng trước khi tôi kịp hành động, chiếc xe quay trở về, chạy qua mặt tôi, quẹo gắt một vòng rồi chậm lại. Nhún nhún một cách sốt ruột trên đệm, anh ta lớn tiếng kêu tôi:

- Này, gì mà kỳ vậy? Sao không nhẩy lên? Lẹ đi, chúng ta không còn nhiều thời giờ!

Tôi lao lên nệm xe. Mông quần ka ki của tôi rách xoạc một miếng, nhưng tôi chẳng quan tâm. Túm lấy eo hắn, tôi dúi đầu vào ôm chặt tất cả cái công trình của tôi. Hắn chở tôi đến tận cổng vào khu nhà và rồ máy để dừng. Tôi liếc nhìn đồng hồ, đúng mười một giờ. Tôi tới được đúng giờ chăng? Cách khoảng chừng trăm thước, cánh cửa kính lối vào khu xuất cảnh từ từ chuyển bản lề trong bàn tay của hai người lính gác.

Người lái xe ôm quay lại, mặt đỏ bừng vì nóng, nói:

- Chúc may mắn! Tốt hơn hết, hãy chạy mau.

Tôi giơ tấm hộ chiếu lên, vừa vẫy, vừa la lớn về phía những người bảo vệ:

- Xin chờ tôi với!

Đằng sau tấm kính, hai người gác ngưng lại, nhìn nhau. Tôi phóng qua giữa hai cánh cửa, quên cả cám ơn người lái xe ôm. Chiếc xe rú ầm ĩ trên đường một cách đắc thắng. Rồi tôi nghe thấy cánh cửa đóng lại sau lưng tôi.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:35 pm    Tiêu đề:


Chương năm mươi

Khu vực xuất cảnh thật là hoang vắng, ngoại trừ vài thường dân và cảnh vệ. Chứng tích một buổi sáng bận rộn đăng ký còn đọng trên nét mặt mọi người và sự bừa bãi của rác rưởi ngập ngụa trên sàn. Đồ đạc độc nhất là dẫy bàn bằng nhôm giữa phòng. Bên cạnh mỗi bàn có một cảnh sát đứng. Không thấy gia đình tôi đâu, mà cũng chẳng thấy ba trăm hành khách khác, có vẻ như tôi là tên Mỹ lai độc nhất trong căn phòng này.

Một nữ nhân viên bảo vệ tiến lại gần tôi. Vẻ tò mò trên mặt bà ta biến mất ngay khi tôi giơ ra tấm hộ chiếu. Bà ta vừa dẫn tôi đến cái bàn đầu tiên, vừa quạu:

- Ở chỗ chết tiệt nào ra vậy?

Tại đây tôi bị rà soát một cách thật lẹ coi có giấu vũ khí chăng. Ở bàn thứ hai, tôi được đóng dấu vào hộ chiếu. Tiếp theo, tôi phải ký vào tờ giấy giải tỏa. Trên tờ giấy họ đưa, tôi nhận ngay ra chữ ký của gia đình tôi, ký nguệch ngoạc vào bên cạnh tên bằng chữ in của mọi người. Cảm thấy nhẹ nhõm, tôi nhìn lướt qua căn phòng. Những cánh cửa đóng dẫn tới những khu vực bí ẩn và khó nhận biết. Tuy vậy, đâu đó trong tòa bin đinh này, mẹ và các em tôi đang chờ tôi. Tôi hít một hơi dài, bước lại cái bàn cuối cùng, lòng thầm cầu một phép lạ. Người cảnh sát ngước lên, hỏi:

- Giấy tờ của anh đâu?

Tôi nhìn hắn, chết điếng:

- Thưa ông trong xách tay của tôi.

- Lấy ra!

Tôi sờ soạng trong túi xách, lôi ra một cọc dầy giấy tờ. Suốt mấy năm trời cực nhọc, tôi đã gom góp được một tập hồ sơ dầy cộm. Rất cẩn thận, tôi tuồn tờ giấy chưa có chữ ký của sở Nhà Đất vào giữa tập hồ sơ trước khi giao cho hắn. Tuy cố gắng giữ vẻ mặt tỉnh bơ, nhưng trong lòng tôi, tôi đã gần muốn xỉu. Viên công an chộp lấy cọc hồ sơ. Nhanh như cắt, hắn tung mớ giấy lên trời, không thèm liếc mắt. Giấy tờ bay trong khoảng không. Lỏa tỏa chung quanh tôi như những con bướm trắng trước khi rớt xuống đất. Tôi thốt ra một tiếng kêu nhỏ. Hình của tôi, của toàn thể gia đình tôi, cùng với tất cả giấy tờ mà tôi đã bỏ ra biết bao nhiêu công khó gom góp trong suốt ba năm trời, nay tất cả đều nằm ngửa dưới đất, giữa những hồ sơ, hình ảnh những gia đình vô danh, không quan trọng khác.

Viên công an nói, tay chỉ về phía cái ô cửa cuối phòng:

- Anh xong cả rồi. Vào trong mà gặp gia đình.

Không thể tin nổi sự kiện, tôi phản đối:

- Nếu như giấy tờ không quan trọng đối với các ông thì các ông bắt chúng tôi kiếm để làm gì?

Hắn nhún vai, đẩy tôi về phía lối ra:

- Cút khỏi đây, đừng làm mất thời giờ của tôi. Chẳng ai muốn giữ cái đồ rác rưởi như bọn anh trong đất nước này.

Tôi chụp lấy cái túi xách của tôi và xốc lại quần áo cho chỉnh tề. Những lời nói tàn nhẫn của hắn chẳng còn tác dụng gì đối với tôi nữa. Thật ra, sự căm hờn càng tăng thêm sức cho tôi đi mau hơn.

Từ lối vào, có tiếng người gọi tên tôi. Tôi quay lại, và thời gian dường như ngừng trôi. Kim đứng ngay đó, giữa hai người bảo vệ, cũng với cái áo cộc tay mầu đỏ đã từng làm cho lòng tôi rung động ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Mái tóc hạt huyền của nàng bóng ngời như mầu trời đêm và hàm răng đẹp như ngọc. Tôi buông cái xách tay xuống sàn nhà. Sự xúc động tràn ngập toàn thân tôi giống như những đợt sóng ùa lên, vỡ tung ra trên bãi cát nơi bờ biển, khiến hai đầu gối tôi muốn khuỵu xuống.

Kim chạy đến với tôi. Một người bảo vệ chụp cánh tay nàng, kéo nàng trở lại qua căn phòng. Không chống cự, Kim ngoái nhìn tôi, với tay về phía tôi, vẫy vẫy.

Tôi đuổi theo họ, la lên:

- Xin dừng lại. Cho tôi chào từ biệt cô ấy.

Họ buông nàng ra. Chúng tôi chạy ùa lại với nhau. Tôi xiết chặt nàng bằng tất cả sức mạnh, lắp bắp:

- Xin lỗi em, anh rất tiếc đã đối xử tàn nhẫn với em. Anh không nên làm cái điều đã xẩy ra. Xin tha lỗi cho anh.

Kim ngước nhìn tôi:

- Không sao cả, Kiên. Em hài lòng đã cùng với anh trong lần đầu tiên của cuộc đời.

- Anh... anh không định nói thế. Đó cũng là lần đầu tiên trong đời anh. Điều anh muốn nói là anh hối tiếc đã đối xử với em tàn tệ. Chỉ vì xuất thân của em mà anh đã làm quen với em, mục đích chỉ lợi dụng em mà thôi.

Kim cười, gõ nhè nhẹ vào thái dương bằng ngón tay trỏ:

- Đừng nghĩ quá nhiều về chuyện đó. Đầu em chỉ chứa toàn kỷ niệm đẹp về anh đây nè.

Tôi thở ra, nhẹ nhõm:

- Cảm ơn em. Anh mừng thấy em được như vậy. Mà này, làm thế nào em tới đây được? Ai đem em tới?

Kim nép đầu vào ngực tôi, nói:

- Em đến đây với bác anh. Bác đang ở trên lầu, chờ gia đình anh ngoài ban công. Anh sẽ còn thấy tụi này khi anh bước ra sân bay. Bố mẹ em chưa biết em đang ở Sài Gòn. Em tới vì em không thể để cho chúng ta chia tay nhau một cách buồn bã như thế. Nếu như chúng ta chẳng là gì của nhau, ít nhất, em mong có được tình bạn của anh.

Phủ kín gương mặt nàng bằng những nụ hôn, tôi thì thầm vào tai nàng:

- Ngày nào anh còn sống, anh sẽ không bao giờ quên em.

Với nụ cười tinh nghịch làm sáng rực gương mặt, Kim nói:

- Cám ơn anh. Cuối cùng, anh không đến nỗi tệ lắm, Kiên.

Người bảo vệ thúc cùi trỏ vào lưng tôi, rồi vừa đẩy cái túi xách vào tay tôi, vừa giục:

- Thôi đi!

Chúng tôi buông nhau ra. Tôi sờ vào má nàng, cố ghi nhớ cái cổ thanh tú, làn da không tì vết và những tàn nhang đặc biệt trên đôi má nàng. Rồi tôi nói với theo:

- Anh sẽ viết thư cho em. Anh sẽ cho em biết mọi sự xẩy ra cho gia đình anh mỗi tuần, không mỗi ngày, cho đến khi chúng ta gặp lại nhau.

Nàng ôm bả vai như là cảm thấy lạnh. Đôi hàng mi đẫm lệ, nhưng nàng cười, dõi theo tôi khuất sau cánh cửa.

Tôi nói với nàng lần cuối cùng:

- Từ biệt em, Kim ơi.

Căn phòng đầy nhóc với hàng trăm trẻ em đang la hét, đuổi nhau giữa những hàng ghế y như là trong một lớp học khổng lồ. Hai trong số bức tường được làm bằng kính để trông ra phi đạo. Phía ngoài trên nền xi măng, ba chiếc máy bay đậu cách nhau khoảng ba chục thước, phản chiếu dưới ánh mặt trời. Tôi vội vã đi tìm gia đình. Ngay ở dưới sàn gần lối vào, mọi người đang túm tụm vào nhau sửa soạn bữa ăn trưa. Jimmy nhẩy lên đong đỏng, vẫy tay rối rít để gợi sự chú ý của tôi. Tôi vẫy trả, đẩy một đám con nít qua bên lấy lối đi. Những người lớn nhìn tôi chòng chọc nhưng không biểu lộ một cố gắng nào chứng tỏ họ muốn giúp tôi vượt qua.

Ngồi một mình trên ghế phía bên phải tôi là cô gái tóc bạch kim mà tôi đã gặp ở chỗ phỏng vấn. Không thấy bà mẹ phục phịch và mười bốn anh chị em hợm hĩnh của cô. Một tay cô giữ chặt cái giỏ. Tay kia giữ một cái túi được đeo tòn ten từ vai xuống. Đôi mắt cô sưng mọng đỏ lên vì khóc. Tôi nói với cô:

- Này, em không sao chứ?

Cô gật đầu, tránh cái nhìn của tôi.

- Anh thấy em trong buổi phỏng vấn mấy tháng trước. Gia đình em đâu?

Cô trả lời:

- Những người đó không phải là thân thuộc của em. Mẹ em bán em cho bà ấy để em có thể đem theo cả gia đình bà ấy đi Mỹ. Nhưng khi cả bọn vào để phỏng vấn, mấy ông Mỹ moi ra được sự gian dối. Họ chỉ phát vé cho mỗi mình em, còn mấy người kia bị ở lại.

Cô bắt đầu nỉ non khóc một cách đau khổ. Tôi an ủi cô:

- Thôi đừng khóc nữa. Khi đã đến Mỹ, em có thể bảo lãnh cho gia đình thật của em. Chỉ một năm nữa là em lại được gặp lại gia đình.

Cô nức nở:

- Em không biết họ ở đâu nữa. Mẹ em dọn nhà đi ngay sau khi bán em.

Tôi vỗ nhẹ cái vai gầy gò của cô:

- Tội nghiệp em quá. Nhưng đừng lo, em không cô độc đâu. Anh có đọc ở đâu dó rằng một khi em tới Mỹ, sẽ có một gia đình tốt lành nhận em làm con nuôi. Em có muốn lại đằng kia ngồi với gia đình anh không? Trong khi chờ đợi, chúng ta tạm kết nhóm với nhau nhé.

Cô ta gật đầu, lau nước mắt, thu dọn đồ vật tùy thân. Cùng nhau, chúng tôi bước qua hàng người, đến chỗ mẹ tôi.

Bé Ti ngồi trên sàn, hai tay đầy những mẩu bánh chuối vụn. Em nháy mắt với tôi rồi cười. Tôi nói át tiếng ồn ào:

- Mẹ ơi, chúng ta lại đoàn tụ rồi.

Mẹ tôi đưa tay lên ngực, mặt xanh ngắt vì lo lắng, nói:

- Mẹ sợ quá. Mẹ không biết phải làm gì nếu con bị kẹt lại. Mẹ đã cầu nguyện suốt buổi sáng.

Rồi mẹ tôi liếc mắt qua cô gái đứng sau lưng tôi vẻ tò mò. Tôi giải thích:

- Chuyện dài, mẹ ạ. Cho cô ta đi chung với mình nghe mẹ.

Mẹ tôi ngả lưng vào tấm cửa kính, vẻ mệt mỏi, nói:

- Nếu vậy, bảo bạn con ngồi xuống, mẹ có để phần cho con đồ ăn trưa đó, con à.

Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:38 pm    Tiêu đề:


Chương Năm Mươi Mốt

Vào lúc hai giờ chiều, những chiếc máy bay bắt đầu di chuyển ngoài phi đạo. Phía sau bức tường kính, mọi người lăng xăng thu dọn. Các gia đình phân phối hành lý cho những người có nhiệm vụ xách chúng theo. Đó đây, có những nụ cười bồn chồn để che giấu cảm giác băn khoăn, lo ngại. Bên ngoài, bầu trời trong xanh của buổi trưa hè như nở lớn hơn ra tựa hồ bên trong một trái cầu nóng, trải dài tới tận chân trời trắng xóa xa tít mù khơi.

Mẹ tôi ngồi trên sàn, đầu gối chống ngực, cằm tựa vào hai bàn tay xoắn lại với nhau. Những năm tháng dài lao lực đã tàn phá hầu hết móng tay của bà, khiến cho chúng trở nên biến dạng, dầy cộp. Nắng cháy đã làm cho làn da trở nên khô cằn, đầy vết nhăn, với những lớp khớp tay nứt nẻ và những cục chai da sần sùi. Mười năm trời, người cộng sản đã thành công trong việc tước bỏ đi của mẹ tôi niềm hãnh diện lớn nhất trong cuộc đời bà - vẻ duyên dáng, thanh nhã của đôi bàn tay. Sẽ không bao giờ còn nữa những cảnh chúng uốn lượn khi nâng ly rượu sâm banh hoặc duyên dáng khi chụp hình. Những bàn tay hiện nay thuộc về một người già nua, tinh thần suy sụp, chỉ còn lại một chút xíu dư âm của người mẹ mà xưa kia đã có một thời tôi được biết.

Đâu đó trên đầu chúng tôi, một hồi chuông vang rền, chuyển một làn sóng tín hiệu đến căn phòng đông nghẹt. Chúng tôi nhẩy cẫng lên, lao về phía lối đi. Ngay sau đó, cánh cửa mở và tôi là người đầu tiên bước ra sân bay.

Từ ban công tầng lầu thứ hai nhìn xuống, thân nhân những người ra đi đứng dài theo thành tay vịn. Người ta nghển cổ, che mắt, cố tìm ra khuôn mặt của người thân. Tôi nghe thấy tiếng bác tôi, phân biệt rõ ràng với tiếng những người khác.

Tôi nhìn lên. Bác tôi đứng giữa những người xa lạ, vẫy hai tay để gợi sự chú ý của tôi. Sau lưng bà, ánh nắng gắt chiếu xuống mái tóc muối tiêu. Dưới cái nóng như thiêu như đốt của mặt trời, trông bà như đang bốc cháy. Bác tôi hét lên:

- Kiên ơi, bác đây này. Tha thứ cho bác nghe cháu. Bác không thể tưởng tượng nổi là họ lại cho gia đình cháu rời khỏi đất nước này. Bác muốn xin lỗi. Đến Mỹ rồi cố gắng thành công và đừng quên tụi này nhé.

Tiếng bà chìm trong những lời từ biệt của các gia đình khác dành cho thân nhân họ

Tôi nhìn thẳng, làm như không thấy bà. Cửa máy bay mở trước mặt tôi và một cái thang cao được thả xuống chỗ của nó. Tôi hăm hở leo lên. Bên trong, một luồng hơi mát từ máy điều hòa không khí tỏa ra đón mừng tôi.

Trong bầu không khí đông đảo, có tiếng chuông dội lại. Tôi tự hỏi, phải chăng đây là để báo cho biết về cuộc hành trình của tôi đã chấm dứt hay là về sự bắt đầu của cuộc hành trình mới.


HẾT
Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:40 pm    Tiêu đề:


Lời bạt


“Nếu cháu muốn đạt được hạnh phúc thì đừng tìm về quá khứ, thay vào đó, hãy sống với hiện tại. Có nghĩa lý gì nếu cứ bị ám ảnh mãi về những chuyện đã xẩy ra mà cháu cũng không thể thay đổi được. Hãy biết sống và vui lên”.

Ông ngoại tôi đã nói với tôi những lời này trong buổi trò chuyện cuối cùng vào cái đêm mà tôi rời Nha Trang để đi Sài Gòn năm 1985. Trong suốt bao nhiêu năm trường, tôi đã nghiền ngẫm về sự sáng suốt này của ông và cố gắng sống theo lời khuyên đó. Nhưng càng cố, tôi càng không thể quên được quá khứ. Những sự kiện đã hun đúc tôi tiếp tục đè nặng lên đời sống tinh thần của tôi.

Vào tháng sáu năm 1999, hơn mười bốn năm sau khi tới Hoa Kỳ, tôi tốt nghiệp Nha Sĩ tại trường Đại Học Nha Khoa Nữu Ước. Mùa hè năm đó, trong khi chờ nhận giấy phép hành nghề, những cơn ác mộng mà tôi đã giữ được một khoảng cách trong những năm say sưa vì tự học, quay trở lại quấy rầy tôi với mức độ mới. Những giấc mộng đến từng đợt, mỗi tuần một, hai lần. Đôi khi nó tới theo nhóm hai, ba giấc mộng liên tục. Khi thì tôi mơ thấy tôi vẫn đang còn trên đường phố Sài Gòn, cố gắng kiếm bằng được chữ ký cuối cùng cho tập hồ sơ, trong khi ở đằng kia, chiếc máy bay đã cất cánh, bỏ rơi tôi lại. Có lần, tôi lại mơ thấy tôi đang chìm dưới biển cả, trên đầu tôi, những thây người tái ngắt móc tay chân với nhau làm thành một lớp chắn bằng thịt người, cản không cho tôi nhô lên khỏi mặt nước. Tôi tỉnh dậy mà không rũ bỏ nổi cơn kinh hãi. Ngay cả ban ngày, những hình ảnh khủng khiếp cứ ám ảnh tôi. Tôi trở nên sợ phải vào giường ngủ mỗi tối.

Cố gắng trong tuyệt vọng để tự giải thoát mình khỏi sự khủng hoảng tinh thần quá độ, tôi quyết định ghi chép lại những giấc mộng. Ngày qua ngày, tôi ngồi trước cái computer, mắt nhìn chăm chăm vào màn ảnh trống, tay vờn cái mặt ngọc của chị Loan mà tôi đeo bằng một sợi dây chuyền trên cổ. Có biết bao nhiêu tư tưởng mâu thuẫn chạy qua đầu tôi, những kỷ niệm của thời thơ ấu xa xưa, rồi những năm cơ cực sau khi Sài Gòn sụp đổ và sự sửa soạn trong tuyệt vọng để lìa bỏ đất nước. Từ cửa sổ thư phòng trong căn nhà tại SoHo, nơi hiện nay tôi đang ở, nhà thờ Old St. Parrick phía bên kia đường trở thành mối liên hệ oan nghiệt với tôi.

Đâu đó trên nóc cao của nhà thờ, có cái chuông ngân vang theo thời biểu đã định sẵn. Những tiếng ồn ào dai dẳng đó xâm nhập sâu xa vào chỗ trú ẩn của tâm hồn tôi, khiến cho tôi không còn có thể tập trung được.

Một đêm khuya kia, trong khi tôi ngồi bên computer, có cái gì là lạ xẩy ra. Trong sự tĩnh mịch của căn phòng, thế giới chung quanh tôi dường như biến mất, không gian, thời gian đều tan loãng, mờ dần. Như là con nhộng hóa thân thành con ngài, bàn ghế chung quanh tôi cũng thay đổi hình dáng. Bức tường thư phòng từ từ biến mất mà hiện ra một đường phố đông đúc ồn ào. Phía dưới chân tôi, sàn gỗ chuyển thành cái vỉa hè đang bốc lửa. Đàn điện phồng lên thành mặt trời khổng lồ. Và tiếng chuông từ nhà thờ vọng tới như một loạt tiếng nổ dộng vào tai tôi với những âm thanh quen thuộc của bom đạn. Tôi nhìn quanh căn phòng và, như là trong giấc mơ, tôi đang đứng trên một góc phố ở Sài Gòn, ngắm nhìn một đứa bé trai giữa những khuôn mặt của những người trong quá khứ. Tôi biết là tôi đang nhìn lại chính tôi. Và qua con mắt của đứa nhỏ đó, tôi thấy biết bao nhiêu tình huống đã xẩy ra trong đời tôi mở toang trước mặt.

Tôi khởi sự viết.

Lý do đầu tiên khiến cho tôi viết cuốn này là hoàn toàn vì chính tôi. Tôi chỉ muốn trị vết thương lòng của tôi mà thôi. Nhưng, càng đi sâu vào câu chuyện, tôi càng nghĩ đến những người con lai mà tôi đã gặp. Tôi nhớ đến sự đau buồn của những mảnh đời tuyệt vọng mà tôi đã, hoặc đích thân chứng kiến, hoặc nghe kể lại trong tuổi thơ ấu của tôi. Cũng đáng buồn như ký ức của tôi, những chuyện đó không phải là duy nhất. Theo sự ước lượng, có tới trên năm chục ngàn trẻ lai Mỹ cùng cảnh ngộ với tôi, hoặc là thê thảm hơn tôi. Những câu chuyện của họ đều có chung một nỗi thống khổ của sự khiếp đảm và bị đàn áp, bị ngược đãi, bị bỏ rơi, sự bền bỉ, và cuối cùng - cho những kẻ may mắn - được sống sót. Tôi tiếp tục viết với niềm hy vọng rằng những nạn nhân vô tội đã mất tuổi thơ này sẽ được xót thương, và nỗi niềm bí ẩn bị chôn vùi của họ sẽ được hé mở.

Tôi hoàn tất cuốn Thân Phận Dư Thừa này vào ngày 22, tháng Ba, năm 2000, cùng thời điểm thế giới theo dõi lễ kỷ niệm hai mươi lăm năm ngừng xung đột tại Việt Nam.

Tôi không còn gặp ác mộng nữa.


Kiên Nguyễn
Về Đầu Trang
LoveYou



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 210

Bài gửiGửi: Fri Nov 23, 2007 12:40 pm    Tiêu đề:


Phê Bình


“Những cơn thử thách và những nỗi thăng trầm đã xẩy đến với Kiên Nguyễn và gia đình, thật đã quá đủ cung ứng dữ kiện cho toàn bộ một kệ sách.”

The Los Angeles Time, tờ báo đã chọn “The Unwanted” là một trong những cuốn sách hay nhất trong năm 2001.

“Kiên Nguyễn đã kể một câu chuyện hồi hộp hơn là một chuyện đầy tiếng nức nở; bất cứ ai trông đợi một cái nhìn thấu suốt về mối liên hệ rối rắm giữa Mỹ và Việt Nam sẽ không thấy thất vọng khi đọc cuốn này.”

Kirkus Reviews (cơ sở phê bình văn học lớn nhất thế giới)

“Bằng tiếng nói ngây thơ, vô tội, ông đã đem chúng ta đi sâu vào cốt lõi của sự bất công và những thảm kịch trong một con người.”

Carol Memmott, USA TODAY

“Cuốn hồi ký đầy tác động của Kiên Nguyễn về thời kỳ lớn lên ở Việt Nam đã cung ứng một sự hồi tưởng đầy thấm thía về chúng ta - Những người thuộc thế giới tây phương- đã có được ân sủng để thoát khỏi sự thiếu thốn, đói khát và quan trọng hơn nữa là bạo ngược, chuyên chế.”

Biography Magazine
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Dài Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Chuyển đến trang Trang trước  1, 2
Trang 2 trong tổng số 2 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân