TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Truyện Xưa Tích Cũ
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Truyện Xưa Tích Cũ

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Mon Mar 16, 2015 7:23 pm    Tiêu đề: Truyện Xưa Tích Cũ
Tác Giả: Truyện Cổ Tich




Chuyện cổ tích : Núi Bà đen



   Ngày xưa, núi Bà Ðen có tên gọi là Núi Một. Trên đó có một tượng Phật bằng đá, rất linh thiêng. Dân chúng rủ nhau chặt cây lá dọn đường lên núi cúng Phật. Người lên núi thường phải đi từng đoàn, vì dọc đường có rất nhiều beo cọp. Có một người con gái tên là Lý Thị Thiên Hương, văn hay võ giỏi, gốc ở Trảng Bàng. Vào mỗi ngày rằm trăng sáng, cô hay lên núi lễ Phật. Trong làng, có chàng trai tên là Lê Sĩ Triệt để ý cô, đem lòng thương mến.
   Vì thấy cô có nhan sắc, một ông quan nọ định dùng võ lực bắt cô đem về làm thiếp. Ông ra lệnh cho một thầy võ thi hành kế gian. Khi cô Lý bị thầy võ kia đánh bại, sắp gặp nạn, thì Lê Sĩ Triệt xông ra cứu thoát. Về nhà, cô thuật truyện lại, được cha mẹ đồng ý gả cô cho chàng trai cứu mạng. Vào lúc ấy, Võ Tánh đang chiêu binh giúp Gia Long đánh nhà Tây Sơn, Lê Sĩ Triệt ra tòng quân. Một hôm, giữa lúc đang chờ chồng trở về đoàn tụ, cô đang cầu khẩn trên núi thì có một bọn cướp đến vây bắt. Cô chạy thoát vào rừng trốn, rồi mất tích luôn.
   Sang đời vua Minh Mạng, có một vị hoà thượng trụ trì trên núi Tây Ninh ngày kia đang niệm Phật, bỗng thấy một người con gái mặt đen nhưng xinh đẹp hiện ra nói văng vẳng: "Ta đây họ Lý, khi 18 tuổi bị rượt bắt nên té xuống hố chết.

Nay ta đã đắc quả, xin Hoà Thượng xuống triền núi phía Ðông Nam tìm thi hài ta mà chôn cất dùm". Vị hoà thượng này y lời, đi tìm xác cô, đem về chôn cất.
   Câu chuyện đồn đãi ra tới tai Thượng Quốc Công Lê Văn Duyệt. Ông bèn lên núi tìm hiểu hư thực, và hứa dâng sớ về triều phong chức cho cô gái họ Lý này, nếu cô linh hiển cho ông thấy tận mắt sự thật. Cô bèn nhập vào xác một đưá con gái, nói rằng: "Hồn của thượng quan sau này sẽ được chức thần kỳ vinh hiển, nhưng xác của thượng quan sẽ bị hành hạ". Lê Văn Duyệt nói: "Bổn chức không cầu xin cho biết tương lai mình, mà chỉ muốn biết rõ căn nguyên của nàng". Xác cô gái rơi nước mắt, kể lại câu chuyện chết oan ức của mình, và nhắc lại duyên nợ tiền định với chàng Lê Sĩ Triệt.
   Theo lời kể, sau khi Võ Tánh tự hoả thiêu ngày thành Bình Ðịnh thất thủ, Lê Sĩ Triệt được phong chức chỉ huy 2 tỉnh Khánh Hoà và Bình Thuận. Hai người vì chưa sống chung chạ nhau, nên được trường sinh bất tự Nhờ vậy, nàng trở thành tiên thánh, xuống cõi trần thế để cứu nhân độ thệ Kể dứt lời, cô gái nọ té nhào, bất tỉnh hồi lâu mới dậy. Lê Văn Duyệt đã thay mặt vua, phong cho cô Lý thị Thiên Hương chức vị "Linh Sơn Thánh Mẫu", ngự ở Núi Một, tức là núi Bà Ðen ngày nay ở Tây Ninh. Núi Bà Ðen nổi danh là một địa thế linh hiển, kỳ bí, nhiều phép lạ, khó ai giải thích được.



* * * * *


Sự tích trái sầu riêng


...Dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu-rên"bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác.

Ngày xưa, vào hồi Tây Sơn khởi nghĩa, có một chàng trai người vùng Đồng Nai, có tài cả văn lẫn võ, đã vung gươm hưởng ứng sự bất bình của thiên hạ. Chàng từng cầm quân mấy lần đánh cho tan tác thầy trò chúa Nguyễn.

Nhà Tây Sơn mất, Gia Long vừa thắng thế trên đất nước Việt thì cũng bắt đầu giết hại những người từng theo nhà Tây Sơn.

Nhân dân trong xóm quý mến chàng, khuyên chàng trốn đi thật xa. Họ giúp tiền gạo và mọi thứ cần dùng, trong đó có cả một chiếc thuyền nhỏ để tiện đi lại. Và chàng ra đi. Ngược dòng sông Cửu Long, chàng tiến sâu vào nước Chân Lạp.

Một hôm, chàng dừng thuyền, lên bộ để mua sắm thức ăn. Chàng bước vào một cái quán bên đường. Trong quán có một bà mẹ ngồi ủ rũ bên cạnh một cô gái nằm mê man bất tỉnh. Đó là hai mẹ con đi dâng hương trên núi Tà-lon, về đến đây thì người con bị ốm nặng. Vốn có biệt tài về nghề thuốc, chàng đã cứu chữa cho cô gái khỏi bệnh. Sẵn có thuyền, chàng chở họ về tận nhà.

Cô gái đem lòng quyến luyến chàng. Sau một tuần chay tạ ơn Trời, Phật, mẹ nàng cho biết là Phật đã báo mộng cho hai người lấy nhau. Chàng vui mừng nhận lời và từ đó hai vợ chồng làm ruộng, nuôi tằm, xây dựng gia đình đầm ấm.


Mười năm thoảng qua như một giấc mộng. Hai vợ chồng quấn quýt nhau như đôi chim câu. Trong vườn nhà vợ có một cây ăn quả gọi là cây "tu-rên" mà ở xứ sở chàng không có. Mùa trái chín đến, vợ bổ một trái đưa cho chồng ăn. Trái "tu-rên" vốn có một mùi khó chịu. Thấy chồng nhăn mặt, vợ bảo:
- Anh ăn sẽ biết nó đậm đà như lòng em đây.

Không ngờ một ngày kia, vợ đi dâng hương Đế Thiên, Đế Thích về thì ngộ cảm. Chồng cố công chạy chữa nhưng không sao cứu kịp. Cái chết chia rẽ cặp vợ chồng một cách đột ngột. Không thể nói hết cảnh tượng đau khổ của người chồng. Tuy cách trở âm dương, nhưng hai người vẫn gặp nhau trong mộng. Chồng hứa trọn đời sẽ không lấy một ai nữa. Còn hồn vợ thì hứa không lúc nào xa chồng.

Nghe tin Gia Long đã thôi truy nã những người thù cũ, bà con ở quê nhà nhắn tin lên bảo chàng về. Những người trong xóm cũng khuyên chàng tạm đi đâu cho khuây khỏa. Chàng đành từ giã quê hương thứ hai của mình. Trước ngày lên đường, vợ báo mộng cho chồng biết sẽ đi theo cho đến sơn cùng thủy tận. Năm ấy, cây "tu-rên" tự nhiên chỉ ra mỗi một trái. Trái "tu-rên" ấy lại tự nhiên rụng vào vạt áo chàng giữa lúc chàng ra thăm cây kỷ niệm của vợ. Chàng mừng rỡ, quyết đưa nó cùng về xứ sở.

Chàng lại trở về nghề dạy học, nhưng nỗi riêng canh cánh không bao giờ nguôi. Chàng đã ương hạt "tu-rên" thành cây, đem trồng trong vườn, ngoài ngõ. Từ đấy ngoài công việc dạy học, chàng còn có việc chăm nom cây quý.

Nhưng cây "tu-rên" của chàng ngày một lớn khỏe. Lại mười năm nữa sắp trôi qua. Chàng trai ngày xưa bây giờ tóc đã lốm đốm bạc. Nhưng ông thấy lòng mình trẻ lại khi những cây mà ông bấy lâu chăm chút nay bắt đầu khai hoa kết quả. Ông sung sướng mời họ hàng, làng xóm tới nhà nhân ngày giỗ vợ và nhân thể thưởng thức một thứ trái lạ chưa hề có ở trong vùng.

Khi những trái "tu-rên" được bưng ra đặt trên bàn, mọi người thoáng ngửi thấy một mùi khó chịu. Chủ nhân biết ý, đã nói đón: "... Nó xấu xí, có mùi khó chịu, nhưng chính những múi của nó ở trong lòng lại đẹp đẽ, thơm tho như mối tình đậm đà của đôi vợ chồng son trẻ...". Ông ta vừa nói vừa bổ những trái "tu-rên" chia từng múi cho mọi người cùng nếm. Đoạn, ông ta kể hết câu chuyện tình duyên xưa mà từ khi về đến nay ông đã cố ý giấu kín trong lòng. Ông kể mãi, kể mãi. Khi kể xong, ở khóe mắt con người chung tình ấy, hai giọt lệ long lanh tự nhiên nhỏ vào múi "tu-rên" đang cầm ở tay. Hai giọt nước mắt ấy sôi lên trên múi "tu-rên" như vôi gặp nước và cuối cùng thấm vào múi như giọt nước thấm vào lòng gạch.

Sau đám giỗ ba ngày, người đàn ông ấy bỗng không bệnh mà chết. Từ đấy, dân làng mỗi lần ăn thứ trái đó đều nhớ đến người gây giống, nhớ đến chuyện người đàn ông chung tình. Họ gọi "tu-rên"bằng hai tiếng "sầu riêng" để nhớ mối tình chung thủy của chàng và nàng. Người ta còn nói những cây sầu riêng nào thuộc dòng loại hạt có hai giọt nước mắt của chàng mới là thứ sầu riêng có trái ngon và thơm hơn các thứ khác./.

Net

Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Apr 01, 2015 4:00 pm    Tiêu đề: Chuyện Xưa Tích Cũ


Chuyện Tô Đông Pha và Phật Ấn


Tô Đông Pha là một nhà văn lỗi lạc một thời ở Trung Quốc và là một Phật tử mộ đạo. Ông thường đàm đạo Phật pháp với thiền sư Phật Ấn. Do tính tài hoa trong thi ca và văn chương, nên ông thường xem mình giỏi hơn người. Một hôm ông ngồi thiền với thiền sư Phật Ấn. Ông cảm thấy khoan khoái trong tâm, nên hỏi thiền sư:

- Ngài thấy dáng ngồi của tôi như thế nào?

Phật Ấn trả kời:

- Rất trang nghiêm, giống một vị Phật.

Tô Đông Pha nghe xong cảm thấy hết sức khoái chí. Thiền sư tiếp đó hỏi Tô Đông Pha:

- Học sĩ ! Ông xem thế ngồi của tôi như thế nào?

Đã từ lâu, Tô Đông Pha muốn tìm cơ hội để đùa cợt thiền sư, bởi vì trong quá khứ, ông đã bị thiền sư điểm đúng cái bệnh tự cao tự đại nên ông lập tức trả lời:

- Giống một đống phân bò.

Ông rất tự đắc rằng mình đã thắng thiền sư keo này, mình cao thượng và giải thoát hơn cả thiền sư. Khi về nhà, ông khoe với cô em gái ông về chuyện ấy. Cô em gái bảo rằng:

- Anh đã thua thiền sư rồi! Tâm thiền sư có Phật nên thấy anh là Phật. Tâm anh chứa đống phân bò nên thấy thiền sư là đống phân bò.

Tâm ta trong sáng thì suy tư và lời nói của ta cũng trong sáng. Tâm ta xấu xa, ô nhiễm thì suy tư và lời nói của ta cũng xấu xa, ô nhiểm.


---oo0oo---


KHỞI NGUYÊN CỦA CON RẬN
 Mai Tâm


Tô Đông Pha và Tần Thiếu Du là hai anh tài văn học thời Tống, họ thường giao du trò chuyện và bàn đủ chuyện - đặc biệt là chẳng ai nhường ai.

Lần nọ ở quán, hai người định dùng cơm thì thấy một người đi ngang qua, anh này lâu ngày chẳng tắm nên rận bò khắp cả người. Đông Pha lên tiếng:

- Bẩn quá! Thân thể dơ bẩn nên sinh ra chấy rận đấy!

Thiếu Du phản đối:

- Không phải! Rận là từ sớ bông, vải sinh ra đấy.

Cả hai bèn cho là mình đúng, chẳng ai nhận ý kiến ai, sau cùng họ đồng ý nhờ đến thiền sư Phật Ấn. Tô Đông Pha tin chắc là mình phải. Tần Thiếu Du nôn nóng muốn ngã ngũ, cả hai không hẹn mà cùng gặp Phật Ấn, nhờ luận giải quan điểm của mình. Thiền sư đồng ý.

Sau khi nghe vị thiền sư giảng giải, trong lòng đã có ý niệm, họ bình tĩnh lại - mỗi người đều thấy là mình có lý. Và Phật Ấn lại nói:

- Cái đầu con rận là từ ô uế sinh ra, còn chân cẳng nó lại do các sớ bông mà có!

Chẳng biết Tô, Tần nghĩ thế nào, Phật Ấn ngâm tiếp:

Gió xuân thổi đến cây đôi nhánh
Một nhánh nồng lên, nhánh lạnh lùng
Trước mắt một cành đang vớ vẩn
Một nhánh về Tây, một nhánh Đông!
Đông Pha và Thiếu du nghe xong mỉm cười, dứt đi mối hoài nghi. Họ lại nhận thêm bài học Thiền. Theo Nhất Vị Thiền. TQ. TN.
xb.1994

Phiếm luận:
Thời Tống, cách nay cả nghìn năm thì chuyện khởi nguyên của con rận đáng là đề tài bàn luận.

Theo nhà phật, mọi sinh thể hiện hữu đều do nhiều yếu tố cấu thành, gọi là nhân duyên. Ở đây, mỗi nhà thơ chỉ đứng ở một khía cạnh mà quán sát nên họ không chấp nhận nhau là phải. Tô và Tần đều thuộc giới khoa học xã hội, nhưng quan điểm lại rất khoa học tự nhiên. Trớ trêu thay, câu chuyện lại phải nhờ đến thiền sư phân giải.

A! Triết gia Descartes há không phải là Tổ sư của các nhà khoa học đó sao?


---oo0oo---


Chuyện Tô Đông Pha Và Thiền Sư Phật Ấn


...Tô Đông Pha là một nhà thơ lớn vào thời Tống ở Trung Quốc, được mệnh danh

là bát đại Đường Tống. Có thời làm quan ở Thiểm Tây và Hàng Châu. Ông cũng rất
hâm mộ đạo phật và tự xem mình như một phật tử. Ông và thiền sư Phật Ấn là đôi bạn thân. Hai người thường xuyên đàm đạo về Đạo Phật và thơ phú. Sách Thiền tông lục
có chép một câu chuyện về tánh Ngã mạn của Tô Đông Pha :
Phật Ấn là một thiền sư rất lỗi lạc. Chùa của Phật Ấn ở bờ tây sông Dương Tử, trong khi nhà của Đông Pha ở bờ phía đông. Một hôm Tô Đông Pha đi thuyền sang thăm Phật Ấn, nhưng không có thiền sư ở nhà. Đông Pha bèn viết một bài thơ để lại như sau:
Đảnh lễ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong tâm bất động (*)
Hoa sen tím ngồi yên.

ý muốn khoe với Pháp Ấn mình cũng tu đạt đến mức” Đối cảnh vô tâm” và ghi thêm
một câu có ý bông đùa: Tô Đông Pha là một Phật Tử vĩ đại dù có tám ngọn gió thổi cũng chẳng động được. để thơ lại rồi về. Hôm sau Pháp Ấn đi chơi về đọc thơ của Tô Đông Pha để lại, xem xong ông mỉm cười rồi phê vào bên dưới : Nhảm nhí ! Những gì mà ông viết chẳng hơn một phát rắm. Rồi sai đệ tử đem tờ giấy đó qua trả cho Đông Pha. Tô Đông Pha thấy thiền sư Phật Ấn lăng mạ mình thì nổi giận, tức tốc sai lính chèo thuyền qua sông để hỏi Phật Ấn. Khi Đông Pha qua tới, thấy Phật Ấn liền la lên:
- Ông có quyền gì mà thóa mạ tôi bằng lời lẽ như vậy? Quen biết tôi lâu ngày mà chẳng lẽ ông mù quáng đến thế sao?
Phật Ấn lặng lẽ quan sát họ Tô rồi mỉm cười nói:
-Tô Đông Pha, một Phật tử vĩ đại mà tám ngọn gió không lay động được, thế mà giờ đây chỉ một phát rắm cũng đủ thổi ông ta bay qua sông đến tận bờ bên này.
Tô Đông Pha nghe lời nói đó xong thì bất ngờ, đứng sững khá lâu và tỉnh ngộ.
Đó là thiền sư Phật Ấn dùng cái mưu chước ấy để thức tỉnh Tô Đông Pha về cái tánh ngã mạn của mình, để Họ Tô đến gần với giáo lý của Phật..

(*) Tám ngọn gió là: Được, Mất, Thắng , Thua, Khen, Chê, Vinh, Nhục...

Nguồn Net


Được sửa bởi nhungocnguyen ngày Wed Apr 01, 2015 4:19 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Apr 01, 2015 4:17 pm    Tiêu đề: Chuyện Xưa Tích Cũ


Tư Mã Thiên, một sử gia danh tiếng bị cung hình


   Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
Hồi còn nhỏ, Tư Mã Thiên đã thông cổ văn. Năm 20 tuổi, ông đi chu du khắp nước, khảo sát về địa lý, phong tục từng miền, gặp di tích nào cũng dừng bước để nghiên cứu. Phàm những cảnh kỳ quan cùng quê hương các vĩ nhân, ông đều để chân đến.
Lãng du một thời gian khá lâu, Tư Mã Thiên trở về được phong làm chức Lang trung (quan hầu cận vua). Trước khi cha mất có trối lại với ông:
- Nếu cha có qua đời, con hãy nối tiếp lấy chí của cha để tâm vào việc soạn sử. Cái đạo hiếu của con người là phải thờ vua, thờ cha nhưng việc trọng yếu lớn hơn là phải làm một việc gì có ích cho đời, sau để cho cha mẹ được tiếng thơm lây ...
Sau khi Tư Mã Đàm qua đời, ông nối chức cha làm Thái sử. Ông quyết thực hiện lời di chúc của cha; và cũng bắt đầu từ đó, ông sắp xếp tài liệu, khởi công viết pho "Sử ký".
Nhưng một bất ngờ xảy ra :
Lúc bấy giờ có giặc Hung Nô rất mạnh đánh vào biên thùy. Lý Lăng là một võ tướng anh hùng vâng lịnh vua Hán đem binh dẹp giặc. Quân của Lý chỉ có 5 ngàn mà phải giao phong với 8 vạn quân địch. Lý Lăng bị bao vây mà không được quân tiếp viện. Ông can đảm chống cự không nổi, bị giặc bắt. Mến tài năng, giặc Hung Nô dụ dỗ đầu hàng. Lý Lăng bất đắc dĩ tạm thời đầu hàng để bảo toàn sinh mạng mình và quân lính hầu chờ thời cơ rửa nhục.
Tin về đến triều đình, có kẻ gièm pha với vua Võ Đế bảo ông phản quốc. Nhà vua cả giận ra lịnh tru di ba họ của Lý Lăng.
Tư Mã Thiên biết Lý Lăng là tôi trung nên đứng ra binh vực Lý giữa triều. Vua Võ Đế bất bình, nổi giận bắt ông hạ ngục và xử cung hình (hoạn hay thiến). Đó là một trong những tội nhục nhã nhứt ngày xưa. Theo luật lệ, ông có thể bỏ tiền ra chuộc tội, nhưng ông vốn nghèo mà bạn bè khôn ai có lòng nghĩa hiệp dám ra mặt giúp vì sợ vua ghét lây.
Bị tội cung hình, Tư Mã Thiên cho đó là một điều sỉ nhục ghê gớm, trong thâm tâm muốn tự sát; nhưng nhớ lại chưa hoàn thành được lời di chúc của cha, nên thấy bổn phận mình trong lúc này là phải sống để nối nghiệp cha, nối chí người trước... Vì nghĩ như thế nên ông can đảm nhận lấy hình phạt; rồi từ đó ông kiên nhẫn nằm trong ngục tù, dùng những ngày sống thừa để hoàn thành bộ Sử ký.
Trong bài tựa bộ này, ông tự ví với các thánh hiền đời trước:
"Ông Thái sử gặp cái họa Lý Lăng, bị giam trong cảnh xiềng xích, bùi ngùi than rằng: "Đó là lỗi của ta ư? Đó là lỗi của ta ư? Thân ta bị hủy không dùng được nữa". Rồi mà nghĩ kỹ lại rằng: "Những lời nói bóng bẩy trong kinh Thi, kinh Thư là để diễn cái chí của cổ nhân. Hồi xưa Tây Bá bị giam trong ngục Dữu Lý mà viết Chu Dịch; Khổng Tử bị nguy ở Trần, Sái mà soạn Xuân Thu; Khuất Nguyên bị phóng mà làm Thiên Ly Tao; Tả Khâu mù mới có bộ Quốc Sách; Tôn Tử què chân mới bàn về binh pháp; Bất Vi phải đày qua Thục mà bộ Lã Thị truyền lại đời sau; Hàn Phi bị tù ở Tần mới có hai thiên thuyết nạn, cô phẫn; 300 thiên trong kinh Thi đại để là thánh hiền phát phẫn mà làm ra. Những vị đó đều có nỗi uất kết, không nói rõ được lòng mình nên thuật việc mới kể từ Đào Tường đến đời Lâm Chỉ bắt đầu từ đời Hoàng Đế (*)"
Sau khi ra khỏi ngục, Tư Mã Thiên đã trở thành người tàn phế, đời không còn thấy chút thú vị gì. Có lẽ cũng vì thương tình và hối hận nên Võ Đế thăng cho ông lên chức Trung thư lịnh. Nhưng lòng ông vẫn cảm thấy buồn chán, không tha thiết gì đến danh lợi, việc đời, chỉ chuyên tâm biên soạn bộ Sử ký mà thôi.
Nhờ chí kiên quyết nên Tư Mã Thiên đã hoàn thành được một bộ sử ký có giá trị của nước Trung Hoa. Cho đến ngày nay, có non hơn hai ngàn năm, ai cũng nhận "Sử ký " là một công trình sáng tác vĩ đại. Và, ai cũng lấy làm khâm phục tài năng và ý chí kiên nhẫn có một không hai của Tư Mã Thiên.
Bộ "Sử Ký " gồm 130 thiên, có 526.500 chữ.
Về phương diện sử học, nó có bốn đặc điểm:
- Là bộ sử đầu tiên chép việc nhiều đời, không như những bộ sử trước chỉ chép riêng một đời: Xuân Thu hoặc Chiến Quốc.
- Tác giả trọng niên đại (chronologie). Sử gia trước ông không theo một qui tắc nào nhứt định trong sự kê niên đại (trừ bộ Xuân Thu của Khổng Tử, nhưng bộ này chỉ chép việc trong một thời đại). Đến ông mới lập ra niên biểu của 12 nước chư hầu và niên biểu của các lục quốc.
- Tác giả không những chép những hành vi của vua chúa còn ghi cả văn hóa như lễ, nhạc, triết học, văn học...
- Thái độ của tác giả rất thành thực: điều nào chưa nghiên cứu rõ thì tồn nghi. Nếu có nhiều thuyết bất đồng thì kể hết.
Tư Mã Thiên vốn người học rộng, lịch duyệt nhiều, lại có tâm hồn cao thượng, thêm mang một nỗi lòng u uất nên lời văn của ông tuy bình dị mà hùng mạnh, siêu dật, nhiều khi bóng bẩy, thắm thiết. Nó phát tự lòng phong phú cũng như tự óc nên gợi cảm người đọc rất sâu xa.

Nguồn Net
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sun May 03, 2015 6:24 pm    Tiêu đề: Con Quốc Quốc


Điển Tích Hay Lạ : Con Quốc Quốc


Con "Quốc quốc" vốn là chim Cuốc. Tiếng "quốc quốc" do cách tá âm "cuốc cuốc" mà ra. Trong bài "Qua đèo Ngang" của bà huyện Thanh Quan, có câu:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Chim Cuốc còn có tên là Đỗ Quyên, Tử Quy hay Đỗ Vũ. Giống chim này, đầu mỏ hơi cong, miệng to đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối xuân sang hè thì bắt đầu kêu. Giọng thê thảm khiến khách lữ hành động lòng nhớ nhà, nhớ quê hương.
Chim này không tự làm tổ lấy, đẻ trứng vào ổ chim Oanh. Chim Oanh ấp, nuôi cho đến lớn.

Sự tích chim Cuốc có nhiều thuyết.

Có điển cho rằng vua nước Thục là Đỗ Vũ thông dâm với vợ một bề tôi là Biết Linh, Biết Linh dấy loạn. Vua Thục thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng. Đoạn này sách "Thành đô ký" lại nói: Vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết Linh biết chuyện, bày kế cho vợ nói khích Đỗ Vũ nhường ngôi cho Biết Linh rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước đi, để sống cho trọn tình chung. Đỗ Vũ nghe theo, giao nước cho Biết Linh nhưng vợ Biết Linh bây giờ bỏ Đỗ Vũ, trở lại sống cùng chồng.
Buồn khổ, nhớ nước, sau thác, Thục đế hóa thành chim Đỗ Quyên, ngày đêm kêu mãi không thôi.

Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du đoạn tả về khúc đàn của Kiều gảy cho Kim Trọng nghe lúc tái hợp, có câu:
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình Đỗ Quyên.

Lại cũng có điển chép: Thục đế An Dương Vương của nước ta (207 trước D.L.?), vì con gái là Mỵ Châu bị lừa, trao nỏ thần cho chồng là Trọng Thủy nên phải thua trận và nhảy xuống biển tự tử. Vì nhớ nước nên hóa thành chim Cuốc, ngày đêm kêu lên những tiếng não ruột.

Thuyết sau này e không đúng. Vì tiếng "Đỗ Quyên", "Đỗ Vũ" nguồn gốc vốn ở Trung Hoa.
Thật không có tiếng gì kêu bi thảm, não ruột cho bằng tiếng chim Cuốc. Những buổi trưa hè nắng chang chang hay những đêm hè tịch mịch, tiếng chim Cuốc trong những bụi rậm hay trong bụi niễng dưới đầm vọng lên làm lòng người cảm thấy bi ai một cách lạ lùng. Nó gợi lên được sự nhớ nhung một thời oanh liệt xa xôi nào; có khi nó thúc giục và làm bừng dậy cái tinh thần ái quốc nồng nàn đương tiềm tàng trong lòng người dân thời nước mất nhà tan.

Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển về chim Cuốc.
Trần Danh An, một di thần nhà Lê (1428-1788), nghe tiếng Cuốc kêu cũng cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh, một công nghiệp dựng nước của Thái Tổ, tài đức Thái Tông... Hôm nay, Chiêu Thống hèn nhát, họ Trịnh chuyên quyền, lòng ái quốc thiết tha sống động trong tâm hồn thi sĩ; nhưng thi sĩ cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc nên đành gói ghém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:

   Giá cô tại giang Nam
   Đỗ Quyên tại giang Bắc
   Giá cô minh gia gia
   Đổ Quyên minh quốc quốc.
   Vi cầm do hữu quốc gia thanh,
   Cô thần đối thử tình vô cực.

   Nghĩa:
   Chim giá cô ở bờ sông Nam,
   Chim Đỗ Quyên ở bờ sông Bắc,
   Giá cô kêu gia gia,
   Đỗ Quyên kêu quốc quốc
   Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
   Cô thần đối cảnh tình man mác.

Bà huyện Thanh Quan khi qua đèo Ngang đã mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm trạng thầm kín của mình đối với công nghiệp của triều Lê đã mất:
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.

Nhưng tiếng Cuốc ở đây lại càng lâm ly, não nùng hơn nữa
Đứng trước thành Cổ Loa, xưa kia nơi đây là cung miếu của vua Thục, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa kia tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì ngày nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã.

... Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt,
Trăng mờ khắc khoải Cuốc kêu thâu
(Bản dịch của Tiền Đàm)
Nguyên văn:
... Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu,
Đỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm.

Tiếng Cuốc của quan Án Chu Mạnh Trinh tuy có não nuột thật nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi đát bằng tiếng Cuốc kêu của cụ Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Cụ Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng một người dân tha thiết yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một mối đau buồn uất hận của tác giả vì nỗi bất lực trước cảnh đen tối của thời cuộc. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm thôi thúc tác giả xông pha vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:

Khắc khoải sâu đưa giọng lửng lơ,
Ấy hồn Thục đế thác bao giờ.
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đừng gọi?
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó?
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.

Mượn tiếng Cuốc kêu để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương Việt Nam.
"Thục đế", "Đỗ Quyên", "Quốc quốc" đều do điển tích trên. (Net)


----oo0oo---


Ðiển Tích Truyện Kiều

ẤY hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên

       "ẤY HỒN THỤC §Ế HAY MÌNH ÐỖ QUYÊN". "Ðỗ Quyên" là một loại chim cũng còn gọi là Tử Quy, tiếng nôm na là chim Cuốc. Ðầu mỏ chim hơi cong, miệng to, đuôi dài, lông lưng màu tro, bụng trắng có một đường đen thẳng ngang. Nó thường lủi trong bụi rậm, dưới ao sâu hoặc hồ rộng. Cuối Xuân sang Hè thì bắt đầu kêu vào đêm trăng mờ tịch mịch ở nông thôn. Giọng kêu buồn thảm, gợi lòng lữ khách nhớ nhà, nhớ quê hương.

       "Thục Ðế" là vua nước Thục tên Ðỗ Vũ thấy vợ của một bề tôi là Biết Linh, người rất đẹp nên tìm cách thông dâm. Tức giận, Biết Linh dấy loạn, đem quân đánh phá kinh thành. Thục Ðế thất bại, mất ngôi, chạy trốn vào rừng, khổ sở quá rồi chết. Ðoạn này, sách "Thành đô ký" chép có khác là vua Thục thông dâm với vợ Biết Linh. Biết chuyện, Biết Linh bắt buộc vợ nói khích vua Thục nhường ngôi cho Biết Linh, rồi cùng vợ Biết Linh bỏ nước ra đi để sống cho trọn tình chung thuỷ. Thục Ðế say mê vợ Biết Linh quá, thà mất ngôi vàng hơn mất người đẹp nên nghe theo. Nhưng thảm cho Thục Ðế đã mất ngai vàng cuốn theo mất người đẹp, vì vợ của Biết Linh quay trở lại sống với chồng.

       Nhục nhã, buồn tủi, vào rừng ở, nhớ ngai vàng, nhớ nước, Thục Ðế chết hoá thành chim Ðỗ quyên ngày đêm kêu "cuốc, cuốc" hay "quốc, quốc" (nước, nước). "Quốc, quốc" do tá âm "cuốc, cuốc".

       Trong bài "Qua đèo Ngang" của Bà huyện Thanh Quan, có câu:

Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

       Thi ca cổ điển Việt Nam dùng rất nhiều điển tích về hai chim này.

       TRẦN DANH ÁN, MỘT DI THẦN NHÀ HẬU LÊ (1423- 1788), NGHE TIẾNG CUỐC KÊU CŨNG cảm xúc, nhớ lại một triều đại hưng thịnh... mà cuối cùng vua Lê Chiêu Thống lại hèn nhát đầu hàng ngoại quốc, khiến lòng ái quốc tha thiết sống động trong tâm hồn thi sĩ, nhưng cảm thấy mình bất lực trước thời cuộc, nên đành gói gém tâm sự di thần của mình trong mấy vần thơ:

Giá cô tại giang Nam
Ðỗ Quyên tại giang Bắc
Giá cô minh gia gia
Ðỗ Quyên minh quốc quốc
Vi cầm do hữu quốc gia thanh
Cô thần đối thử tình vô cực

   Nghĩa:

Chim Giá cô ở bờ sông Nam
Chim Ðỗ Quyên ở bờ sông Bắc
Giá cô kêu gia gia
Ðỗ Quyên kêu quốc quốc
Chim nhỏ còn kêu tiếng nước nhà
Cô thần đối cảnh tình man mác!

       Ðứng trước thành Cổ Loa, xưa nơi đây là cung miếu của vua Thục An Dương Vương, nhà thơ Chu Mạnh Trinh bất giác sinh lòng hoài cổ. Cung miếu đó, xưa tráng lệ huy hoàng bao nhiêu thì nay điêu tàn quạnh quẽ bấy nhiêu. Trong cảnh vắng vẻ lạnh lùng này, dưới ánh trăng mờ nhạt, tiếng Cuốc khắc khoải năm canh vọng lên buồn bã:

Tịch mịch tiền triều cung ngoại miếu
Ðỗ Quyên đề đoạn nguyệt âm âm

   Nghĩa:

Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mở khắc khoải Cuốc kêu thâu

       Tiếng Cuốc của Chu Mạnh Trinh tuy có não ruột, nhưng chưa sâu xa thấm thía và bi ai bằng tiếng Cuốc của nhà thơ Yên Ðổ Nguyễn Khuyến. Tiếng Cuốc của Nguyễn là tất cả tiếng nói của lòng, của một người dân yêu nước bị mất nước. Tiếng Cuốc đó còn nói lên một nỗi đau buồn, uất hận của tác giả vì bất lực trước cảnh đen tối của đất nước bị nạn ngoại xâm. Và, đó cũng là tiếng nói của lương tâm đương thôi thúc của tác giả xông vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc:

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ
ẤY hồn Thục Ðế thác bao giờ
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?
Ban đêm ròng rã kêu ai đó
Giục khách gian hồ dạ ngẩn ngơ!

       Mượn tiếng Cuốc kêu hay Ðỗ Quyên, hay Thục Ðế... để diễn tả tâm sự của một người dân vong quốc vẫn là một thông lệ trong văn chương.

Khúc đâu êm ái xuân tình
ẤY hồn Thục Ðế hay mình Ðỗ Quyên

       Lẽ tất nhiên khúc đàn của Kiều ở đây không phải để tỏ lòng nhớ nước, mà là lòng thương tiếc thời tuổi trẻ với mối tình xuân nồng nàn thâm thuý ở buổi đầu "có phải tiếc xuân mà đứng gọi..."

       Khúc đàn "đầm ấm dương hoà" lâng lâng mơ màng đến nỗi tưởng "mình hoá làm bướm hay bướm hoá làm mình" qua một cơn mộng đẹp. Ðoạn kế tiếp, khúc đàn êm ái xuân tình cũng lâng lâng mơ màng, không biết phải Thục Ðế hoá thành Ðỗ Quyên hay Ðỗ Quyên hoá làm Thục Ðế. Tác giả mượn hư nói thực, mượn thực nói hư.

       Trên là tính chất của bản đàn.

       Tiếp đến, tác giả tả tính chất của tiếng đàn.

       Tiếng đàn rất trong và rất ấm.

Trong sao châu rỏ duềnh quyên
ẤM sao hạt ngọc Lam Ðiền mới đông

       Tiếng đàn sao mà trong trẻo thế. Trong như hạt châu rỏ xuống vung nước (duềnh) đẹp (quyên) của đêm trăng. Hạt châu đã trong rỏ nước xuống dưới ánh trăng trong càng trong thêm. Cũng như hạt châu, tiếng đàn như hạt châu rỏ xuống duềnh quyên với một âm điệu trong sáng, êm ái, nhẹ nhàng.

       Tiếng đàn ấm là tiếng đàn còn dư sức ngân mà chỉ ngân vừa chừng để dư âm lại sau. Tác giả cụ thể hoá sức ấm của tiếng đàn, ví như hạt ngọc Lam Ðiền mới đông.

       Phê bình tiếng đàn, người ta thường cho rằng: tiếng đàn trong là tiếng đàn của người nhàn nhã, thanh tao; tiếng đàn ấm là tiếng đàn của người có hậu tức là có tướng tốt đẹp. Tác giả muốn tiếng đàn của Kiều, tỏ ra lúc này là tiếng đàn của người được hưởng thụ hạnh phúc sau 15 năm chịu cảnh đoạ đày, thuyết minh một định luật "bĩ cực thái lai", khác những khúc đàn trước!

       Một điều cần tìm hiểu thêm- cũng như một số nhà nghiên cứu "Truyện Kiều"- là tác giả đã dịch thoát ý một số câu trong bài thơ "Cẩm SẮT" CỦA LÝ THƯƠNG ẨN ĐỜI NHÀ Ðường

       Nguyên bài thơ "Cẩm sắt" có 8 câu:

Cẩm sắt vô đoan ngũ thập huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên
Trang sinh hiểu mộng mê hồ điệp
Thục Ðế xuân tâm thác Ðỗ Quyên
Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam Ðiền nhựt noãn ngọc sinh yên
Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ vãng nhiên

   Nghĩa:

Cẩm sắt năm mươi chẵn sợi mành
Mỗi dây một trụ nhớ ngày xanh
Mơ màng bướm lẫn Trang sinh mộng
áo não quyên kêu Thục Ðế tình
Thương hải lệ châu trăng chiếu suốt
Lam Ðiền hơi ngọc nắng hun thành
Tình này đợi nhớ trong mai hậu
Chán nản giờ đây khổ nỗi mình
(Bản dịch của Bửu Cầm và Tạ Quang Phát)

       Như vậy, ta thấy tác giả Truyện Kiều không mượn ý của toàn bài mà chỉ mượn có 4 câu (thứ ba, tư, năm, sáu). Tại sao chỉ lấy 4 câu?

       Ðây là một dụng ý sâu xa của tác giả........

       Theo Ðiển Tích Truyện Kiều

  (Nguồn Net)
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sun May 03, 2015 6:42 pm    Tiêu đề: Thành Cát Tư Hãn và Con Chim ưng


Thành Cát Tư Hãn và con chim ưng

--------------------------------------------

Thành Cát Tư Hãn (1162 – 1227), tên Mông Cổ là Thiết Mộc Chân là một Khản Hãn (tương đương với Hoàng Đế) của Mông Cổ, được truy xưng Nguyên Thái Tổ ở Trung Quốc, còn với thế giới xem ông như là một đại đế không kém gì A Lịch Sơn Hoàng đế (Alexandre Đại Đế). Cuộc đời ông luôn chinh chiến gắn bó trên lưng ngựa từ một người chiến binh bình thường đến một vị đại đế có những chiến công chói lọi khiến các quốc gia thời bầy giờ nhắc đến tên ông đều phải khiếp sợ.
Ông có tính cánh rất mạnh mẽ, quật cường, liều lĩnh, táo bạo nhưng lại rất khôn ngoan. Những yếu tố đó tạo nên phong thái của một thống lĩnh vĩ đại nhưng cũng đôi lúc tính cách đó cũng làm ông bộc lộ sự nóng giận mất tự chủ mà phải hối hận vì những hành động mình làm. Câu chuyện của ông và bạch điêu tuy là nhỏ nhưng bài học lớn của riêng ông và cũng là bài học cho sự tự chủ của những người làm việc lớn nói chung.
Chuyện kể vào buổi sáng nọ, Thành Cát Tư Hãn và các thuộc hạ của ông đi săn. Thành Cát Tư Hãn mang theo trên cánh tay của ông con chim ưng mà ông yêu quý. Đã đến trưa mà không săn được gì cả, Thành Cát Tư Hãn quay lại chỗ cắm trại, và để khỏi phải cáu kỉnh với đám thuộc hạ, ông rời nhóm, cỡi ngựa đi một mình.

Trong sức nóng của mùa Hè, ông khát nước nhưng mọi dòng suối đều khô cạn. Thế rồi, ông ngạc nhiên nhìn thấy một dòng nước nhỏ chảy ra từ một tảng đá ngay trước mặt ông.
Ông lấy ra chiếc cốc bằng bạc ra hứng dòng nước ấy. Thật lâu nước mới chảy đầy cốc và ngay khi ông đưa chiếc cốc lên môi thì con chim ưng bay lên giật chiếc cốc rồi ném nó xuống đất.

Thành Cát Tư Hãn giận lắm, nhưng vì con chim ưng rất được ông yêu quý nên ông cúi xuống nhặt chiếc cốc lên lau sạch bụi và lại hứng nước. Khi nước chỉ mới được nửa cốc, con chim ưng lại lao đến tấn công làm đổ nước.

Lần này, ông rút kiếm ra khỏi vỏ, nhặt chiếc cốc và lại hứng nước, vừa canh chừng dòng nước, vừa để ý đến con chim ưng. Ngay lúc ông hứng vừa gần đầy cốc thì con chim ưng lại lần thứ ba bay lên và lao về phía ông. Thành Cát Tư Hãn với một nhát kiếm đã đâm thủng lồng ngực con chim.

Dòng nước kia đã khô cạn. Thành Cát Tư Hãn leo lên tảng đá để tìm nguồn suối khác. Ông kinh ngạc khi thấy có một vũng nước, và ngay giữa vũng nước đó là xác một con rắn độc nhất của miền đất này. Nếu ông lỡ uống nước đó, chắc hẳn ông đã chết rồi. Thành Cát Tư Hãn quay hối hận vô cùng đến ngay con suối lúc nãy ôm xác của con chim ưng mang về trại.

Ông ra lệnh làm một bức tượng chim bằng vàng. Trên một cánh chim, ông khắc dòng chữ:
“Thậm chí khi một người bạn làm điều gì đó anh không vừa lòng, người đó vẫn cứ là bạn của anh”.
Và trên cánh bên kia, ông khắc dòng chữ :
“Bất cứ phản ứng nào được thực hiện trong cơn giận dữ đều là hành động đưa đến sự thất bại”.
--------------------------------------
Nói thêm :
Có câu "Giận quá mất khôn", khi làm bất cứ việc gì một người sáng suốt nhất là người biết vuốt cơn tức giận của mình trước sau đó mới giải quyết chuyện đó sau.

Nguon Net



Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sat Aug 29, 2015 9:08 pm    Tiêu đề: Câu Chuyện về Khổng Tử



Câu Chuyện Về Khổng Tử


Chuyện kể về Đức Khổng Phu Tử dẫn học trò đi du thuyết từ Lỗ sang Tề. Trong đám học trò đi với Khổng Tử có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai học trò yêu quý nhất của Khổng Tử.
Thời Đông Chu, chiến tranh liên miên, các nước chư hầu loạn lạc, dân chúng phiêu bạt điêu linh, lầm than đói khổ ...
Thầy trò Khổng Tử trên đường từ Lỗ sang Tề cũng lâm vào cảnh rau cháo cầm hơi và có nhiều ngày phải nhịn đói, nhịn khát. Tuy vậy, không một ai kêu than, thoái chí; tất cả đều quyết tâm theo thầy đến cùng. May mắn thay, ngày đầu tiên đến đất Tề, có một nhà hào phú từ lâu đã nghe danh Khổng Tử, nên đem biếu thầy trò một ít gạo. Khổng Tử liền phân công Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi thì đảm nhận việc nấu cơm.
Sau khi Tử Lộ dẫn các môn sinh vào rừng kiếm rau, Nhan Hồi nấu cơm ở nhà bếp, Khổng Tử nằm đọc sách ở nhà trên đối diện với nhà bếp, cách một cái sân nhỏ. Đang đọc sách Khổng Tử bỗng nghe một tiếng "cộp" từ nhà bếp vọng lên, Khổng Tử ngừng đọc, liếc mắt nhìn xuống thì thấy Nhan Hồi từ từ mở nắp nồi cơm, lấy đũa xới cơm lén cho vào tay và xoa tròn từng nắm nhỏ ... Xong rồi Nhan Hồi đậy nắp lại, liếc mắt nhìn quanh và từ từ đưa nắm cơm đó vào miệng.
Hành động của Nhan Hồi không lọt qua đôi mắt của người thầy khó tính như Khổng Tử. Khổng Tử thở dài, ngửa mặt lên trời mà than rằng: "ÔI ! Ta không ngờ rằng học trò giỏi mà ta yêu quý lại đi ăn vụng một cách hèn hạ như thế này ! Bao nhiêu kỳ vọng ta đặt vào nó coi như thật uổng phí !"
Sau đó, Tử Lộ cùng các môn sinh khác mang rau về. Nhan Hồi lại luộc rau. Khổng Tử vẫn giả nằm im để xem thái độ của các môn sinh và Nhan Hồi như thế nào.
Một lát sau rau luộc cũng đã chín. Nhan Hồi và Tử Lộ dọn cơm lên nhà trên, tất cả các môn sinh chắp tay mời Khổng Tử dùng cơm.
Khổng Tử ngồi dậy và nói rằng : "Các đệ tử của ta ! Chúng ta đi từ đất Lỗ sang Tề đường xa vạn dặm, sư phụ rất mừng vì trong cảnh loạn lạc, chịu bao phong sương bụi trần, đói khổ như thế này mà các đệ tử vẫn giữ được tấm lòng trong sạch, trên biết hiếu kính với ta, dưới biết yêu thương nhường nhịn, trải qua bao nhiêu chặng đường gian nan nay ta đã hiểu được lòng các con.
Hôm nay, ngày đầu tiên đến đất Tề, may mắn thầy trò ta lại có được bữa cơm. Bữa cơm đầu tiên trên đất Tề làm ta chạnh lòng nhớ đến quê hương nước Lỗ ! Ta nhớ đến bậc sinh thành nên muốn xới ba chén cơm để dâng thành kính đến phụ mẫu, các để tử nghĩ có nên chăng?”
Các môn sinh nge vậy đều chắp tay thưa: "Kính thưa sư phụ, chuyện đó nên ạ !" chỉ trừ Nhan Hồi không nói gì.
Khổng Tử lại khéo hỏi để xét bụng da của Nhan Hồi : "Nhưng không biết nồi cơm này có sạch hay không ?"
Tất cả học trò không rõ ý đó của Khổng Tử muốn nói gì nên ngơ ngác nhìn nhau. Lúc bấy giờ Nhan Hồi liền chắp tay thưa: "Kính thưa sư phụ, nồi cơm này không được sạch."
Khổng Tử gật đầu gạ hỏi: "Sao lại không sạch ?"
Nhan Hồi thưa: "Khi cơm chín đệ tử đã mở nắp ra xem thử cơm đã chín đều chưa, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng và bụi trên nhà rơi xuống làm dơ cả nồi cơm. Đệ tử đã nhanh tay đậy nắp lại nhưng không kịp. Sau đó đệ tử liền xới lớp cơm bẩn ra định vứt đi, nhưng lại nghĩ : cơm thì ít, huynh đệ lại đông, nếu bỏ lớp cơm bẩn này thì vô hình trung làm mất một phần ăn, huynh đệ chắc phải ăn ít lại. Vì thế cho nên con đã mạn phép thầy và tất cả anh em, ăn trước phần cơm bẩn ấy, còn phần cơm sạch để dâng thầy và tất cả anh em. Thưa sư phụ, để tử đã ăn cơm rồi nên xin phép không ăn cơm nữa ! Kính thưa sư phụ, nồi cơm đã ăn trước thì không nên cúng nữa ạ !”
Nghe Nhan Hồi phân bày về hành động mà Khổng Tử tưởng chừng như là hèn hạ đó, Khổng Tử chỉ ngửa mặt lên trời mà chua chát than rằng : "Ha ha ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không tỏ tưởng sự thật là như thế nào ! Lão phu chỉ một chút nữa đã trở thành kẻ hồ đồ !"
Lời bình :
Xưa có câu "Trăm nge không bằng một thấy", nhưng có thấy được rồi đó cũng chưa phải là để hiểu rõ sự thật như thế nào. Thế mới rõ câu nhìn sự việc như vậy nhưng thật chất không phải vậy.
Khi nhìn nhận một điều gì cũng như đánh giá về 1 con người không phải chỉ có mắt nhìn, tai nghe, mà còn phải có thời gian tiếp xúc và tìm hiểu thì mới nhìn nhận và đánh giá một cách xác đáng.



******


Liễu Hạnh công chúa

Ngày xưa, vào năm Thiêu Hựu, đời Hậu Lê (1557) ở thôn An Thái, làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay, có một gia đình nhà họ Lệ Phu nhân Lê Thái Công mang thai gần đến kỳ sinh nở, mắc phải bệnh suy nhược, chỉ thích ăn toàn là hoa quả, không có thuốc men nào chữa khỏi.

Một hôm, có một vị đạo sĩ đến ra mắt, xin chữa bệnh cho phu nhân. Trước bàn thờ, người đạo sĩ này đọc mấy câu thần chú, rồi vứt chiếc búa ngọc xuống đất. Ông Lê Thái Công bỗng ngã ra bất tỉnh, rồi thấy mình được đưa lên Thiên Đình. Tại đây, Thái Công thấy mình dự một bữa tiệc lớn, do Ngọc Hoàng khoản đãi. Ông thấy Công Chúa Quỳnh Nương lỡ tay làm rơi chén ngọc, bị đày ải xuống trần gian.

Khi Thái Công tỉnh dậy, thì hay tin là phu nhân vừa hạ sinh được một cô con gái. Thái Công sung sướng đặt tên con là Giáng Tiên.

Lớn lên, Giáng Tiên càng xinh đẹp thêm, giỏi văn thơ, đánh đàn thổi sáo và soạn nhiều bài hát rất hay. Năm 18 tuổi, nàng kết duyên cùng Đào Lang, là con nuôi của một vị quan trí sĩ ở cùng làng.

3 năm sau, vào ngày mồng 3 tháng 3, Giáng Tiên đột ngột từ trần. Người ta nói nàng là tiên trở về thượng giới. Tuy nhiên, Ngọc Hoàng thấy nàng chưa hết hạn đi đày, bắt nàng phải trở xuống thế gian. Lần này, nàng xuất hiện dưới lốt một vị nữ thần, đi theo là 2 ngọc nữ Quế Nương và Thị Nương. Theo lệnh thiên đình, 3 vị tiên nữ đã hiện xuống giữa ban ngày ở vùng Phố Cát, tỉnh Thanh Hóa.

Ba nàng tiên đã lập chỗ trú ngụ giữa một nơi phong cảnh kỳ tú của nước Việt. Chẳng mấy chốc, cả vùng đều biết tiếng các vị tiên nữ, vì những phép linh ứng của 2 nàng. Dân chúng tỏ lòng biết ơn, đã xây một ngôi đền thờ cạnh núi, để thờ phượng. Đền thờ này được gọi là đền thờ Công Chúa Liễu Hạnh.

Công Chuá Liễu Hạnh thường hiển hiện ban phúc lành cho dân gian. Triều đình nghe danh tiếng, đã phong tặng nàng làm Thượng Đẳng Phúc Thần.

Vào cuối đời Lê, có một vị lão quan 80 tuổi, một hôm nằm mộng thấy Công Chúa Liễu Hạnh đi giữa 2000 tiên nữ theo hầu, mang đến cho ông một chiếu sắc của Ngọc Hoàng. Trong giấc mơ, ông thấy Công Chúa Liễu Hạnh lên xe mây, có nhiều cờ xí lộng lẫy trùng điệp dẫn đường, và thấy có vô số nhạc công đi theo. Người ta đoán rằng Công Chúa đã mãn kỳ hạn ở trần gian, nay đã trở về trời.

Trong thời gian còn ở Thanh Hóa, Công Chuá Liễu Hạnh đã ngao du khắp nước Việt, nhất là ở Lạng Sơn. Nàng thường hay lui tới các thắng cảnh ở Kinh Đô. Có lần, nàng đã giả dạng làm một cô hàng bán rượu ở Hồ Tây, để họa thơ với danh sĩ Phùng Khắc Khoan cùng hai người bạn của ông họ Ngô và Lý.

Sau khi Liễu Hạnh về trời, hai tiên nữ Quế Nương và Thị Nương thường đứng ra làm trung gian cho dân chúng cầu xin đến Công Chúa. Dân gian tin tưởng Bà Chúa Liễu, lập đền thờ bà khá trọng thể ở Phủ Giầy, Nam Định, nơi nàng đầu thai. Dân cũng lập đền thờ Bà Chúa Liễu ở Phố Cát và Đền Sòng tại Thanh Hóa, nơi nàng xuống trần lần thứ hai.

Tại Hà Nội, có Đền Sùng Sơn ở đường Hàng Bột, thờ phượng bà Chúa Liễu. Hàng năm, đến ngày húy của Công Chúa Liễu Hạnh, người ta tưng bừng rước lễ, dân chúng đã đi trảy hội rất đông.


Nguồn Net






Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Oct 07, 2015 5:00 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ



Bảo Liên Đăng truyền kì (P1)
Thánh mẫu Hoa Sơn khuyến thiện giải nghiệp chướng



Bảo Liên Đăng truyền kì là câu chuyện dài kể về mối quan hệ giữa con người và Thần tiên trong vòng xoay nhân quả luân hồi của tam giới, truyện đề cao chữ Thiện qua đó giúp con người có được cái nhìn đúng đắn hơn về Thần Phật. Họ vốn là những Giác giả hiểu tường tận cuộc sống thế nhân, con người tuyệt nhiên không thể lấy lòng mình mà đo lòng Thần, ấy là điều bất kính rất lớn.



Truyền thuyết kể rằng trên núi Hoa sơn có một đền Thánh Mẫu, vị Thần được cung phụng nơi đó chính là Tam Thánh Mẫu. Tam Thánh Mẫu có một Bảo Liên Đăng uy lực vô song, mọi người truyền nhau rằng đó chính là trấn sơn chi bảo mà Nữ Oa nương nương tặng cho bà.

Xung quanh Hoa sơn vài trăm dặm, có nhiều người sinh sống. Mấy năm nay, nơi này bị chướng khí (khí độc trên núi) làm hại, bệnh dịch hoành hành, rất nhiều người đã chết vì bệnh tật. Thêm vào đó, độc trùng mãnh thú cũng thường hay xuất lai hại người, khiến người dân sống không yên ổn, công ăn việc làm không ổn định, họ sống những tháng ngày vô cùng khổ sở.

Một hôm, mấy thân sĩ có uy tín trong làng ở các vùng phụ cân tụ họp lại với nhau, muốn mọi người cùng nhau thương lượng nghĩ cách. Mọi người nghị luận một hồi lâu cũng không nghĩ ra cách gì. Thấy tình cảnh này, Mạnh lão tiên sinh vuốt râu, gật đầu nói: “Tôi thấy, những cách của người thường chúng ta cũng đều dùng hết cả rồi, nên thiết nghĩ trên Hoa sơn này chẳng phải có Hoa Sơn chi Chủ là Thánh Mẫu nương nương sao? Vậy sao chúng ta không thử đến đó mà khẩn cầu Thánh Mẫu nương nương?”.

Mọi người đồng thanh nói phải. Thế là những ai có tiền thì góp tiền, những ai có sức thì góp sức. Chẳng mấy hôm, mọi người đã chuẩn bị xong cúng phẩm tế bái. Trước tiên họ cử người quét dọn sạch sẽ đền miếu, rồi chọn ra ngày lành tháng tốt, thuê người khuân vác đồ cúng phẩm lên Hoa sơn. Mấy vị thân sĩ và tộc trưởng của các gia tộc đều đến đền Thánh Mẫu.

Trên bàn cúng bày đặt những đồ cúng tế, tất nhiên cũng là hoa quả bốn mùa, các loại các dạng điểm tâm tinh tế thịnh soạn, rất là phong phú. Có mấy vị thân sĩ dẫn đầu, mọi người dập đầu bái lạy. Mạnh lão tiên sinh nói rõ nguyện vọng của mọi người với Thánh Mẫu nương nương, đại ý chính là nói dân làng không chịu nổi nỗi khổ của khí độc ôn dịch, khó địch nổi tai hại của độc trùng mãnh thú, khẩn cầu Thánh Mẫu nương nương từ bi phù hộ, phù hộ bà con vùng Hoa sơn an cư lạc nghiệp. Trăm lạy tạ ơn, bà con dân làng thật là cảm kích vô cùng, v.v..Sau khi khẩn cầu và bái lạy xong, nhìn thấy trời cũng không còn sớm nữa, mọi người liền đi xuống núi.

Lại nói về Tam Thánh Mẫu của Hoa sơn, bà đã phải trải qua tu luyện mới đạt được Thần vị này, Ngọc Hoàng Đại Đế sắc phong bà là Thần cai quản Hoa sơn, mỗi ngày tiêu dao tự tại, sống những ngày tháng Thần Tiên.

Bỗng nhiên ngày hôm nay, rất nhiều bách tính Hoa sơn kéo đến, khẩn cầu được che chở, phù hộ. Thánh Mẫu nhìn những người này, nghe những lời của họ, trong lòng bất giác cảm thán, nói với Triều Hoa thị nữ bên cạnh mình rằng: “Ngươi hãy xem những người này, họ làm sao biết được, cái nạn chướng khí ôn dịch, độc trùng mãnh thú này, vốn dĩ đều là tự họ rước đến. Là bản thân người ta không có coi trọng đức hạnh, không thiện với người, nhân tâm bại hoại, tranh giành đấu đá hãm hại lẫn nhau, tham lam, hận thù, ngu si, ngạo mạn, những thứ này đều là oán độc chi khí. Oán độc chi khí ngưng tụ mà thành chướng khí, là căn nguyên của hết thảy tai nạn, mặt khác đó cũng là cảnh cáo, nhắc nhở của ông trời đối với họ. Vậy mà, họ không biết cải chính bản thân mình, lại đến cầu Thần. Nếu như tâm họ không hướng thiện, không quy chính, ta cũng không thể làm trái ý trời mà hành xử được”.

Triều Hoa gật đầu, nhìn những cúng phẩm đó, cảm thấy có chút buồn cười: “Nương nương người xem, những người này tưởng rằng bỏ tiền, tặng lễ rồi thì nương nương sẽ có thể phù hộ cho họ rồi. Quả thật là ngu muội vậy”.

Nương nương nói: “Đúng vậy. Con ngươi cho rằng Thần giới và họ là giống nhau. Luôn dùng tâm tư của con người để nghĩ tưởng về những việc của Thần giới. Sao có thể như vậy được chứ?”

“Vậy nương nương dự định sẽ làm thế nào đây?”.

“Ừm, ta nghĩ, nếu như hôm nay họ đã đến cầu xin chúng ta, chính là trong lòng người vẫn còn có trời, có Thần, đây cũng là một thiện niệm. Ông trời có đức hiếu sinh. Ta lại muốn nghĩ ra một biện pháp lưỡng toàn kỳ mỹ, vừa không vi phạm thiên quy mà cũng có thể giúp đỡ họ, như vậy mới phải đạo”.

Triều Hoa nghe xong, vội hỏi: “Ồ, vậy thì tốt quá. Nương nương có thể nói cho tì nữ nghe không, đó là cách gì vậy ạ?”

Thánh Mẫu nói qua một lượt, Triều Hoa nghe xong liên tục gật đầu khen: “Thật là diệu kế!”.

Nương nương cuối cùng nói: “Việc này, ngươi hãy đi thi hành vậy”.

Triều Hoa chắp tay bái lạy Thánh Mẫu một cái, nói: “Vâng, triều Hoa xin lĩnh ý chỉ của nương nương”.

Buổi tối hôm đó, Mạnh lão tiên sinh vừa nằm xuống, liền nhìn thấy một thiếu nữ thân mặc trang phục cung đình từ không trung bay đến, trong tay còn cầm một ngọn đèn hoa sen, lòng nghĩ đây không phải là tiên nữ sao? Ông vội vàng đứng dậy nghênh tiếp, cung kính chắp tay bái lạy.

Ngay lúc đang muốn hỏi, liền nghe thiếu nữ kia nói rằng: “Thí chủ không cần phải hoang mang, ta là Triều Hoa, thị nữ bên cạnh của Hoa sơn Thánh Mẫu, đặc biệt phụng theo ý chỉ của nương nương, báo cho hết thảy bà con trong làng biết: Vì cảm niệm tâm ý kính thần của các vị, nương nương muốn tôi chuyển lời, cái nạn chướng khí ôn dịch, độc trùng mãnh thú này, vốn dĩ đều là cảnh tỉnh của ông trời với mọi người. Đây gọi là thiên tượng cảnh tỉnh. Ý trời vẫn là muốn mọi người hãy tự mình phản tỉnh, tôn sùng hiếu kính nhân nghĩa, mỗi người cần phải thật lòng sám hối, kiểm tra tất cả những việc xấu đã làm, nhất nhất quy chính. Khắp thôn đều yêu cầu mọi người làm việc nhân nghĩa, ai nấy đều làm người hiếu nghĩa, khiêm tốn, biết nhường nhịn, hành thiện tích đức. Nếu được như vậy thì không phải lo chướng khí không đi, ôn dịch không hết? Những độc trùng mãnh thú đó cũng không dám làm hại người nhân nghĩa. Nếu lấy nhân nghĩa lễ trí tín, trung hiếu tiết nghĩa để giáo hóa một phương. Như thế, ông trời tự sẽ ban ơn, Thánh Mẫu nương nương cũng sẽ phù hộ. Nhất định hãy nhớ lấy, nhớ lấy!”.

Lời còn chưa dứt, Triều Hoa liền dùng tay giơ cao ngọn Bảo Liên Đăng, chỉ thấy ngọn đèn Thần đó chiếu rọi bốn phương, hào quang đến muôn nẻo, ánh sáng chói lòa, lóe sáng đến nỗi không sao mở mắt được. Đợi đến khi ánh hào quang biến mất, thì ông cũng không còn thấy Triều Hoa đâu nữa. Mạnh lão tiên sinh vội vã đuổi theo, không may trượt chân, vấp ngã một cái, giật mình tỉnh dậy, mới biết thì ra đây chỉ là một giấc mơ

Trong lòng ông tràn đầy nghi hoặc: giấc mộng này sao lại giống như thật vậy? Lúc này tai nghe thấy ba tiếng chuông vang báo canh ba. Lão phu nhân bên cạnh cũng tỉnh giấc, Mạnh lão liền vội vàng nói với vợ rằng: “Bà này, lúc nãy tôi mơ thấy một giấc mơ”.

Nói đến đây, bà vợ liền ngắt lời ông, hỏi: “Lão gia phải chăng đã mơ thấy Triều Hoa nữ quan của Hoa sơn Thánh Mẫu?”

“À, đúng vậy, đúng vậy, sao bà lại biết?”

“Lão gia, tôi cũng mơ thấy cô ấy”. Đang nói, phu nhân liền kể lại những lời Triều Hoa đã nói trong mộng, cuối cùng tả cách cô ấy giơ ngọn đèn lên cao ra sao. Kể xong còn hỏi: “Giấc mộng của lão gia có phải cũng là như vậy hay không?”.

Mạnh lão tiên sinh vừa nghe xong, liền nói: “Thiên hạ có chuyện như vậy sao? Điều này thật là kỳ lạ. Sao hai người lại có thể cùng lúc mà mơ thấy cùng một giấc mơ cơ chứ? Xem ra đây thật sự là ý chỉ của Thánh Mẫu nương nương, Triều Hoa tiên tử đến để báo mộng rồi!”. Hai vợ chồng không còn ngủ tiếp được nữa, khó khăn lắm mới đợi được đến trời sáng, vừa chạy đi hỏi mọi người, thì mới biết ai nấy trong nhà đều mơ thấy cùng một giấc mơ!

Mạnh tiên sinh sai người nhà đi ra ngoài dò hỏi mọi người trong làng. Chẳng mấy chốc, người nhà từ bên ngoài chạy về cho hay: tất cả mọi người trong làng đều mơ thấy cùng một giấc mơ như vậy! Mạnh tiên sinh nghĩ đến những lời Triều Hoa đã nói trong giấc mơ, cảm thấy việc này không phải chuyện đùa, rõ ràng là Thánh Mẫu điểm hóa, thế là vội sai người nhà là Mạnh An, mau chóng đi mời mấy vị thân sĩ trong làng lân cận, muốn nói cho họ biết về chuyện kỳ lạ này, để sau đó mọi người cùng nhau thương lượng một chút, xem thử nên án chiếu lời của Thánh Mẫu mà thực thi như thế nào cho tốt.

Ngờ đâu mấy vị thân sĩ kia không mời mà đã tự đến, hiện ở trước cửa rồi. Thi lễ xong liền bắt chuyện đã hay rằng mọi người đều là vì cùng một việc mà đến, làng của họ ai cũng đều mơ thấy cùng một giấc mơ.

“Sự tình như thế này, xưa nay quả là hiếm thấy, Thánh Mẫu nương nương hiển thánh, đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Hôm nay chúng tôi chính là đến để bàn bạc với huynh, chúng ta nên làm theo ý chỉ của nương nương như thế nào”, một vị thân sĩ trong làng nói.

Mạnh tiên sinh gật đầu lia lịa, nói: “Nói ra cũng thật là hổ thẹn. Chúng ta từ sớm nên nghĩ đến điều này rồi mới phải, không ngờ bản thân lại ngu muội đến thế, còn cần nương nương điểm hóa! Nếu chúng ta còn không ra sức sửa đổi những sai lầm trước đây, thật là đã cô phụ trời xanh vậy”.

Mọi người đều gật đầu nói phải, họ cùng nhau thương lượng rất nhiều biện pháp, như mở trường học miễn phí, tuyển rộng con em trong làng đến học, tuyên giảng trung hiếu tiết nghĩa, nhân nghĩa lễ trí tín, còn phải ra sức biểu dương những người có hiếu, có nghĩa, liêm khiết trong làng.

Mạnh tiên sinh nói tiếp: “Tôi thân là thân sĩ trong làng, theo lý thì phải là người làm gương, càng phải gắng sức thực hiện, đề cao lương cung kiêm nhường, trung hiếu tiết nghĩa. Đạo nghĩa nhân trước hết đều phải bắt đầu từ chúng ta”. Mọi người đều liên tiếp gật đầu.

“Chúng ta phải xót thương những người nghèo khổ, bắt đầu làm từ gia tộc chúng ta. Nếu trong nhà chúng ta mà vẫn có những người không chịu hành thiện bố thí, thì đó chính là lỗi của chúng ta vậy”. “ Đúng vậy”.

Hôm đó mọi người đều tản đi, ngày hôm sau liền bắt đầu thực hành mọi việc.

Triều Hoa báo mộng, Thần Tiên hiển linh, con người thời đó vốn dĩ thuần phác, nếu cuộc sống hiện nay cũng được như vậy, hỏi ai còn dám làm chuyện xấu, khởi ác tâm nữa?

Chẳng mấy chốc, xung quanh khu vực Hoa sơn, quả thật là nơi sinh cư lạc nghiệp bởi người dân biết sống lương thiện, vùng ấy trở thành vùng đất lễ nghĩa, dân không nhặt của rơi ngoài đường, ngay cả những người trước đây do cuộc sống bức bách mà phải đi trộm cướp hoặc làm một số việc cẩu thả, sau khi nghe hiểu được những đạo lý này, cũng đều cải tà quy chính, một lòng hướng thiện, chuyên làm việc lành, theo đó mà họ đã tích được vô lượng phúc đức.

Cứ như vậy, những oán khí, oan khí, độc khí, tà khí đều dần dần mất hẳn, những chướng khí đó có tồn tại cũng chẳng có cơ hội sinh sôi. Đúng như những gì Thánh Mẫu đã nói, độc xà mãnh thú đó cũng là không dám tổn hại những người có đức hạnh, còn những người thiện lương đương nhiên càng bình an vô sự.

Thánh Mẫu mỗi ngày đều sai Triều Hoa đi tuần, nghe Triều Hoa báo lại, trong lòng mừng vui thanh thản. Một ngày kia trời chập tối, Thánh Mẫu cưỡi trên mây lành, thẳng lên đỉnh Hoa sơn, giơ cao ngọn đèn Bảo Liên Đăng, hào quang rọi khắp, chiếu sáng mấy trăm dặm chung quanh. Thánh Mẫu thi triển thần thông, chướng khí đều bị đẩy lùi, độc trùng chết hết, non xanh nước biếc khắp cả một vùng rộng lớn. Dãy Hoa Sơn trở đi, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Người dân vùng này, đều biết Hoa Sơn Thánh Mẫu linh thiêng, trong đền Thánh Mẫu mỗi ngày hương khói không ngừng. Những người hành hương, bái tế mỗi ngày một nhiều, cũng có rất nhiều người cầu tự, cầu phúc, tấp nập lai vãng không dứt, trong chốc lát đền Hoa Sơn Thánh Mẫu nổi tiếng gần xa.

Nguồn Net
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Oct 07, 2015 5:11 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ



Bảo Liên Đăng truyền kì (P2
Nguyệt Lão se duyên Thánh Mẫu trả nợ trần gian




Bảo Liên Đăng truyền kì là câu chuyện dài kể về mối quan hệ giữa con người và Thần tiên trong vòng xoay nhân quả luân hồi của tam giới, truyện đề cao chữ Thiện qua đó giúp con người có được cái nhìn đúng đắn hơn về Thần Phật. Họ vốn là những Giác giả hiểu tường tận cuộc sống thế nhân, con người tuyệt nhiên không thể lấy lòng mình mà đo lòng Thần, ấy là điều bất kính rất lớn.



Một ngày nọ, Thánh Mẫu và Triều Hoa cưỡi mây trên không, xem xét dân tình tại Hoa sơn. Chỉ thấy cây cối xanh tươi, nước chảy róc rách. Cảnh đẹp nhân gian đều ở trong tầm mắt.

Từ xa, cả hai nhìn thấy một chàng thư sinh trẻ tuổi, thần thái phong nhã, anh tuấn hào hoa, đang lên núi, thẳng đến đền Thánh Mẫu. Thánh Mẫu và Triều Hoa, ngồi yên để lắng nghe xem chàng trai nói những gì. Thế là nghe được lời thì thầm: “Tiểu sinh Lưu Ngạn Xương, đến kinh thành thi cử, đi ngang nơi này, nghe nói Thánh Mẫu nương nương vô cùng linh thiêng, vậy nên đặc biệt đến đây bái lạy nương nương, kính dâng một nén hương, xin nương nương phù hộ tiểu sinh ghi danh bảng vàng, Ngạn Xương cảm tạ không thôi, nguyện cả đời gắng sức tích đức hành thiện, để báo đáp hậu đức phù hộ của nương nương”, nói xong, lại dập đầu lạy mấy cái.

Sau đó liền đi tham quan thưởng ngoạn chung quanh, chăm chú nhìn vào bức tượng Thánh Mẫu. Lưu Ngạn Xương này bất giác mê mẩn tâm thần, lòng nghĩ: Nương nương này phong thái yểu điệu, dung mạo vô song như thế này, thật không khỏi khiến lòng người ái mộ!

Còn đang nghĩ ngợi, trong miệng liền lẩm bẩm khẽ thốt ra những lời này. Niềm vui dâng trào, còn theo cảm hứng mà làm một bài thơ, đơn giản chỉ là thổ lộ tình cảm ái mộ trong lòng, có ý hy vọng rằng bản thân mình có thể trở thành thần tiên để được bầu bạn.

Lưu Ngạn Xương này không biết rằng bản thân mình đang giễu cợt Thần linh, còn ở đó tự mình đa tình. Thánh Mẫu nghe qua, vô cùng buồn nản, trong lòng thất vọng rằng chàng là người đọc sách Thánh hiền mà lại không biết tự trọng, lại còn buông lời mạo phạm đến mình như thế. Ngay lúc đang muốn thi triển chút thần thông, coi như khiển trách, đuổi y xuống núi, bỗng nghe thị nữ đến báo: “Nương nương, Nguyệt Lão đến thăm!”.

Bỗng nghe Nguyệt Lão đến nhà, trong lòng Thánh Mẫu không khỏi giật mình, tự nghĩ thân mình đã vào hàng thần tiên, thì đâu còn có quan hệ gì với Nguyệt Lão nữa, hơn nữa ông ấy đến đây làm gì? Thôi thì nếu đã đến đây rồi, hãy dùng lễ mà tiếp đón, xem ông ấy nói những gì, bà Liền mời ông vào nhà. Hành lễ xong, Thánh Mẫu hỏi: “Hôm nay không ngờ Nguyệt Lão đại giá quang lâm. Xin hỏi rốt cuộc là có việc gì?”.

Nguyệt Lão lớn tiếng cười vang: “Tại hạ hôm nay đặc biệt vì Thánh Mẫu mà đến đây, xin báo tin vui cho Thánh Mẫu!”. Nguyệt Lão vừa nói vừa chắp cả hai tay “cung hỉ, cung hỉ”, tư thế hệt của người phàm.

Thánh Mẫu vừa kinh ngạc vừa tức giận, còn tưởng Nguyệt lão có lòng trêu đùa, bất giác nói: “Nguyệt Lão sao lại đùa cợt như vậy, khiến cho ta không khỏi hoang mang”. Nguyệt Lão gật đầu, cười tủm tỉm rồi lấy sổ đưa cho bà xem. Trong sổ, sợi chỉ đỏ buộc chặt hai cái tên Hoa Sơn Thánh Mẫu và Lưu Ngạn Xương, đập vào mắt bà. Sổ viết rằng ngày nào tháng nào năm nào, kết duyên vợ chồng, kéo dài ba tháng.

Nguyệt Lão chính là vị Thần chuyên quản việc hôn phối các giới mà chúng ta nhắc đến trong truyền thuyết. Ông có một cuốn sổ, trong đó có ghi chép rõ năm tháng sự việc các đôi nam nữ nên duyên với nhau.

Cuốn sổ này cũng rất kỳ lạ, không phải ông dùng bút viết lên, hết thảy trên trời dưới đất, ở đâu đôi vợ chồng sắp kết duyên, khi hôn nhân của họ bắt đầu, liền có họ tên cùng với cơ duyên đôi bên. Không chỉ là nhân duyên hôn phối chính đáng, mà ngay cả chồng hờ vợ tạm, hoặc chỉ một khắc vui đùa, cũng không thoát được cuốn sổ này. Không ai biết được rốt cuộc là ai đã viết tên lên cuốn sổ đó. Khi họ kết hợp chính là lúc Nguyệt Lão dùng một sợ chỉ đỏ nối họ tên của hai người lại với nhau. Hễ nối lại với nhau, sợ chỉ đỏ giống như bám chắc trong cuốn sổ, tháo cũng tháo không được, mà cắt cũng cắt không xong, mãi đến khi một trong hai bên chết đi, hoặc hôn nhân giữa chừng thay đổi, vợ chồng chia lìa. Tóm lại, ngay tại thời khắc cuối cùng của duyên phận hai bên, sợ chỉ đỏ đó liền tự ẩn đi không trông thấy nữa, một chút dấu vết cũng không còn. Không chỉ ở nhân gian, mà tất cả chuyện tình cảm thuộc phạm vi nội trong tam giới này, toàn bộ đều quy về ông quản.

Nhìn thấy dáng vẻ hoảng hốt của Thánh Mẫu, Nguyệt Lão hỏi: “Chẳng hay Thánh Mẫu có còn nhớ Tam Lang của Lý gia chăng?”.

Thánh Mẫu làm sao mà không biết cho được, đó là một đoạn quá khứ trong đời trước của bà: Lúc đó bà sinh vào cuối năm triều đại nhà Chu, chuyển sinh vào một gia đình giàu có, tên gọi là Nguyên Chân, từ nhỏ liền theo lệnh của cha mẹ, hứa hôn cho một công tử quyền quý. Vị công tử này họ Lý, mọi người gọi là Tam Lang, tài mạo song toàn, phong tư tuyệt thế. Tam Lang này từ lúc định sẵn thê thất, nghe nói tiểu thư Nguyên Chân tứ đức vẹn toàn, dung mạo như tiên, trong lòng vô cùng hạnh phúc, nhưng lại không ngờ rằng vị tiểu thư vừa mới chào đời, đã không ăn đồ mặn, không mặc lụa là; lớn lên một chút, chỉ một lòng hướng Đạo. Cha mẹ ngăn cấm không được, chị em khuyên cũng không xong. Đến khi hơn mười lăm tuổi, tự dưng bỏ nhà ra đi.

Công tử Lý hay được tin này, khóc lóc thảm thương, hộc máu mà chết. Nguyên Chân tiểu thư sau khi trải qua mấy năm khổ tu đã thành Đạo quả, được Thượng Đế phong là Nguyên Chân phu nhân, sắc phong chức vị Hoa sơn Thánh Mẫu, nhưng vì công tử đó vì cô tuẫn tình mà chết, theo lý nhân quả luân hồi, phu nhân vẫn còn nợ công tử đó một món nợ tình cảm nhân duyên. Nghĩ đến đây, bất giác sững sờ. Vận dụng công năng túc mệnh thông xem thử, bà mới phát hiện thì ra Lưu Ngạn Xương này chính là Tam lang Lý gia kia chuyển sinh, đời này chuyển sinh ở Dương Khúc, Sơn Tây. Đến ngày hôm nay, thật ra là đến để đòi nợ.

Thánh Mẫu ngẩn ngơ một hồi, trăm mối ngổn ngang, rối như tơ vò, lòng biết mệnh trời khó cãi, tai vạ khó tránh, vẫn nhịn không được mà khóc òa lên. Nghĩ thầm khi xưa tu luyện đều có thể giữ thân như ngọc, hôm nay lại vẫn là không tránh được quả báo luân hồi này.

Nguyệt Lão hết lần này đến lần khác khuyên rằng: “Nếu đã là tục duyên, chi bằng dứt khoát từ sớm, nhưng nương nương chỉ cần không quên thiên quy, chỉ lấy việc thiện giải duyên xưa làm gốc, giữ được tiên căn, có thể không đọa lạc chốn phàm trần, âu cũng là điều may mắn vậy”. Thánh Mẫu nghe xong, trong lòng chẳng biết làm thế nào, cũng đành phải như vậy thôi.

Nói về Lưu Ngạn Xương, bởi leo núi mệt nhọc suốt nửa ngày trời, nên đã dựa trước bàn thờ Phật ngủ say. Giữa lúc nửa mê nửa tỉnh, nhìn thấy một thiếu nữ xinh đẹp mặc y phục hoàng triều đang đi về phía mình, tay cầm phất trần, chúc mừng chàng rằng: “Triều Hoa, thị nữ của Hoa Sơn Thánh Mẫu nương nương bái kiến Lưu công tử”.

Lưu Ngạn Xương kia cuống cuồng đáp lễ, trong lòng rất đỗi ngạc nhiên, sao lại như thế này? Không rõ đây là mơ hay tỉnh? Chưa hết nghi hoặc, nghe Triều Hoa nói rằng: “Thánh Mẫu nhà tôi cảm động trước hậu ái của công tử, nguyện cùng công tử kết duyên Tần Tấn. May gặp Nguyệt Lão đến thăm, hôm nay chính là ngày lành, chúc mừng công tử và nương nương kết mối lương duyên”.

Lời còn chưa dứt, Triều Hoa vung nhẹ tay áo một cái, Lưu Ngạn Xương kia lập tức cúi đầu xuống nhìn qua, thấy bản thân trong nháy mắt đã thay một bộ y phục mới. Ngay sau đó, chàng nhìn thấy Nguyệt Lão làm chủ hôn, Triều Hoa theo sau, mấy cô thị nữ vây quanh Thánh Mẫu, đầu đội khăn đỏ trùm lấy mũ phượng như tục lệ nhân gian, đối diện Nguyệt lão, bái thiên địa xong, rồi vào tân phòng.

Thánh mẫu phu nhân lén lén nhìn qua Lưu Ngạn Xương, cũng là bậc phong tư tuyệt thế, tuấn tú lịch sự, trong lòng cũng không cảm thấy tủi thân chính mình, nhưng chỉ ngay một khắc ấy, bà đã lập tức cảnh giác: không thể nảy sinh tạp niệm lung tung, như Nguyệt Lão đã nói, sẽ tạo thêm nghiệp duyên. Lưu Ngạn Xương nhìn Thánh Mẫu, thật là trong lòng mừng vui khôn tả, giống như những gì người ta thường nói: nằm mộng cưới vợ hiền, chuyện tốt trên trời đến.

Ba tháng tại nhân gian, chỉ thoáng qua trong nháy mắt. Lưu Ngạn Xương vẫn còn phải lên kinh thành thi cử, Thánh Mẫu nương nương lúc này cũng đã có mang. Trước lúc chia tay, Lưu Ngạn Xương lưu luyến không nỡ rời. Nương nương nói với chàng: “Công tử là người của công danh, chuyến đi lần này, ắt sẽ ghi danh bảng vàng. Vợ chồng đôi ta, hôm nay cách biệt, tiên phàm một cõi. Công tử tự có nhân duyên cõi phàm, còn phải lấy vợ lập thân. Ta thân đã có mang, ngày kia sẽ bảo Triều Hoa gửi con cho chàng, mong chàng và người vợ mới sẽ tận tâm nuôi dưỡng chăm sóc. Mong công tử cố gắng bảo trọng”.

Lưu Ngạn Xương nghe thấy trong lòng thờ thẫn, im lặng không nói gì. Từ trong gói hành lý lấy một miếng trầm hương là vật gia truyền của dòng họ đưa cho Thánh Mẫu, nói sinh con rồi thì hãy đặt tên con là Trầm Hương, khi gửi con hãy lấy Trầm Hương làm dấu hiệu.

Khi chia tay, Thánh Mẫu lại nói: “Một mối duyên xưa hôm nay chấm dứt. Công tử vốn có tiên duyên, túc căn vẹn toàn. Vẫn mong rằng công tử sau này đắc chí thành danh, nên biết rút lui đúng lúc, không nên mê mờ trong phú quý vinh hoa. Kính trời lạy Phật, tu tâm dưỡng tính, tích đức tu thiện. Tự có tạo hóa. Tuyệt đối không được như sóng cuốn theo dòng, chìm trong thanh sắc, thèm muốn công danh, chỉ sợ sẽ phải đọa lạc luân hồi, vĩnh viễn không có ngày xuất lai!”.

Lưu Ngạn Xương gật đầu nói phải, nước mắt lưng tròng từ giã nương nương.

Nguồn Net
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Oct 14, 2015 7:56 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ



ĐẦU XUÂN XEM LẠI CHUYỆN TÌNH TRƯƠNG CHI  


Nếu bạn là người yêu thích âm nhạc, chắc chắn bạn sẽ biết một nhạc phẩm tiền chiến nổi tiếng của nhạc sĩ Văn Cao: đó là nhạc phẩm Trương Chi. Mở đầu cho bản nhạc là một giai điệu huyền ảo, đài các với lời hát giàu chất thơ; không thể không chép ra đây để bạn đọc thưởng thức những tứ thơ đầu tiên đầy mộng của nhạc phẩm này:

Một chiều xưa, trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian, mới rung đường tơ Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ Ôi ! Tiếng cầm ca, thu đến bao giờ…

Thơ và nhạc là những rung cảm vi diệu của tâm hồn. Nếu bạn được nghe những giai điệu mở đầu của nhạc phẩm “Trương Chi” với lời ca diễn cảm trong một trạng thái hoàn toàn thư giãn, bạn sẽ thấy sự huyền ảo của thơ nhạc như hòa quyện vào nhau, nâng hồn người ra khỏi mọi sự vướng bận của trần gian.
Thật tài tình khi ngay câu mở đầu: “Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ” rất giàu hình tượng, đầy chất lãng mạn và bay bổng của tâm hồn với sự khoáng đạt của không gian vời vợi ngập màu trăng nước ấy,  lại là hình ảnh cho tâm hồn trinh trắng như cả một trời thơ của Mỵ Nương. Trong cái không gian thơ trinh tưởng chừng như tĩnh lặng vô tư ấy, một cảm xúc từ dư âm của đường tơ như đang dâng lên chầm chậm và  lan tỏa trong nàng…”Trầm trầm không gian mới rung đường tơ”. Khúc nhạc tình đã ngập một trời trinh trắng. Để cho “Vương vấn heo may, hoa yến mong chờ”. Và rồi một cảm giác bâng khuâng  xa lạ  đã đến với tâm hồn thơ trinh  len lén, nhẹ nhàng, êm dịu như nâng niu, như ngần ngại. Nó chưa phải tình yêu, nó mới chỉ gợi lên sự trống vắng trong tâm hồn: ” Ôi tiếng cầm ca thu đến bao giờ?”. Mùa thu là mùa của biệt ly, của những chiếc lá vàng vĩnh biệt sự sống trở về cát bụi và để lại trên trần gian sự luyền tiếc của những cành thu đầy cảm xúc. Thật tuyệt vời với chất thơ ngập tràn trong những giai điệu đầu tiên của nhạc phẩm Trương Chi!
Đã có lần tôi cho rằng một hình tượng văn chương có giá trị và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật là nó phải mô tả được trang thái trừu tượng. Mô tả được những cảm xúc tế vi của tâm hồn. Điển hình như hai câu thơ đầy mỹ cảm và tuyệt hảo của nữ sĩ Đặng Nguyệt Anh:

Một đời gió có vì ai.
Xô nghiêng chiều tím ra ngoài hoàng hôn.

Tôi đã nghe đi, nghe lại những giai điệu trác tuyệt với lời ca đầy hình tượng trong nhạc phẩm Trương Chi của Văn Cao. Với tôi, ông là thiên tài của nền âm nhạc Việt Nam đương đại.


Tiếng cầm ca như đem cả một mùa thu đến với giai nhân tuyệt sắc đã làm rung cảm bao nhiêu thơ nhạc trong nền văn hóa Việt – được nhắc đến trong nhạc phẩm nổi tiếng của Văn Cao – là  của chàng Trương Chi, khi tiếng sáo tuyệt kỹ của chàng Trương  vọng tới lầu son gác tía của Mỵ Nương. Câu chuyện tình Trương Chi đã gây bao cảm xúc nghệ thuật cho các bậc tài hoa anh kiệt của nền văn hiến Việt và nhạc  phẩm Trương Chi của thiên tài âm nhạc Văn Cao cũng bắt đầu nguồn cảm hứng từ câu chuyện này.
Câu chuyện tình Trương Chi xuất hiện vào thời Hùng Vương và dấu ấn để lại xác định điều này chính là danh xưng Mỵ Nương, nhân vật chính với giọt lệ thiên thu làm tan tành chén ngọc, được kết tinh từ chính trái tim Trương Chi, như thách thức với thời gian, khắc khoải đợi chờ.
Thời đại Hùng Vương có thời gian tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhận thức được trong các quốc gia của nhân loại. Những giá trị của nền văn minh lâu đời đó dù tan nát theo những diễn biến lịch sử. Nhưng những mảnh vụn còn lại, mặc dù chưa được phục chế hoàn hảo cũng đủ làm cho trí tuệ hiện đại của nhân loại phải kinh ngạc. Trong lịch sử văn minh nhân loại, có lẽ ít thấy một quốc gia nào sử dụng khái niệm văn hiến để nói về đất nước có lịch sử trải gần 5000 năm, kể từ thời Hùng Vương thứ I (2879 trước CN – theo chính sử). Bởi vì, bắt đầu từ thời Hùng Vương, nền văn hóa của đất nước này đã hướng con người tới sự hòa nhập trong tình yêu của con người đầy nhân bản. Những truyền thuyết, huyền thoại của nền văn học nghệ thuật thời Hùng dù còn lại rất ít, đều chứng tỏ điều đó. Đó là: Mỵ Châu – Trọng Thủy, Thạch Sanh, chuyện tình Trương Chi và rải rác trong những truyền thuyết lịch sử khác.
Có thể xác định ngay rằng: Chuyện tình Trương Chi Mỵ Nương là câu chuyện tình hay nhất trong thể loại chuyện tình lãng mạn của thế giới. Bây giờ và mãi mãi về sau, hay trở ngược lại hàng thiên niên kỷ xuyên suốt qua quá khứ của các nền văn minh nhân loại, cũng sẽ không bao giờ có được một câu chuyện tình lãng mạn hay hơn thế nữa. Sự thăng trầm của Việt sử với hàng ngàn năm đô hộ của Bắc Phương và những cuộc chinh chiến liên miên, chủ yếu với Bắc phương trong một ngàn năm hưng quốc sau đó của Việt sử, đã khiến những di sản văn hiến Việt – trong đó có câu chuyện Trương Chi truyền miệng này – đã phải cô đọng lại và tóm tắt nội dung của nó. Nhưng với nội dung còn lại vượt thời gian tính bằng thiên niên kỷ với bao thăng trầm của Việt sử cũng đủ nhận thấy sự trác tuyệt đến huyền vĩ của tác phẩm văn học thuộc nền văn hiến Việt.
Vì là một tác phẩm văn học, nên chuyện tình Trương Chi khác với truyền thuyết lịch sử là không có sự hiện diện của vua Hùng. (Tất cả những truyền thuyết mang ý nghĩa lịch sử ẩn tàng của thời Hùng Vương bao giờ cũng bắt đầu bằng câu: “Vào thời Hùng Vương thứ….”).Nhưng người Việt gốc Văn Lang vẫn nhận ra dấu ấn của tổ tiên qua người con gái diễm hằng với thiên thu: đó là Mỵ Nương con quan tể tướng. May thay! Nếu không phải là Mỵ Nương, mà là một thiên thần thì câu chuyện đã nhạt nhòa với thời gian, còn đâu chất lãng mạn của tình yêu con người trong áng văn chương trác tuyệt, vượt thời gian đến tận bây giờ và mãi mãi về sau…
Câu chuyện kể rằng:

Ngày xưa, có một chàng trai đánh cá nghèo, mồ côi cha mẹ tên là Trương Chi. Anh rất xấu xí, nhưng thổi sáo rất hay. Đêm đêm anh thường đem sáo ra thổi. Bến sông anh đậu thuyền ngay gần dinh quan tể tướng, nên tiếng sáo của anh vang vọng đến dinh của ngài. Quan tể tướng có một người con gái tên là Mỵ Nương đã đến tuổi lấy chồng rất xinh đẹp. Mỗi khi Trương Chi thổi sáo, nàng lại ra cửa sổ phòng mình hướng về phía sông để được nghe tiếng sáo tài hoa của chàng và nàng đã say mê tiếng sáo ấy. Rồi có một thời gian, Trương Chi ốm bệnh, Mỵ Nương không còn được nghe tiếng sáo của chàng. Nàng buồn bã tưởng nhớ tiếng sáo đến tương tư, rồi phát bệnh. Quan tể tướng hỏi nguyên nhân, biết chuyện, ông cho mời Trương Chi đến để thổi sáo cho nàng nghe. Được nghe lại tiếng sáo, Mỵ Nương khỏi bệnh. Nhưng vừa nhìn thấy Trương Chi, nàng đã quay mặt đi vì chàng quá xấu. Còn Trương Chi lại đem lòng yêu Mỵ Nương, sau khi được gặp nàng. Biết không thể gần nhau, Trương Chi buồn bã bệnh chết (Có bản chép chàng tự tử chết). Trải bao năm tháng chôn vùi dưới đất, thân xác đã tiêu tan. Nhưng trái tim Trương Chi kết thành một khối ngọc đỏ thắm như thách thức với thiên thu, thủy chung chờ đợi. Về sau có người tình cờ tìm được khối ngọc này, tiện thành một bộ đồ trà và đem dâng quan tể tướng. Trong một tiệc yến có Mỵ Nương cùng dự, quan tể tướng sai lấy bình trà quí ra dùng. Nhưng khi rót nước vào, Mỵ Nương chợt thấy trong chén trà của mình hình bóng con thuyền của Trương Chi và tiếng sáo ngày xưa vọng về. Công chúa khóc, nước mắt nhỏ vào trong chén và chén trà tan đi trong tay nàng.

Giọt lệ của Mỵ Nương không phải chỉ nhỏ vào chén trà khiến mối tình u uẩn của Trương Chi tan đi trong tình yêu của thiên thần. Cùng với trái tim ngọc đá của Trương Chi, giọt lệ từ cảm xúc trong tâm hồn Mỵ Nương đã rơi vào tận cõi thiên thu, đưa tình yêu đôi lứa đến đỉnh cao nhất của sự hòa nhập tâm hồn.
Mỵ Nương – nàng công chúa diễm hằng – bước vào không gian của tuổi buồn trinh nữ. Tâm hồn trong trắng của nàng chưa một lần rung lên với nhạc khúc tình yêu. Nhưng nàng lại tìm được sự đồng cảm trong tiếng sáo chơi vơi, đong đầy chất u buồn nhân thế của Trương Chi… đã đến trong nàng không biết tự bao giờ…
Tiếng sáo Trương Chi trầm buồn theo sóng nước, chơi vơi như cuộc đời bất hạnh của chàng. Chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, lại có một ngoại hình xấu xí bọc một kiếp nghèo. Nhưng thiên nhiên lại ban cho chàng cây sáo với tài năng tuyệt kỹ. Tiếng sáo của chàng an ủi cho chính lòng chàng. Trương Chi biết đâu trong lầu son gác tía bên sông lại có một tuyệt thế giai nhân, đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng.


Ngay từ những đoạn mở đầu của câu chuyện tình, chất lãng mạn đã ngập tràn trong âm thanh vi diệu của tiếng sáo Trương Chi. Tiếng sáo ấy chơi vơi, xao xuyến rồi lắng chìm trong tâm hồn trinh nữ của Mỵ Nương. Giá trị nghệ thuật là dung môi để hai tâm hồn đồng cảm tìm đến nhau, rồi tan trong đó.
Từ chân trời góc biển bên kia lục địa Á – Âu sau đó hơn 2000 năm, đại văn hào Victor Hugo cũng không nỡ gán ghép khiên cưỡng mà cho cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp lấy chàng Cadimodo gù, đã viết nên tác phẩm lãng mạn nổi tiếng thế giới và là niềm tự hào của nền văn học Pháp; đó là tác phẩm“Nhà thờ Đức Bà ở Paris”. Từ chối hợp hôn với một người đàn ông xấu xí tật nguyền, đó là quyền thiêng liêng của người phụ nữ; quyền của thiên chức làm mẹ mà Thượng Đế ban cho mỗi người nữ ở trần gian; để đảm bảo sự di truyền của giống nòi. Dù cho Mỵ Nương tìm thấy ở Trương Chi một sự hòa nhập tâm hồn, nhưng chàng quá xấu… không ai có thể trách nàng!

Tình yêu nam nữ không có sự hòa nhập xác thân nơi trần thế thì không có chất lứa đôi. Nhưng thiên tài của tác gia thời Hùng cũng như đại văn hào Victor Hugo đã tài tình tạo ra một hình tượng xấu xí của chàng trai, để khéo léo từ chối một sự hòa nhập thân xác đầy nhân tính; tình yêu đôi lứa trong tác phẩm chỉ còn lại phần tâm hồn. Đó là điều kiện để những thiên tài đưa chất lãng mạn đến sự rung cảm tế vi nhất trong tình yêu của con người. Với cõi tâm linh, ước mơ và sáng tạo là không giới hạn.
Trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”, trái tim cô gái Bohêmieng chưa hề rung cảm trước mối tình của Cadimodo – đã đến với nàng bằng tình yêu tự nhiên đẹp nhất ở con người. Kết thúc câu chuyện, Cadimodo ôm xác người yêu cùng chết trong hầm mộ.
Nhưng trong câu chuyện tình Trương Chi, sự lãng mạn đã thăng hoa đến mức tận cùng của tình yêu đôi lứa. Tác giả truyện tình Trương Chi đã tạo ra những khoảng cách từ chất liệu đời thực của thế nhân giữa đôi trai tài gái sắc Trương Chi Mỵ Nương. Đó là khoảng cách giàu sang tột đỉnh với sự nghèo khó tận cùng; khoảng cách của quyền uy tối cao trong xã hội và thân phận mồ côi, cô đơn và cuối cùng là khoảng cách mà chính Tạo hóa đem lại cho con người. Đó là khoảng cách giữa vẻ đẹp tuyệt mỹ của người con gái tuổi trăng tròn với sự xấu xí của người đánh cá nghèo Trương Chi.
Có thể nói rằng tác giả truyện tình Trương Chi đã thể hiện thiên tài của mình khi không chỉ dừng lại ở khoảng cách đẹp xấu bởi quyền năng của tạo hóa cho hình thức nhân vật, như trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” – mặc dù chỉ với một khoảng cách này cũng để hạn chế tình yêu của thế nhân (Tất nhiên ngoại trừ sự thương hại). Mà cùng lúc tác giả câu chuyện tình Trương Chi đưa ra những khoảng cách tận cùng ở hai cực của những mâu thuẫn xã hội trong con mắt tha nhân vào hoàn cảnh nhân vật của mình. Đó chính là những khoảng cách làm ngăn ngại và ngăn cản tình người đến với nhau mà thế giới hiện đại gọi là “giai cấp”.

Nhưng chính từ khoảng cách tận cùng của những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội ở con người đã đưa câu chuyện đến đỉnh của những câu chuyện tình lãng mạn. Khi tâm hồn của Mỵ Nương ở tuyệt đỉnh cao sang, quyền quý với sắc đẹp tuyệt trần vẫn hòa nhập và đồng cảm trong tiếng sáo tài hoa tuyệt kỹ của Trương Chi. Nghệ thuật âm nhạc chính là chất xúc tác tuyệt vời đã đẩy sự lãng mạn lên đến đỉnh cao nhất của câu chuyện , khi nó đã đưa tâm hồn con người đồng cảm và chia sẻ với nhau vượt qua tất cả mọi mâu thuẫn giữa con người với con người trong nhận thức của tha nhân.
Đến đây thì cũng đủ để mối tình trong câu chuyện mang tính vượt thời gian và chất chứa đầy chất nhân bản của tình yêu con người, khác hẳn những chuyện tình lãng mạn khác ở trần gian.
Trong “Nhà thờ Đức Bà”, Victor Hugo chỉ khai thác được một tình tiết đơn giản nhất để tạo khoảng cách giữa cái cực xấu Cadimodo và sự xinh đẹp của cô gái Bomehieng và tính lãng mạn của câu chuyên xuất hiện ở khoảng cách này với tình yêu vô vọng của Cadimodo. Còn trong truyện tình Trương Chi của nền văn hiến Việt thì đấy cũng mới chỉ là giai đoạn mở đầu cho cả một thiên bi diễm tình lãng mạn vào bậc nhất trong nền văn hóa của nhân loại. Cốt lõi của câu chuyện và chất lãng mạn đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật văn chương chính là sự thượng tôn nghệ thuật trong văn hóa tri thức vào thời Vương đạo thanh bình của đất nước Văn Lang, cội nguồn văn hiến Việt. Những khoảng cách của tha nhân với sự giàu nghèo, sang hèn, đẹp xấu đều chỉ còn là hình thức bên ngoài trang sức cho cuộc đời. Còn giá trị đích thực chính là cái tâm thánh thiện và trong sáng trong mỗi con người rung cảm với thiên nhiên, cuộc sống qua những gía trị nghệ thuật để tâm hồn con người đồng cảm với nhau và hòa nhập trong sự rung cảm nghệ thuật. Ở đây là hình tượng bằng tiếng sáo trác tuyệt của Trương Chi. Sự hòa nhập và rung cảm đồng điệu của con người trong dung môi nghệ thuật, xóa nhòa mọi khoảng cách quyền uy, sự giàu sang và vẻ đẹp thân xác chính là chất lãng mạn tuyệt vời, mang giá trị  nhân bản cao cả và đầy tính minh triết của chuyện tình Trương Chi. Đây cũng là điều mà “Nhà thờ Đức Bà ở Paris”  – vốn được coi là thể loại chuyện tình lãng mạn nổi tiếng của văn chương hiện đại – không thể so sánh.  Có thể nói rằng chỉ cần đến đoạn giữa của thiên diễm tình Lạc Việt cũng đủ để câu chuyện tình Trương Chi xứng đáng đặt vào hàng những câu chuyện tình lãng mạn hay nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
Nhưng tính vượt thời gian và đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật trong chuyện tình Trương Chi của nền văn hiến huyền vĩ Việt – khiến cho trong quá khứ, hiện tại và tương lai của tất cả nền văn minh nhân loại không thể có một câu chuyện hay hơn thế nữa. Đó chính là đoạn kết đầy huyền thoại đã đưa câu chuyện tình Trương Chi vào cõi bất tử của văn minh nhân loại, qua hình tượng nghệ thuật trác tuyệt với trái tim hóa đá của Trương Chi và giọt lệ thiên thu của Mỵ Nương.
Thế nhân kể rằng: “Trương Chi khi gặp Mỵ Nương qúa xinh đẹp và đem lòng yêu nàng“!?.


Có thật thế không? Tầm thường quá! Nó không phải bản chất của câu truyện tình trác tuyệt của nền văn hiến Việt. Cái đó chỉ là nhận thức trực quan về ngôn từ văn chương khi ghi nhận Trương Chi thấy Mỵ Nương xinh đẹp nên đem lòng yêu trong tuyệt vọng và tự tử chết (Hoặc bệnh chết). Một cái nhìn như vậy không mang tính hợp lý với toàn bộ kết cầu nội dung câu chuyện truyền miệng vượt qua bao thăng trầm của lịch sử với thời gian tính bằng thiên niên kỷ. Dù là chuyện thần thoại cũng phải có tính hợp lý của nó. Kết cấu và diễn biến toàn bộ nội dung câu chuyện cho thấy tiếng sáo Trương Chi chỉ có Mỵ Nương cảm nhận được và rung cảm với tiếng sáo ấy. Ở đây, nó có nét tương tự như câu chuyện Tử Kỳ với Bá Nha vậy. Điều này có thể minh họa bằng hai câu thơ đầy minh triết của nữ sĩ Ngân Giang:

Chuyện không hợp ý cười thêm gượng.
Đời thiếu tri âm sống cũng thừa.

Bởi vậy, khi biết rằng người có thể chia sẻ nỗi cô đơn tận cùng với tâm hồn chàng chính là nàng công chúa quyền quý cao sang và không thể gần gũi, chàng đã tự sát (Hoặc buồn bã sinh bệnh mà chết). Tương tự như Bá Nha đập đàn vì không còn ai chia sẻ. Tình yêu của Trương Chi nếu chỉ vì muốn lấy Mỵ Nương làm vợ, nhưng không được mà chết thì tầm thường quá. Nó không hợp lý với diễn biến nội dung câu chuyện. Bởi vì nếu chỉ có tham vọng hòa nhập thân xác thì câu chuyện sẽ kết thúc ở cái chết của Trương Chi.
Chính đoạn kết của câu chuyện mang tình huyễn ảo và màu sắc thần thoại đã xác định rằng Trương Chi không hề có tham vọng lấy Mỵ Nương, mà chàng chỉ cần chờ đợi một câu trả lời của một tâm hồn đồng cảm. Hình tượng trái tim hóa đá như thách thức với thiên thu, khắc khoải đợi chờ câu trả lời của Mỵ Nương đã xác định rằng: Chàng muốn tìm một sự hòa nhập tâm hồn vốn cô liêu tận cùng trong chàng và chàng chỉ còn tiếng sáo để gửi gấm nỗi buồn nhân thế. Sự miêu tả tính tuyệt kỹ tài hoa trong tiếng sáo của Trương Chi còn là sự gửi gấm cả linh hồn chàng hòa trong tiếng sáo.
Nếu bạn đã từng nghe những nghệ nhân hạng hai chơi nhạc vì đến giờ biểu diễn; đã từng nghe những ca sĩ hát nhép mà cố diễn cảm thì bạn sẽ thấy tính hòa nhập cả tâm hồn trong biểu diễn nghệ thuật sẽ mang lại những cảm xúc chân thành nhất của con người đến với nhau cần thiết như thế nào. Khi tác giả chuyện tình Trương Chi đặt nhân vật của mình trong một hoàn cảnh cô đơn tận cùng trong sự mồ côi cả cha lẫn mẹ, nghèo nàn và xấu xí. Đã vậy chàng Trương lại không phải sống ở nới đô thị phồn hoa, mà sống trên một con thuyền lênh đênh sông nước, vốn là một hình ảnh đầy cảm xúc của nội tâm khi con người trở về với chính mình. Trong hoàn cảnh cô đơn tận cùng trong tình nhân thế thì tiếng sáo tuyệt kỹ tài hoa của Trương Chi chính là hình tượng miêu tả cả tâm hồn Trương Chi gửi gấm một nỗi niềm sẻ chia và hòa nhập nỗi cô liêu  trong tiếng sáo của chàng. Tất nhiên tiếng sáo chất chứa đầy sự u uẩn của Trương Chi cũng chứa đựng bao nỗi khát khao một tình yêu con người đích thực đến với chàng.


Tiếng sáo của Trương Chi đâu phải chỉ có mình Mỵ Nương nghe được. Nhưng ai rung cảm được tiếng nhạc lòng của Trương Chi bằng Mỵ Nương? Phải chi Trương Chi là Bá Nha, Mỵ Nương là Tử Kỳ thì chỉ đập cây đàn là xong. Nhưng Trương Chi không thể đập cây sáo rồi ra đi như Bá Nha. Vì ở Bá Nha chỉ là sự đồng điệu về nghệ thuật, không có người thưởng thức thì đàn ai nghe. Còn Trương Chi, ngoài sự đồng điệu về nghệ thuật; thanh âm tiếng sáo chính là thanh âm của tâm hồn chàng; khi ngoại hình xấu xí trong con mắt thế nhân, không phải là con người đích thực trong chàng. Rung động với tiếng sáo của Trương Chi, chính là sự hòa nhập với tâm hồn Trương Chi. Nhưng oái oăm thay, người hiểu được lòng chàng và hòa nhập với tâm hồn chàng qua tiếng sáo lại là một giai nhân tuyệt thế và quyền quý cao sang. Cho dù cha nàng với quyền uy tể tướng, có thừa khả năng để đưa chàng đánh cá nghèo thành một người có đầy thế lực. Nhưng quyền uy tể tướng, làm sao vượt được quyền năng của tạo hóa đã ghi dấu ấn trên thân hình xấu xí của chàng?
Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris”, Victor Hugo chưa một lần để Cadimono tỏ tình với người minh yêu vì khoảng cách đẹp xấu. Đấy là tính nhân bản của câu chuyện này – Mặc dù hoàn cảnh nhân vật này có thể nói là cùng “giai cấp”. Tất nhiên tác giả thiên tài của nền văn hiến Việt trong câu chuyện tình Trương Chi đầy chất nhân bản cũng không thể đưa một người con gái xinh đẹp lấy một chàng trai thậm xấu xí cả.

Nếu như tác giả của chuyện tình Trương Chi và “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” cho nhân vật của mình lấy nhau thì sự ích kỷ lại chính từ chàng trai xấu xí. Đâu còn tính nhân văn và cao thượng của câu chuyện tình lãng mạn dù cách nhau hàng thiên niên kỷ. Cái chết của nhân vật trong cả hai câu chuyện chính là một trong những tình tiết giàu chất nhân tính và cao thượng của chuyện tình Trương Chi, có nét tương đồng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” của Victor Huygo. Nhưng trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” thì cô gái xinh đẹp người Bôhêmiêng đã chết, để hai người cùng chết bên nhau với tình yêu say đắm của Cadimodo. Còn ở chuyện tình Trương Chi thì chàng nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh đã chết. Chàng chết, vì đã mất đi một nửa linh hồn khi chợt thấy ở trong sự rung cảm của Mỵ Nương với cõi lòng chàng. Chàng chết, vì không thể đem lại hạnh phúc cho nàng với một ngoại hình xấu xí. Câu chuyện tình đến đây cũng đủ chất lãng mạn và cao thượng, hơn hẳn so với nhiều câu chuyện tình nổi tiếng cổ kim.
Chính sự khao khát một tình người đồng cảm sưởi ấm cho tâm hồn cô liêu đến tận cùng của Trương Chi, khi đã tìm được sự hòa nhập của tâm hồn mà không thể gần gũi để sẻ chia,  đã làm trái tim chàng hóa đá để thách thức với thiên thu, khắc khoải chờ câu trả lời của Mỵ Nương.
Giọt lệ của Mỵ Nương khi được nghe lại tiếng sáo Trương Chi rơi vào chén ngọc – được khắc họa bằng cả khối đá nội tâm (Biểu tượng bằng trái tim) tưởng như sánh với sự vĩnh hằng cùng tạo hóa – Hai tâm hồn hòa nhập, trái tim Trương Chi tan chảy bởi giọt lệ như nhỏ vào cõi thiên thu của Mỵ Nương. Giọt lệ thiên thu ấy mang cả một tâm hồn đồng cảm trong tiếng sáo năm xưa của Trương Chi, đưa câu chuyện tình vào cõi bất tử của văn minh nhân loại.
Đoạn kết của câu chuyện tình Trương Chi đầy huyền ảo trong sự hư cấu nghệ thuật, đạt đến đỉnh cao nhất của thiên bi diễm tình trác tuyệt và rất giàu chất nhân bản. chất lãng mạn  đã được thăng hoa đến tận cùng và chứa đựng tính minh triết cao cấp nhất của mọi thứ triết lý của tha nhân trong lịch sử văn minh nhân loại, để ngàn đời sau – cho đến ngày tận thế – nhân loại sẽ không còn tạo dựng được một hình tượng hay hơn thế nữa. Hình tượng trái tim hóa đá và giọt lệ thiên thu đã nhắc nhở con người trở về với bản thể đích thực có trong mỗi con người – đó là cõi nội tâm và sự hòa nhập với sự vĩnh hằng – Nó đã xóa nhòa và vượt qua những khoảng cách mâu thuẫn xã hội và tham vọng của con người – dù biến thiên theo lịch sử – đã tạo ra cho chính mình và chấp vào đó ở nơi trần thế. Cũng như tượng thần vệ nữ ở Milo, những điêu khắc gia đầy tài năng của nhân loại hiện nay, chưa ai lắp nổi cánh tay cho nàng. Đôi cánh tay trần thế, không thuộc về vẻ đẹp của thiên thần.
Đây cũng là điều mà trong “Nhà thờ Đức Bà ở Paris” một điển hình được ca ngợi về thể loại chuyện tình lãng mạn, đã không giải quyết được. Trong “Nhà Thờ Đức Bà ở Paris” Cadimodo đã chết theo người yêu, tuy giàu chất lãng mạn, nhưng không thể là một mẫu tình yêu của đời thường. Ngược lại, chính sự huyền ảo phi thực trong chuyện tình Trương Chi – thể hiện ở trái tim ngọc đá và giọt lệ thiên thu – đã đưa con người hướng tới một giá trị đích thực của tình yêu là sự hy sinh và hòa nhập tâm hồn, nhưng lại không thể chứng tỏ được bằng cái chết.

Ở đây – trong đoạn cuối của chuyện tình Trương Chi – ngay cái chết là khoảng cách tuyệt vọng nhất của tha nhân trong tình yêu đôi lứa, họ vẫn đến được với nhau bởi sự hòa nhập vi diệu của tâm hồn qua tiếng sáo liêu trai mang trong thanh âm chất ngất nỗi buồn nhân thế.
Bằng những hình tượng nghệ thuật, tác gia Lạc Việt đã chứng tỏ được chất lãng mạn tuyệt đỉnh và mơ ước trong tình yêu đôi lứa: sự hoà nhập của tâm hồn, khiến câu chuyện tình Trương Chi trở nên bất tử với thời gian. Đây chính là cõi huyền diệu trong “Mùa xuân vĩnh viễn“ của nhân loại.
Chuyện tình Trương Chi, một chuyện tình lãng mạn cổ kim chưa từng có, vĩnh viễn đứng ở đỉnh cao của Kim Tự Tháp những chuyện tình lãng mạn của tha nhân, đã chứng tỏ trí tuệ bậc thầy của các tác gia đời Hùng để lại cho thế nhân qua hàng thiên niên kỷ…

Văn Cao, một nghệ sĩ tài năng tuyệt thế mà nhạc khúc Thiên Thai đã đưa linh hồn ông vào chốn vĩnh hằng ở cõi Bồng Lai. Ông không hề trách Mỵ Nương như không ít người lầm tưởng. Ông trách thế nhân còn có mảnh đời phụ bạc, trong những cuộc tình đã đến rồi đi trong cuộc đời ông, khi ông tìm thấy cảm hứng tuyệt vời ở “Chuyện tình Trương Chi” của nền văn hiến Việt, thách thức với thiên thu cho đến tận bây giờ.

Đêm nay,
Dòng sông Thương dâng cao,
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền, Ta ca trái đất còn riêng ta, Đàn đêm thâu. Trách ai khinh nghèo quên nhau Đôi lứa bên giang đầu Người ra đi với cuộc phân ly Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Đầu xuân xem lại câu chuyện tình Trương Chi, áng văn chương bất tử của nền văn hiến Việt, tôi không khỏi ngậm ngùi tình nhân thế với những gía trị huyền vĩ của Việt sử 5000 năm văn hiến.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
http://www.thiensulacviet.com/

Posted by Phan Chau Truong

Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Oct 14, 2015 8:14 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ



Chén Ngọc Trương Chi
Nguyễn An Bình

Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)

  Ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng, bao giờ trường học của quan tư đồ Vương Doãn cũng tấp nập môn sinh, vì đây là những ngày bình văn thường kỳ.Tháng thì bình thơ, khi thì văn, phú, tế, biểu, đối…. Tất cả các loại văn cần thiết trong thi cử điều được quan tư đồ ra đề để các môn sinh rèn tập và chuẩn bị từ trước đến đợt bình văn đem ra thi thố và luận bàn. Quan tư đồ từng giữ chức vụ cao trong triều và từng là thầy dạy của đương kim hoàng thượng bây giờ. Nên khi ông cáo lão từ quan về mở trường dạy học thì từ các bậc công hầu khanh tướng trong triều cho đến các gia đình giàu có đều mong muốn gởi gấm con cháu của mình đến học cùng ông để có thể nên danh nên phận sau nầy. Ông dạy rất nghiêm minh và cẩn trọng không hề thiên vị một môn sinh nào dù đó là con của quan to chức trọng hay con của hoàng thân quốc thích đi chăng nữa, nhiều học trò ông đổ đạc cao và có danh phận trong triều. Trước ngày bình văn ông đều yêu cầu các môn sinh nộp quyển để ông chấm qua đó ông chọn chừng năm quyển được ông phê ưu đem ra bình và chính tác giả của những quyền đó phải đọc cho các bạn đồng môn nghe và lắng nghe lời những nhận định cũng như giải đáp những vướng mắc của các môn sinh khác.

    Lần nào cũng thế, trong năm quyển được chọn bao giờ cũng có quyển của con trai quan ngự sử Trương Học Phi. Không phải quan tư đồ vị nể người môn sinh ấy là con quan ngự sử, bạn thân của ông mà là tài học của chàng trai mười sáu tuổi ấy thật nổi trội, văn chương lưu loát,lập luận sắc sảo mà lời bình văn thì thật hấp dẫn, lôi cuốn.Trương Chi đối đáp rất linh hoạt, đầy sức thuyết phục. Nhiều bạn đồng môn ganh với tài học của chàng tìm mọi sơ hở trong bài văn để đặt câu hỏi nhằm bắt bí, hạ thấp chàng đều thất bại.Quan tư đồ đặt nhiều kỳ vọng vào người học trò yêu quí của mình trong kỳ thi năm nay sẽ chiếm bảng vàng đem lại vẻ vang cho ông và gia đình quan ngự sử. Nhưng một tai họa khốc liệt xảy ra đã làm đảo lộn những dự tính tốt đẹp đó, một trận hỏa hoạn cực lớn đã thiêu rụi cả ngôi nhà của quan ngự sử, già trẻ lớn bé không một ai sống sót chỉ trừ Trương Chi. Dân chúng quanh vùng không hiểu vì sao ngọn lửa lại lan nhanh đến thế, có người cho rằng trời cao không có mắt nên tai họa đổ xuống gia đình một viên quan thanh liêm, chính trực, có người hiểu chuyện, chép miệng than: Đời nào cũng thế, bọn tham quan ô lại đầy rẫy, chống lại nó,nó mà không chết thì mình phải chết thôi. Vì cách đây không lâu quan ngự sử đã dâng sớ lên vua xin trị tội bảy kẻ nịnh thần, tham quan  nhất là sau vụ vỡ đê ở sông Nhĩ Hà, bọn chúng đã ăn xén vật tư, kê khống ngày công nhân lực để bỏ túi riêng,chia nhau làm giàu gây nên hậu quả nghiêm trọng khôn lường làm khổ lê dân bá tánh.

      Nghi án về vụ phóng hỏa giết người nhà quan ngự sử không đi đến đâu vì triều đình không tìm được chứng cứ hay kẻ gian hùng đã xóa sạch mọi dấu vết,thế lực quá mạnh chăng thì không ai biết, cuối cùng theo thời gian cũng trôi vào quên lãng. Chỉ tội cho Trương Chi, mặc dù thoát chết trong cơn hỏa hoạn khủng khiếp đó, nhưng khuôn mặt thanh tú của chàng hầu như bị hủy hoại hoàn toàn, cũng may đôi mắt và thanh âm không bị hư tổn. Trương Chi được người chú ruột đem về nhà chăm sóc, nuôi dưỡng gần một bến sông. Ông nầy làm nghề chèo đò, đánh cá trên sông để sinh sống qua ngày. Sau mấy tháng chữa trị thì Trương Chi cũng bình phục nhưng gương mặt không còn lành lặn như xưa, nó biến dạng đến nổi chàng không còn muốn nhìn vào gương nữa. Để khỏi làm người khác hoảng sợ vì gương mặt dị dạng của mình Trương Chi luôn đội chiếc nón rộng vành kéo sụp xuống, phía trước mặt được che thêm một miếng vải mỏng sậm màu che khuất đi phần da mặt bị kéo nhúm lại vì bỏng. Rồi người chú cũng qua đời, Trương Chi trở thành người lái đò, đánh cá trên sông từ đấy.

    Làm bạn với chàng từ nay là con đò, hằng ngày lênh đênh trên sông nước để mưu sinh, nỗi cô đơn buồn tủi với thân phận đắng cay nghiệt ngã Trương Chi chỉ còn biết gởi gấm qua tiếng sáo, giọng hát của mình. May mắn ngọn lửa đã không lấy mất những gì còn lại của chàng.Tiếng sáo vẫn du dương, đằm thắm, giọng hát vẫn mượt mà,trôi chảy, có khác chăng là giờ đây nó chất chứa nỗi buồn nhiều hơn vui và cũng từ đây trên bến sông nầy người ta quen dần với một anh ngư phủ có tiếng sáo và giọng hát tài hoa làm say đắm lòng người. Từ nay chuyện thi cử, danh hoa phú quí không còn vướng bận lòng chàng, nó chỉ là những bọt sóng đầu ghềnh mà thôi.

    Trên bến sông nầy có một dinh thự của viên quan thượng thư bộ hình Trần Công. Ông cho xây dinh thự nầy để làm vui lòng người con gái mà ông hết lòng yêu quí: tiểu thư Trần Mị Nương. Mị  Nương tuổi vừa đôi tám, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời, tính nết lại thùy mị đoan trang nên nhiều gia đình quyền thế trong kinh thành cho người đến dạm hỏi, mai mối nhưng nàng chưa nhận lời ai cả, quan thượng thư vì yêu con nên cũng không nài ép làm gì. Không giống như những gia đình vọng tộc khác, nàng Mị Nương xinh đẹp ngoài việc thêu thùa khéo léo, nàng còn được phụ thân mướn thầy về dạy học cho nàng nên cầm kì thi họa môn nào nàng cũng am tường cả. Cảnh tấp nập chốn kinh thành làm nàng mệt mõi không vui nên quan thượng thư cất riêng cho nàng dinh thự gần bến sông nầy, sống gần gủi với thiên nhiên,cây cỏ hợp với tâm tánh của nàng. Một đêm trăng thanh gió mát, Mị Nương trằn trọc không ngủ được, nàng bước ra hiên ngoài vọng lâu để ngắm trăng cho khuây khỏa thì từ xa phía bến sông tiếng sáo cất lên lúc khoan lúc nhặt, chơi vơi, chất chứa nỗi buồn nhân thế đã làm rung động tâm hồn của nàng tiểu thư con nhà đài các.Trái tim chưa hề biết rung động của Mị Nương với nhạc khúc tình yêu đã bắt đầu xao xuyến. Trên bến sông vắng Trương Chi vẫn thả hồn theo tiếng sáo u hoài.Tai họa đã cướp đi của chàng tất cả nhưng đã bù đắp cho chàng tiếng sáo tài hoa đa cảm.Tiếng sáo cất lên nói thay lòng chàng, như an ủi cuộc đời đầy nghiệt ngã mà chàng phải hứng chịu. Trương Chi đâu biết rằng nơi lầu son gác tía ở bên sông kia đang có một cô tiểu thư xinh đẹp đang say đắm thả hồn theo tiếng sáo của chàng.

      Mị Nương nhờ nàng hầu nữ Nghi Xuân dò hỏi xem ai là người thường thổi sáo trên bến sông ấy thì được biết đó là một chàng trai sống nghề hạ bạc tên Trương Chi. Rung động trước tiếng sáo tài hoa ấy nàng muốn tìm gặp mặt nhưng nàng hầu nữ Nghi Xuân cố sức can ngăn vì quan thượng thư biết được sẽ rất nguy hiểm. Thấy chủ có vẻ không Nghi Xuân bèn bày kế cho Mị Nương nói dối quan thượng thư đi vãn cảnh rồi giả dạng nam nhân xuống bến sông mướn đò đi du ngoạn để có dịp nghe lại tiếng sáo tài hoa đó. Ngồi trên đò xuôi theo dòng nước một lúc lâu chàng công tử họ Trần kia không biết phải bắt chuyện từ đâu. Mùa nầy bông lau nở trắng cả triền sông, xa xa vài chiếc thuyền đánh cá tung chài trên sông nước, sương còn lãng đãng trên đầu cây ngọn cỏ, cảnh thật hữu tình. Công tử họ Trần cất tiếng ngâm:

              Khứ niên kim nhật thử môn trung
              Nhân diện đào hoa tương ánh hồng

      Hai câu thơ trong bài Đề tích sở kiến xứ của Thôi Hộ đời Đường. Ở câu thơ thứ hai chàng công tử họ Trần cố ý ngân dài ra chậm lại rồi dừng hẳn. Không gian như chìm vào cõi không tịch mịch thì bỗng phía sau mũi đò cất lên một tiếng ngâm đầy thanh tú:

             Nhân diện bất tri hà xứ khứ
             Đào hoa y cựu tiếu đông phong.*

      Cả hai thầy trò công tử họ Trần cùng quay mặt lại mũi đò, cậu tiểu đồng Nghi Xuân cười lém lỉnh nhìn về cô chủ như thầm khen tiểu thư nhà mình thông minh thật.Chàng công tử họ Trần lộ vẻ hân hoan,hai tay cung kính trước mặt, hỏi chàng lái đò:
       -Thì ra huynh cũng là người am hiểu thơ phú. Thành thật xin lỗi huynh, đệ đã dám múa rìu qua mắt thợ rồi.
      Người lái đò lật đật buông mái chèo, hai tay cung kính đáp lễ:
-          Xin công tử thứ lỗi tôi đã làm mất nhã hứng ngâm thơ của công tử, thấy công tử dừng lâu quá bất giác tôi đọc tiếp hai câu sau cho tròn nghĩa mà thôi.
-          Huynh là người có học ,sao không cố chí học hành để mai sau vinh hiển lại làm nghề hạ bạc nầy?
-          Xưa thân phụ còn sống có được cho học đôi ba chữ thánh hiền. Nay thân phụ mất nhà nghèo làm nghề sông nước sống cho qua ngày, không dám mơ cao.
Công tử họ Trần đề nghị:
-          Nếu được phép đệ có thể kết bằng hữu với huynh được chăng?
Chàng lái đò vội vã từ chối:
-          Tôi không xứng đáng làm bằng hữu với công tử đâu, thân phận tôi nghèo hèn, công tử thứ lỗi cho.
     Nhưng trước tấm chân tình của chàng công tử họ Trần, Trương Chi không tiện từ chối.Cuộc gặp gỡ lần đầu của họ là như thế, tuy chưa thật sự gần gũi, thân mật nhưng hình như  có mối dây ràng buộc họ như một định mệnh đã an bày.Hai người hẹn nhau mỗi tháng sẽ gặp mặt nhau một lần.Chàng Trương thì thổi sáo, còn công tử họ Trần thì ngâm thơ. Đôi lúc họ ra đề cho nhau cùng đối họa thơ phú, trăm phần tương đắc. Từ ngày được kết bạn với Trần Công Tử, tiếng sáo của Trương Chi không còn u oán, buồn bã nữa, tiếng sáo lại cất lên âm điệu réo rắt, yêu đời như thuở chàng còn là môn sinh của quan tư đồ Vương Doãn.Trương Chi đã vẽ tặng cho Trần công tử một bức chân dung với gương mặt thật xinh đẹp như một nàng thiếu nữ diềm tuyệt, tay đang xòe quạt, trên thân quạt có đề bài thơ của Thôi Hộ  như là kỷ niệm nhờ bài thơ mà hai người kết bằng hữu với nhau. Nhìn bức tranh khi vẽ xong Trương Chi chợt ao ước phải chi Trần công tử là gái nhỉ? Chỉ suy nghĩ đến đây thôi là chàng đã vội xua đi cái tư tưởng điên rồ ấy ra khỏi đầu óc của mình. Riêng Trần công tử có vẻ thích bức tranh mỹ nam nhân của mình lắm, đem về treo trong phòng ngắm nghía rồi tự hỏi: Nếu Trương Chi biết mình là gái thì sao nhỉ? Chỉ nghĩ đến đó thôi Mị Nương đã ửng hồng đôi má không dám nghĩ tiếp nữa. Nhiều lần gặp gỡ, ngâm vịnh trên đò Trần công tử dợm hỏi xin được xem rõ mặt người bằng hữu của mình nhưng Trương Chi lại khéo léo từ chối, lấy lí do mình bị dị dạng từ nhỏ nên không sợ làm hoảng hốt người khác.Thấy chàng Trương từ chối quyết liệt nên Mị Nương thôi không đề cập đến nữa nhưng cứ thắc mắc mãi. Những lần không có dịp gặp gỡ Mị Nương lại lên vọng lâu nhìn về bến sông lắng nghe tiếng sáo của Trương Chi theo gió đưa về mà miên man nghĩ về mối tình chớm nở lớn dần theo năm tháng của mình đối với chàng Trương mà mỉm cười hạnh phúc.

      Một hôm  trong lần gặp mặt,đò đang xuôi theo dòng thì cơn dông bắt đầu ập đến, Trương Chi vội quay mũi để tấp đò vào bờ,gió mạnh đã hất tung chiếc nón rộng vành mà chàng đang đội.Hoảng hốt chàng vội với thêm nắm giữ, nhưng  không kịp nữa rồi, chiếc nón đã rơi xuống sông, cùng lúc ấy là một tiếng kêu á đầy sửng sốt kinh hoàng của Trần công tử. Vô cùng lo sợ,Trương Chi luống cuống lấy tay che mặt quay lại nhìn. Trần công tử đã ngã nhoài xuống sạp gần như bất tỉnh, chiếc mũ đội đầu văng mất hồi nào không biết, lộ ra mái tóc dài xỏa xuống bờ vai.Trương Chi há hốc miệng, kinh ngạc:

        -  Trần công tử là…là…
Tên tiểu đồng Nghi Xuân trong cơn hoảng loạn hét lớn:
        - Trần công tử, Trần công tử cái gì? Đó là Trần tiểu thư con quan thượng thư đó. Người chèo đò tấp vào bờ mau, kêu phu kiệu đưa tiểu thư về dinh để chữa trị không nguy mất.
Thì ra khi cơn gió làm tốc chiếc nón rộng vành hằng ngày che khuất gương mặt xấu xí của Trương Chi, Mị Nương đã kịp nhận ra gương mặt dị dạng,gớm giếc mà chàng cố gắng che giấu, sợ làm tổn thương đến người khác, nàng hoảng hốt ngất đi vì sợ hãi. Chuyện không thể giấu được nữa rồi, cái ngày mà Trương Chi lo sợ đã đến nhưng chàng không ngờ là nó đến nhanh như vậy.

Suốt mấy ngày hôm sau Trương Chi lãng vãng nơi cửa dinh quan thượng thư để dò la tin tức nhưng không được gì, cũng không thấy con hầu nữ Nghi Xuân xuất hiện. Sốt ruột chàng lân la dò hỏi quân canh thì bọn chúng xua đuổi chàng như đuổi tà. Thất vọng, mòn mõi chàng quay về bến sông nằm dài không thiết ăn uống, thân hình ngày thêm tiều tụy đáng thương. Hình ảnh của Mị Nương luôn lởn vởn trong đầu óc của chàng. Chàng đã yêu Mị Nương từ bao giờ.Từ khi kết bằng hữu với Mị Nương chàng luôn ao ước phải chi Mị Nương là gái thì hạnh phúc biết bao, nhưng chàng quên rằng với gương mặt xấu xí, thân phận thấp hèn của mình chỉ làm cho sự việc thêm tệ hại mà thôi.Chàng nghĩ đến cái chết.Phải rồi, chỉ có cái chết mới giải quyết hết mọi việc.Rời xa thế giới đầy ô trọc nầy là một giải thoát cho cả mình và Mị Nương.
Một buổi sáng lão ngư Lê Thái như thường lệ đi chài lưới ngang qua chiếc đò của Trương Chi lấy làm lạ. Đã hai hôm nay rồi con đò vẫn nằm im một chỗ không vời đi đâu.Thường lão đi ngang qua đã thấy Trương Chi thức từ lúc nào, pha ấm trà mới mời lão uống một chén cho ấm bụng rồi mới đi chài. Lão cất gọi nhưng không ai trả lời, lão khom người cúi xuống vén tấm sáo mỏng bước vào con đò.Trương Chi nằm đó người lạnh tanh đã chết từ lúc nào, hai tay để lên ngực phía dưới có kẹp một mảnh giấy. Lão đở nhẹ một cánh tay của Trương Chi lên, cầm mảnh giấy đọc. Đó là bài thơ tuyệt mạng của chàng:

          Bụi trần chi vướng bận lòng nhau
          Một tấm chân tình biết gởi đâu?
          Tiếng sáo giao duyên tràn nỗi nhớ
          Câu thơ ly biệt cạn thương sầu
          Nửa vầng nhật nguyệt ngàn năm hận
          Một khối u tình vạn kiếp đau
          Tro bụi xin người hòa sông nước
          Ân tình chưa trọn hẹn mai sau.

Lão ngư Lê Thái thở dài.Lão thực hiện theo nguyện vọng sau cùng của Trương Chi, đem thi hài của chàng đi hỏa táng rồi đem tro cốt của chàng rải trên dòng sông mà hằng ngày con đò chàng ngược xuôi đưa đò và đánh cá. Khi lấy tro cốt của Trương Chi đi rải sông lão ngư phát hiện trái tim của chàng không tan thành tro bụi mà lại kết thành một khối đá cứng. Đem xuống sông rửa trôi đi những vết dơ bẩn bên ngoài, viên đá lấp lánh màu đỏ huyết như viên ngọc.Lấy làm lạ lão bỏ viên đá ấy và bài thơ tuyệt mệnh vào một cái hộp rồi cất đi.

Riêng Mị Nương sau cơn hoảng loạn đó nàng nằm mê sảng cả tháng trời. Quan thượng thư ngày đêm mời thầy thuốc chữa trị bệnh tình mới thuyên giảm. Họ nói tiểu thư bị tâm bệnh cần phải có thời gian lâu dài mới hết được.Mỗi lần nhìn bức chân dung mà Trương Chi vẽ tặng mình mà Mị Nương ứa nước mắt, nàng nhớ tiếng sáo của Trương Chi. nhớ những lúc cùng chàng ngâm vịnh trên sông nước, nàng hiểu ra rằng nàng không thể sống thiếu chàng, chẳng qua là khi thấy bộ mặt gớm giếc một cách bất ngờ, đột ngột làm cho tâm trạng nàng hoảng hốt, đau khổ mà thôi. Mị Nương nhờ nàng hầu nữ Nghi Xuân đi dò la tin tức của Trương Chi thì gặp lão ngư Lê Thái. Lão đã kể hết sự tình, đưa chiếc hộp đựng bài thơ tuyệt mạng và viên tim đá cho Nghi Xuân đưa về cho tiểu thư của cô vì chính Mị Nương là chủ nhân của chiếc hộp nầy chứ không phải lão, lão giữ cũng không có ích lợi gì cả.

Đọc bài thơ tuyệt mệnh và viên tim đá trong tay Mị Nương càng đau buồn, bồi hồi khôn tả. Nàng tự trách mình trong giây phút nông nổi đã làm mất đi mối chân tình cùng Trương Chi, thế gian nầy còn tìm đâu ra tiếng sáo tài hoa ấy.Thấy con có vẻ quý viên ngọc đá, quan thượng thư nhờ thợ kim hoàn chạm khắc thành một chén ngọc vô cùng tinh xảo để tặng cho con. Ngày nọ Mị Nương rót trà vào chén ngọc, bỗng nhiên dưới đáy chén hiện lên hình ảnh con đò, văng vẳng tiếng sáo vi vu như kể lể nỗi nhớ nhung thương tiếc.Hình ảnh cũ lại ùa về, nàng bật khóc, những giọt nước hối tiếc chân tình rơi vào chén ngọc.Trong lòng chén như có một khói mỏng xanh xuất hiện càng lúc càng lớn dần.Cuối cùng cả chén ngọc hóa thành làn khói xanh tan vào khoảng hư không mất dạng.

Mị Nương lâm trọng bệnh, ngày càng thêm nặng.Trong cơn mê sảng nàng nghe như có tiếng sáo của Trương Chi rót vào tai,kể cho nàng nghe bao nỗi nhớ nhung vì xa cách. Đêm Mị Nương mất ,người ta kể lại rằng có đôi hạc trắng bay từ dinh quan thượng thư về phía bến sông nơi ngày trước hai người thường thổi sáo,  ngâm vịnh thơ phú đảo ba vòng,kêu vang ba tiếng rồi bay về hướng tây mất hút.Bức chân dung treo trên tường cũng mờ dần nét vẽ rồi mất hẳn như chưa từng được ai đó đặt bút vẽ lên bao giờ.

Tháng 6/2013

* Tạm dịch:                  Đề chỗ đã thấy năm trước
                            Cửa nầy, năm ngoái, hôm nay
                     Hoa đào phản chiếu mặt ai ửng hồng
                            Mặt người giờ ở nơi nao?
                     Hoa đào vẫn đó, cười chào gió đông  (Thôi Hộ)

                                                Trần Trọng San dịch  

   
Nguyễn An Bình

Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Fri Dec 04, 2015 4:42 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ


CỤ ĐỒ CHIỂU GIẢ ĐIẾC


Cụ Đồ Chiểu là một bậc sĩ phu làm rạng danh cho nước Việt Nam ta.

Năm hai mươi sáu tuổi, cụ ra ngoài Huế để thi Hội. Dọc đường hay tin mẹ từ trần, cụ trở về thọ tang, than khóc đến mù cả mắt.

Năm 1861, Pháp chiếm miền Đông Nam Kỳ, dẫu bệnh tật, cụ vẫn hăng hái sung vào bộ tham mưu của nghĩa quân, bàn cơ mưu giết giặc với ông Đốc binh là ông Trương Công Định.

Sau đó, cụ về Bến Tre dạy học, soạn sách.

Quan chánh tham biện người Pháp ở tỉnh Bến Tre rất hâm mộ tài năng của cụ, đích thân đến tận nhà thăm viếng. Nhưng mỗi khi viên thông ngôn dịch lại, cụ giả đò không nghe như người điếc.

Lần đầu, quan tham biện cho cụ hay rằng: “Điền đất của cụ ở Gia Định nay đã tra xét rồi, nhà nước mời cụ ra nhận.”

Cụ nói: “Tôi không dám nhận. Nước đã mất. Của riêng của tôi làm sao còn được.”

Lần thứ nhì, quan tham biện ngỏ ý muốn cấp cho cụ một số tiền dưỡng lão. Cụ từ chối.

Lần thứ ba, quan tham biện đến nhờ cụ sửa lại bộ thơ Lục Vân Tiên mà quan đã sao lục để cho đúng bổn chánh. Cụ nhận lời.

Tục truyền rằng: Bình sinh không bao giờ cụ dùng xà bông, chỉ giặt quần áo bằng nước tro. Hỏi sao cụ mặc toàn đồ trắng, cụ nói: -Tôi để tang cho đất nước.



LA SƠN PHU TỬ

Cuối đời nhà Lê, ở huyện La Sơn xứ Nghệ An (nay là tỉnh Hà Tĩnh) có một nhân tài lỗi lạc đã từng được vua Quang Trung Nguyễn Huệ mời làm quân sư.

Đó là ông Nguyễn Thiếp.

Năm được hai mươi tuổi, cụ mắc bệnh điên. Về sau bệnh không còn, nhưng cụ đặt hiệu mình là Cuồng Ẩn (hoặc Điên Ẩn). Cụ thi đậu nhưng không thích làm quan, rút lui về tu tiên tại núi Thiên Nhận.

Nghe danh cụ, Nguyễn Huệ ba lần gởi thơ mời giúp việc nước, nhưng cả ba lần đều bị từ chối. Sau rốt, cụ chịu hiệp tác với nhà vua, khuyên vua ba điều:
 QUÂN ĐỨC: nghĩa là vua phải làm thế nào cho có đức. DÂN TÂM: nghĩa là làm thế nào cho dân ủng hộ. HỌC PHÁP: nghĩa là cách học hành kinh sử cho đúng đắn.

Năm cụ được sáu mươi tuổi, bọn Tôn Sĩ Nghị kéo quân Thanh tràn vào chiếm Thăng Long. Vua Quang Trung bèn xua binh ra Bắc. Lúc đi ngang Nghệ An, nhà vua bèn triệu cụ để hỏi: -Nghe thầy tinh tường về khoa lý số lại hay về mưu lược. Nay Tôn Sĩ Nghị nó sang, thầy nghĩ chước nào?

Cụ Nguyễn Thiếp thưa rằng: -Quân quý thần tốc. Người Mãn Thanh ở xa tới không biết rành tình hình nước ta. Vả lại chúng nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì trong vòng mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn thì khó lòng mà thắng chúng nó.

Vua Quang Trung nói: -Phải, phải. Tôi nay ra Bắc Hà đánh nó cho chết. Tôi mà dẹp được giặc Tàu xong thì xin rước thầy ra dạy học. Tôi muốn khí dụng gì cũng chẳng mua của nước Tàu, người mình tự làm lấy mà xài.

Cụ Nguyễn Thiếp thưa rằng: -Chỉ có thuốc Bắc là phải dùng của Tàu mà thôi!

Quân Mãn Thanh phải tan vỡ ở Đống Đa. Về sau, vua gởi thơ cho cụ để cảm tạ: -Tiên sinh đã chịu làm việc cho thiên hạ. Người xưa bảo: “Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ.” Lời Tiên sinh hẳn có thế thật.

Ý của vua Quang Trung là nhìn nhận cụ đã có công trong việc chiến thắng quân Tàu.

Cụ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp thọ được tám mươi mốt tuổi. Nay ở xã Nam Kim, tỉnh Hà Tĩnh còn ngôi mộ cụ.



NỮ ANH HÙNG BÙI THỊ XUÂN

Sau khi thâu phục được sơn hà, vua Gia Long ra lệnh xử tử vua Tây Sơn (Quang Toản) cùng các vị tướng lãnh của Tây Sơn như quan Thiếu phó Trần Quang Diệu và vợ là Bùi Thị Xuân.

Trần Quang Diệu bị tội lột da.

Kế đến lượt đứa con gái của Trần Quang Diệu. Đứa con gái ấy mới chừng mười lăm tuổi. Khi thấy voi tiến tới quất giết mình, đứa gái la hoảng: -Mẹ ơi! Cứu con.

-Chân tay của mẹ bị trói hết rồi không phương nào cứu được. Con hãy vui lòng mà chết luôn với mẹ cha, còn hơn là sống với bọn này.

Con voi quơ vòi, cuốn đứa con gái, quăng lên trời rồi đưa hai ngà ra hứng. Hai lần như vậy, đứa con gái chết hẳn.

Bà Bùi Thị Xuân không thay đổi sắc mặt. Bà bước tới trước con voi nọ. Bọn đao phủ ra lệnh cho bà phải quỳ xuống để con voi dễ quấn.

Bà không tuân lệnh, cứ bước tới như hăm dọa. Con voi thối lui. Bọn đao phủ phải cầm gươm đâm voi nọ, chọc tức. Voi bước tới quấn bà, thảy lên rồi đưa hai ngà ra hứng. Nhìn xác của bà, ai nấy đều khâm phục. Bà dùng lụa mà quấn sẵn chung quanh ngực, bụng, bắp vế. Lớp quần áo ngoài tuy rách nát nhưng bà không lõa lồ chi hết. Bà đã đoán trước cực hình này đôi ba ngày, nên đã chuẩn bị thân thể trước.

Bùi Thị Xuân là một nữ tướng can đảm đã từng chống giữ lũy Trấn Ninh.

Nay ở Sài Gòn có tên đường Bùi Thị Xuân để kỷ niệm gương can đảm, tiết liệt của bà.

Nguồn Net



Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Fri Dec 04, 2015 4:56 pm    Tiêu đề: Truyện xưa tích cũ




THẦN NÚI TẢN VIÊN

Tục truyền thần núi Tản Viên thuộc dòng lạc Long, nhà nghèo thường vào rừng đốn củi để làm kế sanh nhai. Một hôm vừa đốn ngã một cây chò, bỗng nghe một tiếng sấm, kế Thái Bạch Kim Tinh hiện đến bảo rằng: -Nhà người có căn tu, vậy hãy lãnh vật này mà cứu nhân độ thế.

Nói rồi Thái Bạch Kim Tinh trao cho Thần một cây gậy rồi biến mất. Từ đó, Thần vào ở luôn trong núi chuyên trị bệnh giúp người làm phước. Hôm nọ Thần đi dạo ở chân núi thấy bọn trẻ đập chết một con rắn lớn, nhìn kỹ nơi đầu rắn có một chữ “Vương.” Thần liền cầm cây gậy gõ vào đầu rắn mà niệm phù. Tức thì rắn sống lại bò xuống sông đi mất.

Cách đó ít lâu, một hôm Thần gặp một gã đàn ông mặt xanh nanh nhọn, đón đường bái vọng và nói rằng: -Tôi là Tiểu Long Hầu, thái tử con của Nam Hải Long vương, năm trước lên trần du ngoạn bị bọn trẻ hành hung đánh chết, may nhờ ngài cứu mạng. Tôi về thuật chuyện, phụ thân tôi rất là ngưỡng vọng nên sai tôi đi rước ngài xuống dạo Long cung.

Nói rồi, Tiểu Long Hầu đưa Thần tới bờ biển, làm phép rẽ nước cùng xuống tới Long cung. Long vương đón rước Thần rất ân cần niềm nở. Truyền cho Thần muốn lấy vật gì quý giá thì Long vương sẽ trao tặng, Thần đều từ chối cả. Sau cùng Long vương trao tặng Thần một quyển sách ước, bất đắc dĩ Thần phải nhận và để lời cảm tạ.

Sau ba ngày du ngoạn thủy cung, Thần trở về núi Tản Viên tiếp tục trừ tà ma quỷ giúp đời. Thường khi Thần cũng đi du ngoạn ở miền đồng bằng. Đến đâu thì hóa ra đền đài cung điện ở đó. Dân làng mỗi khi biết Thần ngự ở đâu, thì lập đền thờ ở đó.

Lúc nước Nam nội thuộc nhà Đường bên Tàu, Thái thú Cao Biền là tay giỏi về phù phép, lại sợ Thần ám trợ dân Nam phá hoại việc đô hộ nên định dùng mưu để trừ Thần. Cao Biền mới bắt một người con gái mười bảy, mười tám tuổi, buộc tắm gội sạch sẽ, rồi cho ăn hoa quả và mặc xiêm áo lịch sự, đoạn đặt ngồi lên ngai, giết trâu bò bày cuộc tế lễ để cho Thần nhập vào người con gái ấy, rồi rình cất nhắc tay chân, và thốt nhiên chém chết. Cao Biền thường làm như vậy để trấn ếm các Thần.

Khi Cao Biền dùng mưu đó để đánh lừa Thần, thì Thần cưỡi ngựa trắng, bay trên mây nhổ nước miếng vào cỗ tế mà bỏ đi. Thấy thế Cao Biền vô cùng thất vọng, cho rằng linh khí nước Nam còn vượng lắm nên không thể trừ được Thần.

Do đó, dân Nam càng sùng kính Thần hơn, lập miếu ở nhiều nơi để thờ Thần.



THẬP BÁT LA HÁN

Phú ông nọ có nuôi con ngựa rất hay, rất hiền từ. Ông săn sóc nó cẩn thận, cho ăn uống đầy đủ. Bỗng một hôm, nó đi lại gần ông mà nói: -Tối mai ăn cướp đến nhà ông mà giựt của. Tụi nó đi cả thảy mười tám đứa, mang mười tám thứ khí giới nha chùy, côn, giáo … Ông đừng sợ cứ làm theo lời tôi. Quay mười tám con heo, xôi một chảo thật lớn. Mua về vài hũ rượu. Đúng giờ Tý (nửa đêm) này tụi nó hội họp tại ngã tư đầu làng. Ông đến đó mời tụi nó về đây ăn tiệc là xong chuyện.

Phú ông nghe con ngựa nói vậy bèn thi hành đúng như lời nói, nhưng trong dạ nửa tin nửa nghi. Đúng giờ Tý, ông đến ngã tư, gặp bọn cướp đủ mười tám người, ông mời chúng nó về nhà ăn tiệc.

Bọn cướp ngạc nhiên. Tên chúa đảng hỏi: -Tại sao ông biết tụi tôi đủ mười tám người mà quay sẵn mười tám con heo?

Phú ông nói đó là lời mách bảo của con ngựa. Chúa đảng cướp ra chuồng hỏi thăm. Con ngựa nọ trả lời: -Đó là luật luân hồi quả báo. Xưa kia tôi mắc nợ ổng, bây giờ phải đầu thai làm con ngựa để trả nợ cũ. Dè đâu ông săn sóc tôi quá chu đáo cho ăn no, ngủ kỹ, nợ cũ chưa trả xong mà tôi phải mang thêm ơn mới. Nghĩ vậy, tôi tìm cách giúp ổng để một ngày kia trả xong nợ tôi đầu thai làm người.

Tên chúa đảng sực nhớ tới tội lỗi chồng chất bấy lâu nay, bèn nói với bọn em út về chuyên quả báo và khuyên mọi người nên sám hối kẻo kiếp sau nặng tội. Tất cả đồng ý, hẹn ngày vào chùa mà cầu xin quy y thí phát.

Vào chùa tên chúa đảng nói: -Tất cả dao, mác, côn, hèo phải gom lại. Muốn biết Phật có chứng giám không thì chúng ta bỏ tất cả khí giới ấy vào trong một cái nồi đồng thật lớn.

Tất cả bọn cướp mười tám đứa đều thí phát, quỳ trước Phật đàn. Đến nửa đêm, chừng xem nồi nước thì thấy bao nhiêu khí giới đều tan rã, biến mất. Biết đó là điềm lành bọn cướp ở luôn trong chùa. Nhờ lòng thành nên kiếp sau chuyển thành bực La Hán.

Đến nay, trong chùa còn thờ mười tám vị La Hán nọ. Tượng của mấy vị đều có nét dữ dằn, tay cầm khí giới. Ấy là muốn nhắc lại cho loài người biết rằng: dầu tội lỗi đến thế nào mà có lòng ăn năn sám hối thì Phật cũng độ được.

Nguồn Net

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân