TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Removal of the Condition (Thẻ xanh 10 năm – mẫu đơn I-751)
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Removal of the Condition (Thẻ xanh 10 năm – mẫu đơn I-751)

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tin Thường Nhật
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
Mây tím



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 9547

Bài gửiGửi: Sun Aug 06, 2017 12:22 am    Tiêu đề: Removal of the Condition (Thẻ xanh 10 năm – mẫu đơn I-751)

Removal of the Condition
(Thẻ xanh 10 năm – mẫu đơn I-751)



Immigration Marriage Fraud Amendments of 1986 (IMFA) (tạm dịch là Tu Chính Án Luật Di Trú về việc Hôn Nhân Gian Trá của năm 1986). Đạo luật này được lập ra để ngăn ngừa những vấn đề lập hôn thú giả để hưởng những điều luật di trú. Đạo luật này đã tạo nên rất nhiều sự khó khăn cho “người thừa hưởng” (Beneficiary) và “người bảo lãnh” (Petitioner).

Đạo luật này nói rằng người thừa hưởng sẽ được thẻ xanh có giá trị hai năm nếu:

1- Người thừa hưởng được sự thường trú do sự hôn nhân với công dân Hoa Kỳ hoặc thường trú nhân (tức là bảo lãnh theo diện phối ngẫu).

2- Sự hôn nhân đó dưới hai năm khi “người thừa hưởng” được sự thường trú.

Điều kiện của thẻ xanh hai năm có thể bỏ đi nếu “người thừa hưởng” làm mẫu đơn I-751 chung với “người bảo lãnh” 90 ngày trước khi thẻ xanh hai năm hết hạn hoặc làm mẫu đơn I-751 và xin miễn sự đòi hỏi làm chung với “người bảo lãnh.” Điều kiện của thẻ xanh hai năm cho Sở Di Trú cơ hội lần thứ hai để khảo sát sự hôn nhân của đương sự có gian trá hay không.

Nếu hôn nhân đã quá hai năm khi “người thừa hưởng” được sự thường trú, thì đương sự phải được thẻ xanh 10 năm. Có trường hợp Sở Di Trú làm sai khi cấp thẻ xanh có giá trị hai năm cho “người thừa hưởng” dù rằng ngày được sự thường trú đã quá hai năm từ ngày làm hôn thú. Trong trường hợp đó, “người thừa hưởng” có quyền khiếu nại để điều chỉnh thẻ xanh và không phải làm mẫu đơn I-751.

Lý do mà sĩ quan của Sở Di Trú Hoa Kỳ tại phi trường làm sai vì khi đương sự đi phỏng vấn và được Lãnh Sự Hoa Kỳ cấp chiếu khán nhập cảnh, lúc đó hôn thú chưa đủ hai năm, cho nên Lãnh Sự Hoa Kỳ phải cấp chiếu khán với mã số thẻ xanh hai năm. Nhưng sau đó đương sự nhập cảnh Hoa Kỳ (ngày nhập cảnh là ngày được sự thường trú) sau hai năm lập hôn thú, theo luật Sở Di Trú phải cấp đương sự thẻ xanh 10 năm. Vì sĩ quan Sở Di Trú dựa vào mã số trên chiếu khán cho nên làm sai và cấp cho đương sự thẻ xanh hai năm.

Quý bạn đọc nên lưu ý đạo luật nói rằng ngày được sự thường trú chứ không phải là ngày được thẻ xanh. Tức là ngày được chấp thuận sự thường trú chứ không phải ngày nhận được thẻ xanh. Điển hình là trong trường hợp “người thừa hưởng” được bảo lãnh và phỏng vấn tại quê nhà của họ, khi nhập cảnh Hoa Kỳ lần đầu tiên, thì ngày nhập cảnh đầu tiên là ngày được sự thường trú. Khoảng một tháng thì Sở Di Trú sẽ gửi thẻ xanh về.

Trong trường hợp khác, người thừa hưởng hiện có mặt tại Hoa Kỳ và làm hồ sơ thay đổi tình trạng di trú sang diện thẻ xanh, sau khi phỏng vấn và hồ sơ được chấp thuận, thì ngày hồ sơ chấp thuận là ngày được sự thường trú. Khoảng một tháng sau thì Sở Di Trú sẻ gửi thẻ xanh về.

Đạo luật này được áp dụng vào trường hợp người bảo lãnh là công dân Hoa Kỳ và thường trú nhân. Nhưng chúng ta không thấy trường hợp thường trú nhân vì thời nay những hồ bảo lãnh diện phối ngẫu và người bảo lãnh là thường trú nhân, thời gian chờ đợi ngày chiếu khán đáo hạng là khoảng 3-4 năm. Những trường hợp đó “người thừa hưởng” phải được thẻ xanh 10 năm vì từ ngày lập hôn thú đến ngày được sự thường trú đã quá hai năm.

Điều kiện của thẻ xanh hai năm có thể bỏ đi nếu:

1-“Người thừa hưởng” làm mẫu đơn I-751 chung với “người bảo lãnh” trong vòng 90 ngày trước khi thẻ xanh hai năm hết hạn.

2-Làm mẫu đơn I-751 và xin miễn sự đòi hỏi làm chung với “người bảo lãnh.”

Làm mẫu đơn I-751 với “Người Bảo Lãnh”

Nếu “người thừa hưởng” làm đơn I-751 với “người bảo lãnh,” đơn I-751 phải được nộp trong vòng 90 ngày trước khi thẻ xanh hai năm hết hạn.

Đơn I-751 được nộp tại “Regional Service Center” (Trung Tâm Dịch Vụ Địa Phương của Sở Di Trú) nào trong phạm vi chỗ ở của “người thừa hưởng.” Sau khi Sở Di Trú nhận được mẫu đơn I-751, sự thường trú của “người thừa hưởng” được tự động gia hạn tới khi nào Sở Di Trú giải quyết xong đơn đó.

Sở Di Trú sẽ gửi giấy chứng nhận đơn đã được nhận và thẻ xanh được gia hạn một năm cho “người thừa hưởng.”

“Người thừa hưởng” có thể đem hộ chiếu của họ lên Sở Di Trú để được đóng mộc chứng nhận thẻ xanh được gia hạn một năm. Mộc trong hộ chiếu của đương đơn có thể dùng để rời khỏi Hoa Kỳ và nhập cảnh lại Hoa Kỳ.

Nếu sau một năm Sở Di Trú chưa xét xong mẫu đơn I-751 của “người thừa hưởng,” đương đơn có thể đem hộ chiếu đến Sở Di Trú, để Sở Di Trú tiếp tục gia hạn thẻ xanh lại cho một năm. Sau đó Sở Di Trú sẽ tiếp tục gia hạn thẻ xanh hằng năm đến khi nào họ giải quyết xong đơn I-751.

Trong trường hợp đơn I-751 không được nộp trong vòng 90 ngày trước khi thẻ xanh hai năm hết hạn, sự thường trú của “người thừa hưởng” sẽ tự động bị chấm dứt (terminated) và Sở Di Trú có thể bắt đầu thủ tục trục xuất “người thừa hưởng.”

Đơn I-751 có thể nộp sau khi thẻ xanh hai năm hết hạn, nếu “người thừa hưởng” có thể chứng minh rằng họ có lý do chính đáng về sự nộp đơn không đúng hạn của họ. Nếu Sở Di Trú nhận đơn nộp trễ của “người thừa hưởng,” sự thường trú của “người thừa hưởng” sẽ được tiếp tục đến khi nào Sở Di Trú giải quyết xong đơn của “người thừa hưởng.”

Đơn I-751 phải được nộp với bằng chứng cụ thể chứng minh rằng sự hôn nhân của họ là chân thật. Nếu đương đơn nộp đủ những bằng chứng cụ thể, Sở Di Trú có thể miễn phỏng vấn hai vợ chồng.

Trong trường hợp phỏng vấn được miễn, Sở Di Trú sẽ báo cho “người thừa hưởng” đơn I-751 được chấp thuận và yêu cầu “người thừa hưởng” đến Sở Di Trú gần nhà làm thủ tục cấp thẻ xanh 10 năm.

Nếu Sở Di Trú không hài lòng về những giấy tờ đã nộp, hoặc những giấy tờ nộp còn thiếu, Sở Di Trú sẽ gửi hồ sơ của đương sự đến Sở Di Trú (local) để xếp đặt ngày giờ cho hai vợ chồng đương sự đi phỏng vấn. Ngoài ra vì lý do nội bộ, Sở Di Trú sẽ vẫn phỏng vấn một số ít hồ sơ I-751 dù rằng là bằng chứng cụ thể được đầy đủ.

Nếu Sở Di Trú xét hồ sơ cần phải phỏng vấn, cả hai vợ chồng đương sự phải có mặt ngày phỏng vấn. Phỏng vấn theo mẫu đơn I-751 thường là khó hơn hồ sơ thẻ xanh hai năm theo diện phối ngẫu.

Vì Sở Di Trú sẽ tách rời hai vợ chồng ra và hỏi mỗi người những câu hỏi y như nhau để xem hai vợ chồng trả lời giống nhau hoặc khác nhau. Nếu sự trả lời khác nhau của hai vợ chồng đưa đến sự nghi ngờ hôn nhân chân thật, hồ sơ sẽ bị trì hoãn lại để Sở Di Trú có thể cho sĩ quan điều tra của họ ra tận nhà để điều tra.

Sĩ quan điều tra của Sở Di Trú sẽ liên lạc với những người ở cùng nhà và hàng xóm của đương sự để xem những người ở cùng nhà và hàng xóm có biết “người thừa hưởng” và “người bảo lãnh” có sống chung với nhau như vợ chồng hay không.

Cuộc phỏng vấn của đơn I-751 để được thẻ xanh 10 năm có phần khó hơn cuộc phỏng vấn thẻ xanh hai năm vì Sở Di Trú sẽ tách rời hai vợ chồng ra và hỏi mỗi người những câu hỏi y như nhau để xem hai vợ chồng trả lời giống nhau hoặc khác nhau.

Nếu “người thừa hưởng” hoặc “người bảo lãnh” không đi phỏng vấn chung sau khi được hẹn thì sự thường trú của “người thừa hưởng” sẽ tự động bị chấm dứt (terminated) tính từ ngày thẻ xanh hai năm hết hạn.

Vì lý do đó, nếu “người thừa hưởng” hoặc “người bảo lãnh” không đi phỏng vấn được theo ngày Sở Di Trú đã định, “người thừa hưởng” nên làm đơn yêu cầu Sở Di Trú dời ngày hẹn đi phỏng vấn vào ngày khác khi cả hai vợ chồng có thể đi phỏng vấn chung.

Nếu đơn I-751 bị từ chối, Sở Di Trú sẽ báo cho “người thừa hưởng” biết lý do đơn bị từ chối và Sở Di Trú sẽ chuyển hồ sơ của “người thừa hưởng” qua tòa di trú để tiến hành thủ tục trục xuất.

Thường Sở Di Trú không tiến hành hồ sơ trục xuất ngay sau khi đơn I-751 bị từ chối, cho nên “người thừa hưởng” có thể lợi dụng cơ hội đó để làm mẫu đơn I-751 mới và xin miễn sự đòi hỏi làm đơn chung với “người bảo lãnh.”



Khi “người thừa hưởng” làm mẫu đơn I-751 mới, Sở Di Trú sẽ hoãn sự tiến hành hồ sơ trục xuất để Sở Di Trú có cơ hội xét đơn I-751 mới đó.

Nếu Sở Di Trú quyết định rằng:

1- Sự hôn nhân của hai vợ chồng là hợp pháp theo luật của nơi làm hôn thú.

2- Sự hôn nhân là chân thật.

3- Trong thời gian giá trị thẻ xanh hai năm, hôn thú không bị tòa án bãi bỏ.

4- Không phải trả bất cứ chi phí nào để khuyến dụ hoặc thuyết phục ai để làm đơn bảo lãnh lúc đầu (ngoài tiền luật sư phí để làm hồ sơ bảo lãnh ra), Sở Di Trú sẽ phải chấp thuận đơn I-751 và cấp thẻ xanh 10 năm cho “người thừa hưởng.”

Ðể quyết định rằng sự hôn nhân là chân thật, câu hỏi chính cần trả lời là ý định của hai người lúc lập hôn thú.

Cho nên, nếu hai người thật sự là vợ chồng nhưng sự hôn nhân của hai người không thành (tức là không còn sống với nhau như vợ chồng trong thời gian thẻ xanh hai năm) và hôn thú chưa bị tòa án bãi bỏ, Sở Di Trú có thể chấp thuận đơn I-751 đó.

Nhưng Sở Di Trú có thể nhìn vào sự đổ vỡ hôn nhân của hai người để quyết định về sự chân thật trong hôn nhân của hai người.

Nếu Sở Di Trú biết tin tức khác thường gì về đơn I-751 của hai người, Sở Di Trú phải cho “người bảo lãnh” cơ hội để giải thích. Sau khi “người bảo lãnh” giải thích, nếu Sở Di Trú hài lòng với sự giải thích đó thì Sở Di Trú có thể chấp thuận đơn I-751 đó và nếu Sở Di Trú không hài lòng với sự giải thích thì Sở Di Trú sẽ từ chối đơn I-751 đó.

Khi Sở Di Trú từ chối đơn I-751, Sở Di Trú phải cho biết lý do trên thư từ chối. Khi đơn I-751 bị từ chối, sự thường trú và giấy phép đi làm của “người thừa hưởng” sẽ bị kết thúc. “Người thừa hưởng” không được kháng cáo sự từ chối.

Nhưng thường sau khi đơn I-751 bị từ chối, Sở Di Trú sẽ chuyển hồ sơ qua tòa di trú để tiến hành thủ tục trục xuất. Khi đó “người thừa hưởng” có quyền yêu cầu tòa di trú xét lại đơn I-751 của đương đơn.

Sở Di Trú có bổn phận chứng minh rằng chi tiết trong đơn I-751 không đúng và sự từ chối là hợp pháp. Trong thời gian hồ sơ được tòa di trú xét sử, “người thừa hưởng” được Sở Di Trú cấp giấy tạm chứng minh sự thường trú.

“Người thừa hưởng” không thể nào làm đơn I-751 chung với “người bảo lãnh” nếu hôn nhân đã bị hủy bỏ, “người bảo lãnh” đã qua đời, hoặc “người bảo lãnh” không chịu hợp tác (tức là không chịu ký chung đơn I-751 hoặc không chịu đi phỏng vấn chung với “người thừa hưởng”).

Nếu hai người đã ly thân, hai người vẫn có thể làm đơn I-751 chung với nhau và hồ sơ vẫn có thể được chấp thuận. Vì ly thân không có nghĩa là hôn thú đã bị tòa hủy bỏ.

Trong trường hợp “người thừa hưởng” không thể nào làm đơn I-751 chung với “người bảo lãnh,” “người thừa hưởng” có thể tự mình làm đơn I-751 và xin miễn sự đòi hỏi phải làm chung với “người bảo lãnh.” Sự yêu cầu xin miễn có thể dựa vào một trong ba điều luật miễn trừ.

Ba điều luật miễn trừ là:

1-“Người thừa hưởng” sẽ bị extreme hardship (tức là gian khổ cùng cực) nếu bị trục xuất.

2-“Người thừa hưởng” thật tình đi vào hôn nhân, và hôn nhân đã bị bãi bỏ.

3-“Người thừa hưởng” đi vào hôn nhân chân thật, và trong thời gian hôn nhân, “người thừa hưởng” hoặc con của “người thừa hưởng” bị bạo hành bởi “người bảo lãnh.”

Điều luật miễn trừ thứ nhất – vì gian khổ cùng cực:

Sở Di Trú chỉ được xem xét sự gian khổ cùng cực có thể xảy ra nếu “người thừa hưởng” không được phép ở lại Hoa Kỳ. Sự gian khổ cùng cực này có thể xảy ra cho “người thừa hưởng,” con của “người thừa hưởng” hoặc người phối ngẫu sau này của “người thừa hưởng.” Sở Di Trú chỉ được xem xét những trường hợp gian khổ cùng cực sau khi “người thừa hưởng” được sự thường trú.

Sự chia cách gia đình hoặc khó khăn tài chánh mà thôi không đủ để chứng minh sự gian khổ cùng cực để được miễn. Vì với bất cứ trường hợp trục xuất nào xẩy ra cho bất cứ người nào, đều bị phần nào sự khó nhọc khổ cực, và sự khó nhọc khổ cực đó không đủ để xin miễn nộp đơn I-751 chung với “người bảo lãnh.” “Người thừa hưởng” phải chứng minh rằng sự khó nhọc khổ cực của mình đặc biệt hơn những trường hợp khác.

Điều luật miễn trừ thứ nhì – thật tình đi vào hôn nhân và hôn nhân đã được bãi bỏ:

Trước khi Đạo Luật Di Trú năm 1990 ban hành, điều luật miễn trừ có sự đòi hỏi ly dị phải có lý do chính đáng và “người thừa hưởng” phải là người đưa đơn ly dị. Nhưng sau khi Đạo Luật Di Trú năm 1990 ban hành, những điều kiện đó được loại trừ.

“Người thừa hưởng” hoặc “người bảo lãnh” đưa đơn ly dị đều không có ảnh hưởng xấu cho hồ sơ xin miễn trừ. Người thừa hưởng phải chứng minh họ đi vào cuộc hôn nhân với ý định chân thành.

Sở Di Trú sẽ nhìn vào sự cam kết của hai người bằng cách xem xét các tài liệu, xem xét những bằng chứng về tài chánh khi hai người còn sống chung với nhau, thời gian hai người chung sống sau khi lập hôn thú và thời gian sau khi hồ sơ thẻ xanh hai năm được chấp thuận, và bao lâu sau họ mới ly dị hoặc ly thân; hoặc với bất cứ bằng chứng nào khác. “Người thừa hưởng” phải chứng minh họ đã ly dị hoặc hôn thú đã bị tòa hủy bỏ.

Điều luật miễn trừ thứ ba – sự bạo hành của “người bảo lãnh:”

“Người thừa hưởng” phải chứng minh rằng hôn nhân là chân thật và “người thừa hưởng” hoặc con của họ bị “người bảo lãnh” bạo hành. Điều luật này không có sự đòi hỏi là hai vợ chồng đã ly dị. Sở Di Trú đã minh định rằng sự miễn trừ này dành cho những nạn nhân của “người bảo lãnh” của bất cứ sự hăm dọa nào có tính cách hành hung.

Những sự bạo hành về tâm thần hoặc lạm dụng tình dục, hãm hiếp, bị áp bức làm việc mãi dâm sẽ được coi là bạo hành. Sở Di Trú sẽ chấp nhận bất cứ bằng chứng nào có thể chứng minh sự bạo hành đó. Những chứng minh đó bao gồm có bản báo cáo của bác sĩ hoặc người chuyên môn về tâm thần.

Nếu quý vị bị rơi vào những tình cảnh như tôi đã trình bày trên, quý vị nên liên lạc với một luật sư chuyên nghiệp về di trú, để vị luật sư đó thấu hiểu hết những uẩn khúc, những khúc mắc của luật miễn trừ, hầu giúp quý vị thu thập đầy đủ tài liệu, bằng chứng cụ thể cần thiết, để giúp quý vị hội đủ điều kiện xin miễn làm đơn I-751 chung với “người bảo lãnh” và xin thẻ xanh 10 năm.


Bản tin chiếu khán

Theo yêu cầu của quý bạn đọc, sau đây là bản thông tin chiếu khán cho Tháng Tám, 2017.

Ưu tiên 1 – priority date là ngày 22 Tháng Mười Hai, 2010, tức là ưu tiên được dành cho những người con trên 21 tuổi chưa có gia đình của công dân Hoa Kỳ.

Ưu tiên 2A – priority date là ngày 22 Tháng Chín, 2015, tức là ưu tiên được dành cho vợ, chồng, hoặc con độc thân dưới 21 tuổi của thường trú nhân.

Ưu tiên 2B – priority date là ngày 1 Tháng Mười Một, 2010, tức là ưu tiên được dành cho con độc thân trên 21 tuổi của thường trú nhân.

Ưu tiên 3 – priority date là ngày 8 Tháng Bảy, 2005, tức là ưu tiên được dành cho con đã có gia đình của công dân Hoa Kỳ.

Ưu tiên 4 – priority date là ngày 8 Tháng Năm, 2004, tức là ưu tiên được dành cho anh, chị hoặc em của công dân Hoa Kỳ.

Darren Nguyen Ngoc Chuong, Esq.

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tin Thường Nhật Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân