TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - NGÀY SANH CỦA RẮN
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

NGÀY SANH CỦA RẮN

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Hình Ảnh Việt Nam
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
dokimphung



Ngày tham gia: 27 May 2013
Số bài: 606

Bài gửiGửi: Sat Mar 16, 2019 11:31 pm    Tiêu đề: NGÀY SANH CỦA RẮN



NGÀY SANH CỦA RẮN


      Nhân mới đây lục lại những bài thơ của PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011) để chuyển về cho quí bạn bè và các em đồng hương & đồng môn DUY TÂN qua E-mail, người viết (gọi tắt sau này là mình cho dễ nhé) thấy mình còn thiếu nhiều (vì do chép lại từ một bản cũng chép tay lâu lắm) và thắc mắc không biết bản chánh ra sao.

      Thì quá may mắn, DUẬN tức NGUYỄN VĂN DUẬN, người em quí mến đồng chung quan điểm (tuy nhỏ hơn mình ba tuổi, bằng tuổi Huỳnh Khôi, sinh năm 1950) ở ngoài quê, tối hôm qua chuyển ngay liền cho mình toàn bộ 12 bài thơ từ tập Ngày Sanh Của Rắn. GS NGUYỄN VĂN DUẬN, dạy  ở trường trung học công lập Duy Tân, Phan Rang từ năm 1973 sau khi tốt nghiệp cử nhân giáo khoa triết (thay thế GS Đào Trường Khánh, dạy từ 1964, chuyển về Saigon). Tuy nhiên, điều mình muốn nói là DUẬN rất giỏi chữ Hán với những bài khảo cứu văn học đăng trên tạp chí danh tiếng KIẾN THỨC NGÀY NAY và luôn luôn được xếp đăng ở các trang đầu khi số ra có bài của Duận. DUẬN vẫn còn đang sinh sống ở Phan Rang từ sau 1975 đến giờ.

      May quá. Quí lắm thay.

      Vì thế, nói theo cụ Phan Bội Châu (1867-1940) khi ĐỀ TỪ cho bộ HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN GIẢN YẾU (tập thượng & tập hạ) của Đào Duy Anh (1904-1988), xuất bản lần đầu tiên - mà cụ lấy bút danh HÃN MẠN TỬ -: "Bỉ nhân thấy cỗ ăn ngon, quá mừng sinh dạn, xin viết mấy chữ ở đầu sách, anh em bốn bể hẳn cũng nhiều người đồng ý bới bỉ nhân. " (Huế, ngày 01 thánh 3 năm 1931).

      Mình dùng cả câu trên để tỏ tấm lòng quí trọng & mến yêu người em đồng chí hướng và gửi đến các bạn bè cùng những ai yêu mến PCT. Hẳn quí bạn và các em cũng đồng ý vậy.
      Một lần nữa, chân thân thành cảm ơn DUẬN, đã giải tỏa được thắc mắc của mình về tác phẩm nhỏ bé nhất của PCT.

      Sau đây là nguyên văn của DUẬN:

      Gởi anh bài thơ NGÀY SANH CỦA RẮN gồm đủ 12 khổ thơ
      Ngày sanh của rắn (1966)

      I

      tôi đi đông chìm
      trời âm u thung lũng khô
      nhiều mây chim bay không nổi
      tôi đi
      dưới kia sụp đổ
      núi cấm nổ tôi ra
      cửu long ca từ tây tạng
      tôi về
      tôi hiện
      đèn tắt trời gió tắt trăng
      chim lạ
      kêu tiếng người
      hố thẳm ra đời
      tôi bay trên biển

      II

      tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
      nước chảy lên vùng phố tịch liêu
      tôi nhớ một lần cây quế mọc
      tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều

      III

      mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
      cây khế đồi cao trổ hết bong

      IV

      trời mưa nữu ước cây mọc
      nhớ hương trời mưa ngày tháng
      nhớ hương đường hoang mái vắng
      nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ
      tim anh tràn máu
      con chim đã bay về rừng đạn
      anh không còn làm tu sĩ
      anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
      anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương
      đổ vào tám tách cà phê đen anh uống mỗi đêm
      tại greenwich village
      tại làng thi sĩ
      tại đường khói bay
      tại hương trong giấc ngủ
      tại chiều ba mươi tết ở việt nam
      bây giờ anh xa hương đến mấy đại dương xanh
      mấy phương trời cỏ mọc
      mấy phương trời hương khóc
      hương còn ca hát
      hương còn phơi áo giữa phố buồn
      hương còn cười
      mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
      trên mắt anh
      môi anh
      trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
      trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
      mưa làm tóc anh thơm
      mùi cây quế
      giữa hồ
      mọc giữa hồ quế hương
      tóc anh mọc dài
      che chở hương
      lúc mưa rơi
      lúc đông lạnh
      lúc chim chiều đi mất
      mưa trên phố đêm
      trên quán cà phê ý đại lợi
      trên chiến tranh
      của quê hương
      của quế hương
      còn anh

      V

      rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng
      đợi kinh đào chảy ngược
      cửa nhỏ đóng kín
      những chiếc cầu tuổi dại
      mười sáu năm tôi thức trong đời
      mười sáu con kinh đào không bao giờ chảy ngược
      đứng ngang cầu pont-neuf
      nhìn sông seine tôi thấy cửu long
      paris đuổi mất mây mộng hoang đường
      đập vỡ cơn điên trên triền đá sương
      tôi trốn giặc đời
      tắm trong hồn hương
      trái đu đủ
      trong khu vườn xưa
      con rắn nhỏ

      VI

      tôi chấp chới
      đắng giọng
      giữa tháng ngày mơ mộng
      nốt ruồi của hương
      hay nốt ruồi của rigvéda
      tôi mửa máu đen
      trên nửa đêm paris
      tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
      tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
      cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
      mặt trời có thai!
      mặt trời có thai!
      sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt

      VII

      tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire
      từ xóm saint-germain-des-prés
      mọc lên giáo đường hang động
      cà phê biến hồn đầu thai
      hoá thành một triệu con ma đen
      nhảy múa trên núi lửa đầu tôi
      tôi mặc đồ xanh
      và mang đồng hồ da đen
      tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên
      trong sáu diêm quẹt còn rớt lại
      tôi gọi hương và tôi chết giấc
      tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
      máu đổ mưa đen
      ồ cây mồng tơi
      của thời trẻ dại
      tôi gọi thầm
      rắn cuộn tròn
      tương lai

      VIII

      mười năm qua gió thổi đồi tây
      tôi long đong theo bóng chim gầy
      một sớm em về ru giấc ngủ
      bông trời bay trắng cả rừng cây
      gió thổi đồi tây hay đồi đông
      hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
      trong mơ em vẫn còn bên cửa
      tôi đứng trên đồi mây trổ bông
      gió thổi đồi thu qua đồi thông
      mưa hạ ly hương nước ngược dòng
      tôi đau trong tiếng gà xơ xác
      một sớm bông hồng nở cửa đông

      IX

      rắn trườn vỡ trứng chim rừng
      tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
      khuya buồn tủi nhục môi em
      mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
      tiếng ru chín đỏ điện thờ
      hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
      tay còn ôm giữ tình yêu
      tôi về phố động những chiều hư vô
      đời đi trên những nấm mồ
      đau tim em hát cơ hồ khăn tang
      phố chiều tôi bước lang thang
      nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
      nửa đêm khói đốt đời anh
      yêu em câm lặng khô cành thu đông
      lời ca ru cạn dòng sông
      trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên
      bỏ mình nước chảy đồi tiên
      theo con chim dại lạc miền thiên hương
      về đâu thương những con đường
      lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa

      X

      mùa xuân bay thành khói
      tôi ca hát một mình
      suốt đời không biết nói
      nước chảy tràn con kinh
      quá khứ bay lên trời
      biến thành cánh chim non
      tôi quì hôn lá mới
      đau khổ trắng linh hồn
      hư không đổ ra khơi
      kỷ niệm trôi qua cầu
      bãi chiều chưa người tới
      tình nhỏ quên từ lâu
      xuân bay trắng núi đồi
      tôi nằm ngủ mơ chim
      bỗng hét lên trong tối
      ngồi thức dậy bảy đêm
      trời cuối năm gác trọ
      đèn tắt suốt đêm dài
      con chim mười năm nhỏ
      bay về đậu nơi đây
      hơi thở giết thời gian
      bướm nằm chết thang lầu
      tiếng chim ru ngày tháng
      máu chảy về sông sâu
      suốt đời không biết nói
      tôi ngồi thức một mình
      đốt thuốc lên nhìn khói
      đêm rạng điềm hư linh

      XI

      tôi lái ô tô buýt giữa thành phố new york
      mỗi ngày tôi lái ô tô buýt đi trên những con đường không người những con đường chim chết
      những con đường của mỗi ngày
      từ riverside drive đến broadway đến đại lộ thứ năm rồi đến washington square
      công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát
      từ greenwich village tôi đi về chinatown
      mười lăm xu mỗi chuyến
      xa hay gần hay mau hay chậm
      tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc không mây
      mùa lá hay mùa kèn nửa đêm
      dong buồm thổi đến honolulu lặng gió
      xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm
      tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước
      chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
      trên những con đường mỹ châu trống rỗng
      chuyến xe không về harlem đói lửa
      vì mỹ châu trống rỗng trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay hương khóc
      tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối
      đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác
      tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa nhà mồ mỹ châu lạnh lẽo mưa đen
      đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt
      giữa con đường 42nd hay times square
      tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời vẫn mọc trên rắn lửa
      trên mái ô tô buýt chiều thu

      XII

      buổi chiều mưa đụng tim
      mưa đụng máu
      đèn đường đổ xuống nước xanh
      xin hét lên rừng u minh đầu đông
      tử hình trong ngục
      nhốt vào trong ngục
      suốt đời trong ngục
      khói vóc lửa núi
      nhóm nước đầu thu
      xin đừng nói
      lá chuối
      lá me non
      xanh nhà thương
      ngồi trong thành phố
      hoa trắng không còn
      con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày
      chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ
      bông trắng quá nhỏ
      buổi chiều ích kỷ
      con đường quá dài
      những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa
      một người hoạ sĩ thất tình
      nhân loại đều thất tình
      nói đi thật nhiều
      khoai tây
      lang thang ngược vòng những vũ trụ
      anh nói gì
      tôi không nghe
      xuống phố và lên phố
      chạy hun hút qua hai nghĩa địa
      cây trắc bá
      chôn vùi con chó nhà ga
      Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong
   
  ***
      Có điều mình để ý là:

      1) Bài thơ thứ VIII trong loạt 12 bài trên, mình đã thấy và đã đọc trong Tập san Văn nghệ do nhà LÁ BỐI xuất bản; số ra đầu tiên, số 1 Tháng Bảy năm 1965; sau này được in lại năm 2015 (in chung thành 2 tập gồm tất cả 12 số với số cuối cùng ra ngày 12-6-1966).
      2) Bài thơ thứ VIII nguyên là bài thơ đã được đăng trên số 1 tạp chí LÁ BỐI với tựa BẤT NHỊ, như thế này:

      BẤT NHỊ

      Mười năm qua gió thổi đồi tây
      Tôi long đong theo bóng chim gầy
      Một sớm em về ru giấc ngủ
      Bông trời bay trắng cả rừng cây

      Gió thổi đồi tây hay đồi đông
      Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
      Trong mơ em vẫn còn bên cửa
      Tôi đứng trên đồi mây trổ bông

      Gió thổi đồi thu qua đồi thông
      Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
      Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
      Một sớm bông hồng nở cửa đông

                                         1. 5. 65

      3) Bài thơ trên được đăng ở trang 4 của tạp chí này do TT Nhất Hạnh chủ trương khi còn ở VNCH. Điều đặc biệt là ba trang đầu của số đầu tiên này dành cho:
      - Mục lục (trang 1)
      - Bài thơ CHỖ ĐỨNG (của Nhất Hạnh): 4 câu (trang 2)
      - Bài thơ VỀ VỚI EM BÉ THƠ NGÂY (của Nhất Hạnh): 16 câu (trang 3).

      Như vậy ta thấy lúc đó TT Nhất Hạnh (sinh năm 1923) rất quí mến Phạm Công Thiện.
      Mình đã có mấy bài viết trên trang Duy Tân hồi năm rồi về Nhất Hạnh và Phạm Công Thiện. Quí bạn và các em có thể đọc lại đâu đó ở mục HÌNH ẢNH VIỆT NAM.

      Tây đô, Chủ nhật, March 17th 2019
      CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
      भक्तिवेदन्तविद्यारत्न



Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Hình Ảnh Việt Nam Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân