TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Lòng Tử Tế
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Lòng Tử Tế

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Feb 19, 2014 10:13 pm    Tiêu đề: Lòng Tử Tế
Tác Giả: Nhất Linh


Lòng Tử Tế


Trời vừa mưa xong, đường phố lầy lội. Bên cạnh những cửa hàng đầy tơ lụa màu rực rỡ, Sửu cúi đầu đi thong thả, hai con mắt đỏ ngầu và đầy rử nhìn thẳng ra trước, không để ý đến một vật gì. Trông hình dáng chỉ biết đó là một người nghèo khổ, chứ không hiểu thuộc về hạng nào. Có lẽ người đó đã làm đủ nghề: đi ở, kéo xe... nhưng hiện nay chắc không có nghề gì, vì người bẩn thỉu và ốm yếu quá. Hai con mắt nhìn một cách dại dột, mồm bao giờ cũng há hốc và hai bàn tay lúc nào cũng run run bảo cho ta biết rằng người đó chỉ còn có việc là đi hành khất để chờ ngày vào nhà điên.
Một cơn gió thổi mạnh, Sửu vội giơ tay lên giữ lấy cái mũ đội trên đầu, một cái mũ dạ màu xám rộng thênh thang đội úp xuống che gần khuất hai con mắt. Muốn tránh một người quét hè, Sửu đi rẽ xuống đường. Vừa lúc đó một người mặc âu phục rất sang, đầu tóc chải mượt và đôi giầy bóng loáng, đi vội ở trong một hiệu thợ cạo ra, giơ tay vẫy một cái xe cao su. Vì hai bên cùng vội cả, nên người ăn mặc sang trọng và người ăn mặc rách rưới đụng vào nhau một cái thật mạnh. Người vận âu phục kêu lên một tiếng to, dẩy Sửu ra, mắng mấy câu theo lệ thường, rồi toan bước lên xe. Nhưng đến lúc nhìn xuống thấy mũi giầy của mình bị bàn chân đầy bùn của người kia làm bẩn be bét, thì chàng ta không giữ nổi giận được nữa. Chàng giơ thẳng tay bớp tai người nghèo kia một cái, làm cho chiếc mũ dạ tung ra, rơi ngay vào cái xe tay, trên tấm thảm cao su để chân. Chàng cho thế là đủ giận bèn phủi tay, nhấc hai ống quần cho khỏi mất nếp, và ngồi lên giục phu kéo đi. Thấy cái mũ ngay dưới chân, chàng toan hất xuống trả, nhưng không biết nghĩ được một điều gì hay hay, chàng mỉm cười lấy cái mũi giầy còn sạch thọc vào mũ rồi đặt lên cái mũi giầy lấm bùn cọ đi cọ lại như người đánh giầy.
Chàng lấy làm khoan khoái, ngắm nghĩa mũi giầy bóng trở lại gần như trước. Nhìn cái mũ dạ dúm dó, bẩn thỉu, chàng hơi hối hận, nhưng vội tặc lưỡi nói một câu để tự an ủi:
- Chắc thằng cha mới ăn cắp được của ai... Đáng kiếp!
Rồi chàng bảo người kéo xe:
- Cho anh cái mũ này.
Sửu bị cái tát tai đứng lặng hồi lâu cho khỏi choáng váng, rồi lắc lư cái đầu tìm xem mũ mình rơi đâu. Một người tài xế thương hại bảo:
- Mũ rơi vào xe ông ta rồi còn đâu.
Sửu nhìn theo cái xe chạy đã xa, không hiểu và lẩm bẩm tự hỏi:
- Thầy ấy lấy mũ của tôi?
Rồi Sửu lại cắm đầu đi, mắt nhìn thẳng ra trước một cách dại dột, mồm há hốc và hai tay run run... Trong lúc đó thì ở đầu phố một thầy đội xếp thong thả đi lại phía Sửu, cầm cái gậy lỏng lẻo bằng hai ngón tay và nghịch đưa đi đưa lại như một quả lắc đồng hồ. Đó là cử chỉ thông thường của thầy mỗi khi thầy sắp có dịp ra oai. Đứng xa, tuy thầy đội không nhìn rõ, nhưng thầy đã "đoán" ra được hết. Thầy đoán rằng người ăn mặc rất sang kia vào hiệu mua hàng, lúc ra bắt gặp tên này ăn cắp mũ, liền bợp tai giằng lại cái mũ kia rồi tha... Nhưng thầy thì thầy không tha. Thầy không tha không phải vì bổn phận bắt buộc, nhưng thầy muốn tỏ cho mọi người biết rằng mình tinh mắt. Đến lúc nhìn rõ Sửu thì thầy không còn nghi ngờ gì nữa: những điều phỏng đoán của thầy đã hiển nhiên biến thành sự thực, sự thực có một không hai.
Sửu thấy thầy đội xếp đến gần mình, theo thói quen, đi khép nép tránh sang một bên. Thầy đội chạy săm lại nắm lấy tay Sửu và nghiến răng bóp thật chặt. Thầy nhìn mặt Sửu thấy đáng ghét một cách lạ lùng và bóp chặt thêm một tí nữa cho bõ ghét.
- Về bóp! Hừ, quân bay bạo gan thực, dám giở thói ăn cắp ra trước mắt ông.
Sửu hốt hoảng, lúng túng nói:
- Thầy ấy lấy mũ của con...
Thầy đội trợn mắt, vụt một cái ngang lưng Sửu và nhếch mép cười nhạt:
- à, ra thầy ấy ăn cắp mũ của mày. Quân này to gan thật!
Cái trí khôn lu mờ của Sửu báo cho Sửu biết rằng phân trần không có lợi. Sửu bèn van lơn:
- Con lạy thầy, thầy tha cho con.
Thầy đội cười một cách đắc chí:
- Tha thế nào được, con ơi!
Người tài xế lúc này tiến đến gần nói:
- Ông đội tha cho nó, nó oan. Nó dẫm phải giầy ông kia, ông ấy cho nó cái tát cũng đã đáng đời lắm rồi. Nó lại mất thêm cái mũ... cái mũ khổ ấy mà...
Một vài người đứng gần đó cũng xin hộ.
Nghe mọi người nói, thầy đội lấy làm khó chịu vì mình đoán sai cả và thầy nhìn mặt Sửu càng thấy đáng ghét hơn trước. Thầy lấy ngón tay trỏ hất cằm Sửu lên và nói:
- Cái mặt gian chưa. Ngữ này thì thế nào cũng có ngày ông cho tù mọt.
Thầy đội quay ra nói với mọi người, vẻ mặt vui tươi để tỏ rằng mình sẵn lòng khoan dung:
- Lần này các ông các bà xin hộ thì tôi tha cho nó. Lần sau nó phải liệu mà chừa đi.
Bỗng thầy nhìn cái đầu bù tóc của Sửu, nghĩ ngay được một câu để che ngượng:
- Cái mũ ấy mà không ăn cắp của ai thì tao cứ đi đằng đầu. Cũng may phúc cho mày khi lấy cái mũ ấy lại không gặp tao... Bây giờ thì cút đi ngay.
Nói xong, thầy cầm gậy gõ mạnh vào đốt ngón tay Sửu hai cái. Sửu đau quá, nhưng không dám nhăn mặt, không dám kêu, vì Sửu sợ rằng biết đâu không vì một tiếng kêu mà thầy lại đổi ý kiến không tha nữa.
Thấy thầy đội quay lưng đi, Sửu mừng quá...
Yên lặng như một cái bóng, Sửu cắm đầu đi, mồm há hốc và hai tay run run, nhưng lần này hai con mắt Sửu không dại dột nữa... lại sáng lên một cách khác thường. Trong lúc mừng, Sửu luôn mồm lẩm bẩm:
- Suýt nữa thì vào bóp, may quá, gặp được thầy đội tử tế.
Sửu quên cả đau tay, quên cả mất mũ, chỉ nghĩ đến cái mừng được thoát khỏi bóp. Thấy có cái ngõ con, Sửu vội vàng rẽ vào, yên tâm rằng đã đi khuất mắt thầy đội. Sửu cười và nói một mình:
- Sao lại gặp được thầy đội tử tế đến thế!
Câu ấy vì nhắc đi nhắc lại mãi, dần dần biến ra:
- Sao người ta lại tử tế đến thế.
Lúc đó cái óc tối tăm của Sửu như có ánh sáng chiếu rọi làm cho Sửu lần đầu tiên trong cuộc đời khốn nạn của mình nhận thấy một cách rõ ràng cái lòng tử tế của người đời!
- Suýt nữa thì vào bóp!
Nghĩ đến đó, Sửu vô tình quay nhìn lại...
Mấy hôm sau, Sửu bị bắt vì không có chỗ ở và nghề nghiệp nhất định. ở nhà pha được ít lâu, thầy thuốc khám nghiệm bảo Sửu có bệnh điên. Thầy thuốc chỉ biết rằng Sửu có bệnh điên là tại cha mẹ trước kia mắc bệnh giang mai. Không ai biết Sửu điên hẳn vì cái bớp tai của người mặc quần áo sang trọng làm cho khối óc đã yếu sẵn bị rung chuyển mạnh quá... hay nói cho đúng, chỉ vì đôi giầy bông bị lấm bùn.
Được cái bệnh điên của Sửu rất lành, không hại đến ai. Cả ngày, Sửu lúc nào cũng mỉm cười sung sướng và thỉnh thoảng lại lẩm bẩm nói một mình:
- Sao người ta lại tử tế đến thế!
Còn như người ta có tử tế như Sửu tưởng hay không thì đó lại là câu chuyện khác.


SƯU TẦM
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sat Mar 01, 2014 4:29 pm    Tiêu đề: Đầu Đường Xó Chợ
Tác Giả: Nhất Linh


Đầu Đường Xó Chợ


Từ năm Thầy tôi mất, anh chị tôi rời bỏ chốn quê nhà đi tha hương cầu thực, đến ở một túp lều tranh ở ngay đầu chợ C.. Bắt đầu từ đó, tôi bỏ cái đời cũ là cái đời một cậu con quan ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời riêng mới cho tôi: tôi gọi là một cái đời đầu đường xó chợ. Năm ấy tôi mới mười ba tuổị
Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái xã hội quý phái của tôi ngày trước: nhà gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộ bán nồi đất.
Từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những gian nhà xiêu vẹo, tối tăm, bẩn thỉu. Trước nhà một cái rãnh dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối, giẻ rách.
Thật là một xã hội xấu xa, mà xấu xa vì nghèo khổ quá. Tự nhiên tôi đem lòng mến những đứa trẻ cùng trạc tuổi tôi của những gia đình hèn hạ ấy: Cái Nhớn, thằng Cu, con Tẹo là bạn tôi cả. Tôi đã trông thấy chúng nó ăn cả bữa cơm có dúm muối, vài quả cà thâm hay đĩa rau sam luộc; tôi đã thấy chúng nhặt những gốc mía người ta vứt đi mà chia nhau hít cho đỡ thèm, nên tôi thương. Chiều mát tôi đi với chúng ra đồng, xem chúng đặt những cái lờ vào các lạch con để bắt tôm cá. Chúng được nhiều tôm cá, tôi cũng mừng hộ và tôi đợi đến bữa cơm của chúng để xem trong mâm có được thêm đĩa cá rôi kho hay mấy con tôm đỏ nào không.
Người mà tôi quý nhất hồi đó là chị Hiên, vợ một người phu xe ở xế cửa nhà tôị
Nguyên anh chị tôi được lĩnh một cái ty bán thuốc phiện, nên chi. Hiên thường lui tới mua thuốc cho chồng. Lần đầu tôi trông thấy chị ta, tôi đem lòng thương hại ngay. Bây giờ tôi mới rõ rằng tôi có cái cảm tình đó vì chị Hiên còn trẻ, xinh và có duyên, lại lấy phải anh chồng nghiện ngập, xấu xí.
Nhưng chị Hiên thì không nghĩ như tôi. Cả ngày chỉ cặm cụi ngồi đan lờ trong khi chồng đi kéo xe vắng. Hôm nào chị bán lời được một hào, chị mua cho chồng một hào thuốc thì chị lấy làm vui vẻ, sung sướng lắm.
Chị không nghĩ gì đến thân chị, có cái ao nâu đã bạc, đã vá tay, vá vai, vá lưng mà chị không chịu để dành tiền may áo mớị
Trí non nớt của tôi không sao hiểu được các hành động của chị đối với một người chồng nghiện ngập, hèn hạ như thế.
Một hôm, tôi sang bên nhà chị, thấy chị ngồi gục đầu vào cánh tay, bên cạnh mấy chiếc lờ đan dở. Tôi vào chị ngẩng lên nhìn, hai con mắt như có ngấn lệ. Tôi vừa định quay ra thì chị tay vẫy tôi lại gần nói khẽ:
- Này cậu, cậu có một hào, cậu cho tôi vay vài hôm tôi trả.
- Tôi làm gì có tiền cho bác vay! Bác vay làm gì?
Chị Hiên lẳng lặng chỉ vào trong buồng. Tôi hỏi:
- Bác trai đau phải không? Ốm hay sao mà rên dữ thế?
- Cậu ạ, hai ngày hôm nay, nó lên hai cơn sốt rét, không đi kéo xe được. Nhà không có tiền, tôi phải nhịn cơm từ hôm qua, nhưng nguy nhất là hết tiền mua thuốc. Ðã ốm mà cơn nghiện lên thì chết mất. Hay cậu về nhà ăn cắp ở nhà một hào chỉ cho tôi vaỵ
Tôi mỉm cười, lắc đầu:
- Chiều tối bác mang tiền lại mua thuốc, tôi thêm cho ít nhiều thì họa may... còn tiền thì tôi không thể nào có được.
Vừa lúc ấy con gà trống to của anh chị tôi nuôi lởn vởn đến bên cạnh mẹt vừng của chi. Hiên phơi trước cửa. Chi. Hiên tay xua con gà miệng nói đùa:
- Giá được con gà này mà bán thì chồng tôi tha hồ hút.
*
Ðã khuya, nhà tôi đóng cửa đi ngủ, bỗng có người gọi mua thuốc.
Tôi nhanh nhẹn cầm cây đèn Hoa Kỳ ra vì tôi biết chắc đấy là chị Hiên mua thuốc cho chồng.
Qua khung cửa bán thuốc, một cái bàn tay thò vào cầm một cái vỏ hến trong có một hào chỉ đã nhẵn mặt. Chị tôi cầm lấy đồng hào nhìn đi nhìn lại rồi nói:
- Ðưa hào khác thì bán, hào này nhẵn mặt lắm không tiêu được.
Tôi lo lắm, và tôi chắc chị Hiên đứng ngoài còn lo gấp mấy. Tôi vội bảo chị tôi:
- Thôi, chị cứ nhận cho người ta, mai trả nhà đoan cũng được.
Tôi không dám nói rõ vì tôi biết chị tôi ghét vợ chồng nhà này lắm.
Khi chị tôi cân thuốc xong, quay lưng đi, tôi vội cầm cái que thuốc rỏ thêm vào trong hến một giọt. Lúc đưa cho chị Hiên, tôi bảo khẽ:
- Thêm cho rồi đấy nhé.
Tôi vừa đóng xong cái cửa bán thuốc thì ở ngoài bỗng có tiếng kêu:
- Chết tôi rồi, cậu cho mượn cái đèn, đổ hết cả rồi!
Tôi đưa đèn ra xong rồi nhìn qua khe cửa thấy một cảnh tượng không bao giờ tôi quên được: hến thuốc đổ sấp xuống đất, thuốc bắn tung ra thành từng chấm đen nhánh. Chị Hiên cúi xuống lật cái hến lên; cái hến chỉ còn rây một ít thuốc; trong lúc hấp tấp chị lấy ngón tay quệt thuốc dưới đất cho vào hến, nhưng thuốc lẫn cả với đất còn hút gì!
Không làm sao được, chị nhặt cả những hòn đất có rây thuốc để vào bàn tay - rồi chị cứ ngồi đấy khóc thút thít. Sau thấy chị tôi giục đem đèn vào, tôi phải để mặc chị Hiên ngồi khóc trong bóng tối. Tôi vừa đặt mình xuống giường nằm thì vẳng có tiếng người cãi nhau, tôi chắc là ở nhà chi. Hiên, chồng chị đương đánh mắng chị ta
Sáng hôm sau, tôi sang nhà chị Hiên sớm, thấy chị ngồi dựa vào tường, đầu tóc bù xù, vẻ người mệt mỏi, trên trán có một chỗ sưng tím lên. Tôi không thấy cái lờ nan đan dở để đấy, liền hỏi:
- Bác bán lờ đi rồi phải không?
- Không, tôi cất ở dưới bếp.
- Thế hào chỉ hôm qua
Chị ta thấy tôi hỏi đường đột, nhìn tôi có vẻ sợ hãi, nói một cách hoảng hốt:
- Tôi vay của ... Không! người ta trả nợ tôị
- Bác mà có người nợ tiền?
- Ấy nợ cũ ... đã lâụ
Vừa nói đêm đấy thì nghe bên nhà tôi có tiếng người nói to, con nhỏ nhà tôi chạy ra ngơ ngác, như tìm một vật gì. Tôi hỏi thì nó trả lời:
- Nhà mất con gà, con gà trống thiến to nhất...
Chi. Hiên hỏi tôi:
- Con gà nào thế cậu nhỉ?
- Ấy con gà hôm qua nó sang đây mổ vừng của bác ấỵ
- Chị Hiên thốt nhiên nói:
- Chết tôi rồi! Gà nhà cậủ
Tôi hỏi:
- Làm sao mà chết?
Chị Hiên luống cuống như định nói lại thôi, nhưng cái trí non nớt của tôi đã hiểu rõ, đã đoán ra hết. Tôi ngắm lại chị ta thấy vẻ mặt tái mét, nửa vì đói, nửa vì lo mà tôi đem lòng thương hại vô cùng. Vì hết lòng với chồng phải đi ăn trộm gà lại bị chồng mắng. Tự nhiên tôi muốn tìm cách chống chế cho người đã ăn cắp gà nhà tôi. Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo chị ta:
- Ðược! Bác đừng lo, bác để mặc tôi!
Rồi tôi về nhà chạy thẳng ra cổng sau nhìn xuống sông, bảo chị tôi rằng:
- Nhà mất gà phải không, thôi đừng tìm nữa vô ích, hôm qua tôi thấy con gà giống con gà nhà ta đậu ở dưới thuyền buôn nồi đất. Bây giờ họ đi họ cuỗm đi rồi. Còn biết ai mà hỏị
Tôi lấy làm tự đắc rằng đã tìm ra một kế hay và rất mừng cái kế đó hiệu nghiệm, vì chị tôi coi như mất hẳn con gà rồi, không cho người đi tìm nữạ
Tôi còn bé không hiểu rằng giúp đỡ một người ăn cắp thế là tốt hay xấu, tôi chỉ biết rằng trong lòng tôi lúc bấy giờ vui vẻ lắm, vui vẻ vì cứu thoát được một người khổ sở, đáng thương.
Về sau, tôi càng ngày càng cách biệt với cái xã hội đầu đường xó chợ ấỵ Ðến nay đã gần hai mươi năm, cái cảnh đời cũ đã lờ mờ trong trí nhớ, nhưng câu chuyện của chị Hiên thì không bao giờ tôi quên được.
Cái đời đầu đường xó chợ ấy ngay từ thuở còn nhỏ đã dạy cho tôi hiểu rằng: muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì phải làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ, mà một xã hội nghèo khổ thì bao giờ cũng dễ thành một xã hội xấu xa.
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Tue Mar 18, 2014 8:13 pm    Tiêu đề: Thưa Chị
Tác Giả: Khái Hưng

Thưa  Chị

Ngồi nhìn các món ăn nguội lạnh, Nga buồn rầu, bực tức đợi chồng. Đã bao lần nàng ngước mắt nhìn đồng hồ treo và lẩm bẩm tự hỏi: – Không biết sao hôm nay về muộn thế?

Sau khoảng hai giờ, một cái ô tô rít lên, đỗ ngay trước nhà, Nga chưa kịp hỏi xem ai thì Địch, chồng nàng, đã như một luồng gió mạnh, đẩy cửa và bước vào trong phòng: – Mợ bảo nó sắp va li cho tôi, mau!

Nga lạnh lùng: – Cậu đi đâu?

Địch cau có: – Mợ đừng hỏi tôi nữa. Vội lắm, vội lắm.

Nga vốn yêu và chiều chồng. Thấy chồng gắt thì tươi cười đứng dậy gọi đầy tớ, rồi cùng nó xếp quần áo vào va li. – Cậu đi bao lâu?

Địch hai tay ôm đầu ngồi lơ đãng trông qua cửa sổ. Nga ôn tồn nhắc lại câu hỏi.

Địch giật mình quay lại: – Cái gì thế mợ?

- Cậu đi lâu hay chóng?

- Tôi đã xin mợ đừng hỏi tới tôi nữa, tôi cũng chưa biết đi lâu hay chóng.

Nga chau mày đăm đăm nhìn Địch: – Cậu chỉ biết có một việc là gắt. Thì cũng phải xem cậu đi lâu hay chóng để mà xếp nhiều hay ít quần áo thay chớ.

Địch giọng hối hận: – Tôi xin lỗi mợ, anh xin lỗi em, anh chẳng còn biết cái gì nữa… Anh mất hết cả trí nghĩ.

Nga thoáng thấy mắt chàng đỏ ngầu và ướt lệ; nàng vừa thương hại vừa ngờ vực: – Cậu đi việc quan?

- Phải, phải… vâng, việc rất cần.

- Thì can chi cậu cuống cuồng lên thế? Hãy ăn cơm đã.

Địch yên lặng, không đáp, tâm trí để ở tận đâu đâu. Nga nghĩ thầm: “Chẳng lẽ việc quan gì mà vội vàng, lo sợ, buồn phiền đến thế!… Và làm tham tá ở buồng giấy, sao lại có việc quan phải đi xa? Chắc chồng ta giấu ta điều gì đây”. Xếp xong hành lý… Nga bảo Địch:

- Bây giờ thì anh ăn cơm đã.

- Thôi em ăn đi, anh no lắm.

- Đã ăn gì mà no… Hay anh có điều gì phiền muộn?

Vừa nói Nga vừa vuốt ve chồng. Bỗng vô tình nàng thò tay vào túi áo Địch lôi ra một bức điện tín. Địch toan giựt lại, Nga đã nhẩy một bước ra và tò mò đọc: “Lan mệt nặng, mong đợi. Lên ngay” Một phút im lặng, hai vợ chồng nhìn nhau.

- Lan? Lan… Ai thế cậu?

Địch ngập ngừng: – Một người…

- Một người con gái, một người tình nhân của cậu, phải không? Phải không?

Địch cố ôn tồn lãnh đạm: – Làm gì mà mợ hét lên thế?

Nga gào càng to:

- À, cậu đi thăm đĩ! Thế mà cậu nói dối tôi đi việc quan…!

Địch tức đỏ bừng mặt, đến gần vợ thì thầm: – Mợ sẽ mồm chứ. Đầy tớ nó cười cho.

Nga bơ phờ, suy nghĩ. Rồi nàng bưng mặt khóc. Nàng vẫn tưởng Địch chỉ yêu một mình nàng cũng như nàng coi Địch là người yêu độc nhất ở đời, không phút nào để tình ái, để tư tưởng mơn trớn qua tới kẻ khác. Địch dỗ dành, thề thốt. Nga lau nước mắt nức nở:

- Không, anh đã nói dối em một lần rồi, vì anh bảo anh đi việc quan. Vậy chỉ có một cách khiến em tha thứ anh được là anh đem chuyện thực, đem hết chuyện thực ra kể cho em nghe. Em cam đoan với anh rằng em sẽ không giận và sẽ để anh đi, dù câu chuyện làm đau khổ lòng em đến đâu, em cũng xin chịu.

Địch cảm động vì những lời kính cẩn ôn tồn, nhưng chàng còn ngần ngừ, băn khoăn nhìn vợ: trên gương mặt, lộ một vẻ buồn, hoàn toàn thành thực. Chàng liền thở dài thuật lại đoạn tình sử:

Cách đây hơn một năm. Địch xin phép nghỉ dài hạn lên chơi Lạng Sơn. Chàng trọ ở khách sạn. Một người bạn học cũ làm giáo sư thường rủ chàng đi xem xét các vùng quê dân thổ. Về sau ông giáo mời Địch đến ở nhà mình cho vui và đỡ tốn tiền vô ích. Gần đấy có một hiệu buôn lớn. Cô Lan, con gái chủ hiệu, có chút nhan sắc, thứ nhan sắc mảnh khảnh, yếu đuối, sầu mộng, mơ màng. Cố nhiên, chiều chiều qua cửa, hai anh em bạn thường liếc mắt mỉm cười. Thấy gái đẹp, ai nỡ không ngắm nghía và khen thầm…

Ngờ đâu sự ngắm nghía khen thầm và những cái liếc mắt mỉm cười chẳng bao lâu đã trở nên tình ái. Lan yêu Địch, yêu say mê, đắm đuối. Trước còn thư đi thư lại, sau hẹn hò ở những nơi vắng vẻ, trên núi Tam Thanh, trên đường Kỳ Lừa, Địch dối rằng mình là Nguyễn Văn Siêu, sinh viên năm thứ ba trường thuốc. Nguyễn Văn Siêu không phải là một tên bịa đặt, chính là tên bạn Địch mà lúc vội đáp lại câu hỏi của tình nhân chàng đã thốt đọc ra. Anh chị chỉ non thề biển trong mấy tuần lễ, đinh ninh rồi sẽ lấy nhau.

Địch vẫn tưởng đùa giỡn cho đỡ buồn, trong thời kỳ đi nghỉ mát, nhưng khi về Hà Nội chàng mới hiểu rằng “Không nên đùa với ái tình”. Câu ngạn ngữ Tây phương ấy, chàng phải mỉm cười nghĩ đến, một lần tiếp được thư Lan gởi cho chàng qua tay người bạn học trường thuốc. Trong vòng một năm, chàng nhận được hơn năm chục cái bức thư, nghĩa là đổ đồng tuần lễ một bức. Chàng thì một tháng mới phúc đáp một lần, và chàng cố gọt dũa câu văn cho cảm động cho âu yếm, xứng với những lời thành thực, nồng nàn tha thiết của Lan.

Bẩy tám tháng sau, Địch cảm động thật vì chàng thấy Lan khổ sở, đau đớn, nhớ thương quá đỗi, nhất là chàng đã được tin Lan ốm, chẳng hạn ốm tương tư. Từ đó, thư của Lan một ngắn một thưa, tuy lời thư càng nồng nàn, âu yếm hơn trước.

Địch cũng toan lên Lạng thăm Lan, nhưng nấn ná mãi cho đến hôm nay nhận được tin Lan mệt nặng, có lẽ sắp từ trần.

Địch cố lấy giọng thản nhiên, lạnh lùng kể cho vợ nghe, thêm bớt sự thực đi đôi chút cho câu chuyện đỡ sống sượng mà khỏi làm phiền lòng Nga, người vợ mà chàng vừa yêu, vừa kính…

Nga yên lặng, ngồi đăm đăm nhìn qua cửa sổ ra đường, tưởng như câu chuyện tình kia không lọt vào tai nàng. Đồng hồ đánh ba tiếng, Nga không quay lại.

- Vậy mợ ở nhà nhé, vậy em ở nhà, anh đi thăm người ta một tí chẳng không kịp, tội nghiệp, nghĩa tử là nghĩa tận, em tha thứ cho anh vì đã trót dại dột.

Nga vẫn ngồi im không nói, không động đậy.

Địch ghé mặt định hôn Nga, Nga se sẽ ẩy ra.

Địch đứng ngắm vợ vài giây, trong lòng do dự… Bỗng chàng thở dài, xách va li chạy tuột ra xe, bảo tài xế mở máy.

Nghe tiếng còi ô tô, Nga giật mình nhớn nhác nhìn quanh như người mất trí nghĩ. Vú già đến nói:

- Mời bà xơi cơm.

Nga nghiễm nhiên đứng dậy, cầm khăn bàn giật mạnh, bát canh đổ hoen màu trắng, và mấy đĩa món ăn rơi xuống đất vỡ loảng xoảng.

Rồi nàng vào buồng, trong khi vú già, người đầy tớ trai thu dọn, lau chùi. Một lát sau nàng đi ra xách ví, mặt hầm hầm tức giận.

Gần bẩy giờ chiều, ô tô thuê của Địch đỗ ở trước cửa nhà Lan. Giữa lúc ấy, một cái ô tô cũng từ từ hãm máy ngay phía sau. Nhưng Địch không lưu ý gì hết, vội vàng mở cửa xe, nhẩy bổ ra ngoài. Cửa xe sau cũng mở, một người thong thả bước xuống. Trời mùa đông đã tối hẳn, hai người theo nhau như hai cái bóng đen, dưới ánh đèn điện lờ mờ, lần bực thang gạch bước lên gác.

Đến hiên gác, gặp y sĩ, Địch giữ lại hỏi:

- Thế nào, thưa ông? Ông kia lắc đầu.

- Hết hy vọng. Khéo lắm được đến nửa đêm.

Rồi ngắm nghía nét mặt lo lắng của người mới tới, nói tiếp; – Ông là ông Nguyễn Văn Siêu sinh viên năm thứ tư trường thuốc.

- Vâng

. – Vậy ông vào ngay. Cô Lan mong ông từng giây từng phút.

Địch bắt tay thầy thuốc, rồi rón rén mở cửa phòng, nhưng vừa đóng, cửa phòng lại mở ra liền. Địch quay nhìn. Nga, vợ chàng đứng ngay sau lưng.

Chàng hoảng hốt kêu: – Trời!

Rồi đánh rơi cái va li xuống sàn gác. Lan nằm trên giường bệnh, sẽ hỏi người mẹ ngồi bên: – Ai đấy, mẹ?… Có phải anh Siêu đã lên không?

Nga vẫn đứng yên đó không dám tiến, không dám lùi, nhưng ngây đờ ngắm người sắp chết, gầy xẹp như bộ xương dưới cái chăn chiên trắng, và bao nhiêu sự ghen tuông, tức tối, thù ghét đã biến đi để nhường chỗ cho một lòng trắc ẩn, cho một lòng nhân đạo. Thong thả Nga tiến đến bên giường. Địch sợ hãi suýt ngã ngất. Vội vàng Nga đã lên tiếng giọng cảm động, thành thực

. – Vâng, thưa chị, anh em đã lên, anh em đã lên với chị. Em là Nga, là em gái anh Siêu. Em sợ anh em đau đớn quá ngất đi ở giữa đường chăng, nên em theo kèm để giữ gìn, để khuyên can.

Nga vừa nói vừa cầm lấy tay người ốm. Thấy chồng vẫn đứng sững giữa nhà, nàng quay lại gọi:

- Kìa anh, sao không lại với chị?

Ngoan ngoãn, thong thả, Địch đến gần chào người mẹ khốn nạn, rồi ngồi xuống một cái ghế đặt bên cạnh giường.

Lan ứa nước mắt nhìn tình nhân. Bà lão mếu máo, kể lể:

- Khổ quá, nó yêu thầy mà nó giấu tôi, mãi hôm qua nó mới thú thực cả với tôi. Nó bảo thầy chờ thi xong rồi cưới nó làm vợ. Có thế không? Địch lo lắng nhìn vợ. Nhưng Nga đã đổi lời, thẳng thắn đáp lại:

- Thưa cụ vâng, có thế, anh cháu đã xin được phép thầy mẹ cháu rồi. Thầy mẹ cháu vẫn định ra giêng sẽ cùng cháu lên hỏi xin chị… Xin chị Lan cho anh cháu… Rồi quay nói với Lan:

- Này chị Lan, chị cố uống thuốc cho chóng khỏi để em chóng được làm em dâu chị nhé, em nghe anh khen ngợi chị, mà em yêu chị quá, cả thầy lẫn mẹ em cũng thế, chị ạ.

Một nụ cười yên lặng hơi hé cặp môi nhợt nhạt của người sắp từ trần, và bàn tay Lan nắm chặt lấy tay Nga.

Nhưng Nga đã đứng dậy và thì thầm với người mẹ: “Cụ làm ơn đưa cháu sang buồng bên nằm nghỉ một lát”. Bà kia hiểu ngay rằng cô em muốn để anh được tự tình mấy câu với con gái mình, liền cùng Nga xuống nhà dưới.

Ba ngày sau, Lan tắt nghỉ, đem theo trong giấc ngủ ngàn năm một nụ cười sung sướng.

Về Đầu Trang
xuanvu



Ngày tham gia: 24 May 2012
Số bài: 39

Bài gửiGửi: Sat Mar 29, 2014 10:36 am    Tiêu đề: Ai sinh dưới chòm sao hạnh phúc
Tác Giả: Trang Hạ

Thân gởi chị Như Ngọc Nguyễn

Xuân vũ vừa đọc truyện Lòng tử tế chị sưu tầm, truyện rất hay và thú vị .
Hóa ra người điên cũng có thể có hạnh phúc chị nhỉ !
Xuân vũ trộm nghĩ dường như tạo hóa thấy anh Sửu sinh ra nhằm ngôi sao xấu, phải nói là quá xấu. Anh lại mang chứng khùng điên, suốt đời phải đơn độc, cùng cực, bần hàn và vv...( kể sao cho xiết bao nhiêu cái khổ mà anh phải chịu đựng) Nên ngài xót thương mà ban cho anh  đặc ân : cũng được “ biết ” hạnh phúc như  bao người khác. Âu cũng là một an ủi để anh thể có thể sống cho trọn một kiếp người…

Cám ơn chi. Xin gởi chị bài viết  - một góc nhìn khác về hạnh phúc- Xuân vũ mới sưu tầm được. Mời chị đọc.

Ai sinh ra dưới chòm sao hạnh phúc?  -  
Tôi thường được hỏi sinh ra dưới ngôi sao nào, mà họ thấy tôi tự tại thế.
Người Việt Nam chú trọng tới ngày giờ sinh và tử vi ra sao, thì người Hoa quan tâm tới chòm sao chiếu mệnh như thế. Chúng ta cùng chung một điều mê tín, rằng: Ngày tháng năm sinh sẽ ảnh hưởng tới tính cách của bạn, và quyết định cuộc đời cùng phẩm chất của bạn.
Thế hệ 7X và 8X người Hoa lên mạng làm quen thường hỏi nhau sinh ra dưới chòm sao Hoàng đạo nào, chứ không hỏi bạn bao nhiêu tuổi, hoặc hỏi bạn quê ở đâu, người miền nào, tính cách ra sao. Ngày tôi sinh đứa bé út, bạn bè người Việt luôn hỏi cháu sinh ra nặng mấy kg, “giai tháng Tám” là rất đầu gấu đấy nhé, cẩn thận mà dạy bảo nó! Còn bạn bè người Hoa lại hỏi, cháu sinh ngày nào, để tính ngôi sao chủ mệnh. Hoặc tính toán ra linh vật hoặc thứ tượng trưng cho cháu. Họ bảo: A, em bé Thiên Bình (Libra) dễ thương đáng yêu và mẫn cảm lắm đây!
Tôi nghĩ thầm, không lẽ cuộc đời ta là một hành trình được viết sẵn ngay từ thời điểm ta chào đời? Hay hạnh phúc là một món quà tặng đã được số phận trù định cho ta, từ ngày cha mẹ cho ta làm người?

Tuổi và ngày giờ sinh của một con người, theo cách nghĩ duy tâm và truyền thống, sẽ rất quan trọng khi bạn làm đám cưới và xây ngôi nhà của chính bạn. Tuổi của chủ nhân sự kiện – bất kể nam hay nữ – đều sẽ được cân nhắc bởi cả đại gia đình, được nâng lên đặt xuống xem xét trong các dữ liệu của những vị bô lão duy tâm. Đó không đơn thuần là mê tín, điều ấy chỉ phản ánh mong ước chính đáng sẽ được hạnh phúc suôn sẻ thuận lợi tới tận cùng của một gia đình mà thôi.
Không ít đôi uyên ương đã chia tay nhau vì gia đình ngăn cản hôn lễ và tình yêu. Họ sợ không hợp tuổi, yêu nhau bằng mười hại nhau, cố quá sẽ quá cố.
Vợ chồng tôi khắc tuổi với nhau. Và chúng tôi tự quyết định ngày cưới, không phải nhờ cậy một cẩm nang “Lịch vạn niên” hay một ông thầy bói mù đoán ngày lành tháng tốt hộ. Ông xã tôi nói, năm xấu thì cũng phải có một ngày tốt, một ngày xấu thì cũng phải có giờ tốt chứ. Mà làm thằng đàn ông, cứ bị trói vào hôn nhân ngày nào là ngày đó… trở thành ngày xấu nhất đời của gã đàn ông đó rồi, xem xét cái gì!
Còn tôi thì thực tế và kém hài hước hơn ông xã, tôi cho rằng: Hãy nhìn xã hội Việt Nam xem, vô vàn gia đình bất hạnh đều đã cưới nhau vào một ngày lành tháng tốt nào đó đấy thôi! Bao nhiêu gia đình lục đục tan vỡ, họ cũng chọn ngày giờ tốt để lấy nhau đó chứ! Vậy, rõ ràng, ngày giờ tốt và tuổi hợp nhau đâu có quyết định hôn nhân của bạn có mỹ mãn hay không? Nên em cũng chẳng tin vào ngày lành tháng tốt!
Tôi có một cô bạn, chờ phải được tuổi mới cưới. Chưa được tuổi, cô ấy dứt khoát chỉ dọn đồ về sống chung với người yêu thôi. Một thời gian sau, cô ấy sinh đứa con đầu lòng, thế mà vẫn chưa đến tuổi tốt để kết hôn! Cách đây mấy năm, khi cô ấy sắp 35 tuổi, cô ấy thông báo với ông chồng chưa cưới rằng, giờ đã đến ngày tháng tốt để kết hôn rồi đấy! Cô ấy vẫn chăm chỉ tập Yoga để giữ vòng eo lý tưởng cho chiếc váy cưới. Ông xã của cô ấy phì cười và nói, em thật là ấu trĩ. Đàn bà mà đã ba mươi trở ra rồi thì năm nào cũng là năm tốt để kết hôn, ngày nào cũng là ngày Hoàng đạo để lấy chồng! Với lại, đang yên đang lành sao giờ tự nhiên lại phải tốn thêm một món tiền để… làm đám cưới?
Thì ra, lý do của hạnh phúc là nằm ở chỗ, bạn nghĩ gì, bạn sống ra sao, chứ không phải được quyết định bởi bạn sinh ra dưới chòm sao nào, bạn cưới chồng có vào ngày tốt, có lấy được người hợp tuổi?
Nhiều khi, hạnh phúc còn không hề liên quan gì tới tình ái hay hôn nhân, hạnh phúc chỉ giản đơn là hài lòng với cuộc sống, biết đủ, không đòi hỏi, càng không ràng thêm những ràng buộc vô lý lên đời mình.
Kiểu như, bạn nói với chàng, anh ở cung Nhân Mã phải không, bốc đồng lắm, khó làm người chồng tốt được! (Bạn làm sao biết được, chính bạn mới đang là một kẻ bốc đồng!)
2. Bí mật phía sau của hạnh phúc?
Tôi thường ghen tị với hạnh phúc của những phụ nữ xinh đẹp có được một cuộc hôn nhân êm ấm, giàu có, sự nghiệp hiển vinh. Tôi cũng thèm muốn cuộc sống của những người vợ có thể không cần đi làm mà gia đình vẫn không chết đói. Người vợ có thể ở nhà, làm nội trợ, nuôi con, may vá, chăm sóc cửa nhà và người thân, như bạn tôi, cưới xong, chồng nuôi từ đó đến giờ, để ở nhà ngồi viết văn.
Không hiểu vì sao, vào những lúc long đong vất vả kiếm sống nuôi gia đình, trên những chặng đường xa bụi bặm, trong những bữa cơm đường cháo chợ một mình theo đuổi niềm đam mê, tôi lại thường nhớ quay quắt đến hình ảnh sum vầy của gia đình, ông bà bố mẹ con cái, như một biểu tượng của hạnh phúc. Thèm đính một bông hoa lên váy con gái, thèm nấu một món canh cua hoa mướp cho cả gia đình.
Tôi nghĩ, có lẽ hạnh phúc phải là một cuộc hôn nhân không sóng gió. Hoàn hảo từ giờ phút trao nhẫn, trân trọng từ ngày tháng trở đi.
Nên vào những lúc phải lăn lộn vì cuộc sống, tôi thường tự nhủ, có khi ông bà bố mẹ chúng ta đã đúng. Ngày lành tháng tốt của một đám cưới có thể ít nhiều ảnh hưởng đến cuộc hôn nhân êm đềm hay sóng gió. Mà vào những ngày còn trẻ, còn ngông nghênh và chưa biết sợ, chúng tôi đã cười khẩy vào mọi lý lẽ duy tâm, chỉ tin rằng hạnh phúc là thứ ta nghĩ trong đầu và ta cảm nhận trong tim, chứ không phải là thứ ta muốn và ta có. Và rằng, giá như nghe lời các bậc trưởng lão, biết đâu giờ đây tôi đang được ngồi bàn giấy công sở, mưa không tới mặt nắng chẳng tới đầu, không bị dày vò bởi những cơn khát sáng tạo, và hôn nhân của chúng tôi cũng êm đềm phẳng lặng như mọi gia đình khác, không thách thức nhau và không phủ nhận nhau. Và tôi có thể mặc áo màu dịu dàng, ngồi trong bếp thái rau, luộc thịt, chứ không phải một thân một mình vác máy ảnh và laptop cùng máy quay phim đi liên miên như một kẻ độc thân.
Trong tâm trạng cô đơn, tôi viết một bức thư cho một thần tượng của tôi, một phụ nữ “xinh đẹp, hôn nhân êm ấm, giàu có, sự nghiệp hiển vinh”. Tôi nói, tôi là Trang Hạ, tôi vẫn thấy chị trên bìa tạp chí và trên truyền hình. Tôi thần tượng chị. Vì chị thật hạnh phúc theo cách được cả xã hội tán dương.
Thần tượng của tôi reply ngay sau đó một ngày:
“Chị vẫn kín đáo theo dõi Trang Hạ nhiều năm nay, vì em mới chính là một thần tượng của chị. Em có thể làm tất cả những gì mà chị không có quyền làm. Em có thể nói lời mà em nghĩ, đi nơi mà em muốn. Còn chị, ngay cả khi chị muốn một ngày “không mặc áo đẹp” thì cũng không ai cho phép chị làm điều đó cả. Chị muốn một ngày của riêng mình, không chồng con nào và công chúng nào cho chị một ngày đó cả! Nên hãy quý lấy cuộc sống của chính em.”
Và sau đó không lâu, tôi cũng nhận được một lá thư đẫm nước mắt của một cô bạn gái, người bạn mà sau đám cưới, chồng không để cô ấy thiếu thứ gì, và cô ấy chỉ ở nhà làm chức phận người vợ. Cô ấy nói, đã mười năm nay, từ sau khi lấy chồng, cô ấy không viết văn được nữa.
Tôi hỏi vì sao.
Cô ấy nói, xinh đẹp giỏi giang mấy, lấy người chồng đẹp trai giàu có mấy, mà bản thân không ra được khỏi cửa, thì khác gì cầm tù trong một cái hộp vàng? Viết văn làm sao khi ngồi giữa cái tháp ngà, cảm xúc yêu và sống hàng ngày chỉ thu gọn trong khoảng cách từ chợ rau cạnh nhà về đến cửa là 300 mét? Tiền thì chồng có cho nhiều đấy, nhưng với người viết văn thì tiền không thể thay cho lòng tự trọng, nên cô ấy không dám uống một tách cà phê, chỉ vì đó không phải là tiền của cô! Và cô thèm muốn làm sao được như tôi, mỗi sáng ngủ dậy ở một khách sạn khác nhau, tiêu những đồng tiền do chính tay mình làm ra, được hít thở không khí theo cách tôi muốn! Vậy hạnh phúc là thứ ta nghĩ chứ đâu phải là việc ta có được những gì?
Tôi nhớ tới đám cưới của một nghệ sĩ thế hệ trước. Bà là một nghệ sĩ đích thực, bà rất trân trọng hôn nhân, bà không chỉ chọn ngày tháng tuyệt đẹp, còn chọn nơi làm đám cưới đúng phong thủy, chọn màu trang phục cho đám cưới theo đúng bản mệnh, và cưới xong, bà chia tay môi trường nghệ thuật để ở nhà làm một bà vợ đúng nghĩa. Bà nghĩ, đám cưới chu đáo và hoàn hảo, hôn nhân chung thủy và tuyệt đối, vậy là hạnh phúc.
Sau mười tháng, bà chia tay người chồng. Chỉ vì, thứ bà nghĩ là hạnh phúc, hóa ra là sự tẻ nhạt của một căn hộ chung cư cao cấp cộng với sự nhạt nhẽo của một gia đình mà ở đó, chồng thì nghĩ tiền và tình dục là đủ còn vợ thì nghĩ hình như mình đang làm gái bao vô thời hạn vì chỉ nhận được có tiền và tình dục.
Tôi nghĩ, luôn có chòm sao hạnh phúc chiếu mệnh cho chúng ta. Chỉ có điều, ta có nhìn nhận đó là hạnh phúc hay không, mà thôi

Trang Hạ  (Net)
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Tue Apr 01, 2014 5:07 pm    Tiêu đề: Lòng Tử Tế

Xuân Vũ thân mến,
Cám ơn XV rất nhiều, bài sưu tầm Ai sinh ra dưới chùm sao hạnh phúc rất hay và ý nghĩa, mặc dù hai chữ Hạnh Phúc thật khó mà định nghĩa và thấu hiểu đươc đầy đủ.
Tác giả Trang Hạ đã kết luận "... luôn có chùm sao hạnh phúc chiếu mệnh cho chúng ta chỉ có điều chúng ta có nhìn nhận đó là hạnh phúc hay không mà thôi ".
Chị còn nhớ có một câu nói của Shakespeare " Hạnh phúc không phải là những gì ta đạt được mà là những gì ta mơ ước "  Và L.Tolstoi cũng nói " Hạnh phúc đầy đủ là sự kết hợp được cả mơ ước lẫn thực tại " (?)
Thật là khó hiểu quá các bạn nhỉ, phải không XV, thôi thì chúng ta chỉ biết cầu mong Chùm sao hạnh phúc luôn chiếu mệnh cho mọi người để niềm hạnh phúc được trọn vẹn và bền vững.
Thân mến
Chị NNNg
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Tue Apr 01, 2014 5:17 pm    Tiêu đề: Nước Chảy Đôi Dòng
Tác Giả: Nhất Linh


Nước Chảy Đôi Dòng

Nước xuôi dòng, buồm thuận gió. Hai bên bờ sông hai dãy đồi dài, sương buổi chiều đã lờ mờ phủ chân đồi; trên ngọn đồi vài rặng thông như mấy vết mực nhạt... trời lạnh và trăng trong...

Sinh ngồi ở ngoài khoang thuyền kéo cổ áo lên che cho khỏi lạnh, quay ra phía sông vơ vẩn nhìn cảnh nước trôi, trăng giải. Chàng lặng yên để tâm trí phiêu lưu, không nghĩ gì, không vui, không buồn, có cái thú bình tĩnh vô tư.

Sinh lên chơi người quen ở Phả Lại, khi trở về, nhân có chiếc thuyền nâu cũng xuôi nên xuống thuyền, bao giờ đến nhà thì đến, vì chàng không vội gì. Mà Sinh cũng không bao giờ biết vội. Chàng là con quan, nhà giàu có, nên sống một cuộc đời nhàn nhã, cứ để năm tháng đi qua hết ngày nọ đến ngày kia... đi qua như dòng nước chảy xuôị

Sinh đương ngồi vơ vẩn, bỗng nghe trong khoang có tiếng cười nói rất thanh tao. Sinh lấy làm lạ, vì lúc xuống thuyền chỉ có hai vợ chồng người lá đò đã già. Sinh quay lại thấy một người con gái trạc độ mười tám tuổi, mặc chiếc áo tứ thân vá vai đã cũ, chiếc khăn vuông đã bạc màu, tóc rũ xuống mà rối bời, nhưng nét mặt xinh đẹp tuyệt trần, hai con mắt trong và sáng, trông thanh tao có vẻ con nhà khuê các. Sinh ngạc nhiên, giương mắt nhìn. Người con gái không để ý, không chút e lệ, ngây thơ nhìn Sinh, hơi mỉm cười, sẽ nói:

- Mời ông vào xơi nước.

Trên chiếc chiếu trắng, Sinh thấy có để ấm nước và khay gỗ đựng mấy chiếc chén sứt miệng. Người con gái rót nước vào chén, hơi lên nghi ngút, mời Sinh uống, rồi lại lui về khoang cuối thuyền, vừa cầm lái vừa đun bếp. Sinh cầm chén nước lên nhưng không uống, vẫn đăm đăm nhìn theo: dưới ánh lửa, hai con mắt người con gái lại càng sáng, đôi má lại càng hồng.

Sinh ngẫm nghĩ:

- Quái, không lẽ hai vợ chồng lái đò cục kịch thế kia lại có người con gái thanh tao như vậy. Cái thân kia phủ tấm áo đã bạc rách, nghĩ kể cũng đáng thương, đôi má kia nỡ nào để chịu gió sương mà hai tay kia tháng ngày dầm nước lạnh, mó cá tanh, sao cho xứng đáng.

Sinh đến gần chỗ đun nước, bảo người con gái:

- Trên thuyền có củi, cô cho mấy thanh củi to để tôi ra sưởi; đi thuyền không quen, chân tay tôi giá lạnh giá cả.

Người con gái rút ở dưới khoang thuyền mấy thanh củi, rồi nói:

- Thưa ông, ông chịu khó ngồi róm lửa lấy mà sưởi, cháu còn mắc cầm láị

Sinh tò mò hỏi chuyện:

- Cô ngồi cả đêm thế không lạnh saỏ

- Thưa ông, quen đi... vả lại cháu chỉ ngồi đến nửa đêm, thầy cháu đi ngủ sớm, nửa đêm lại ra thaỵ

Sinh nói đùa:

- Cô có lạnh vào mà sưởi, để tôi ra cầm lái chọ

- Ông cầm không quen, đâm vào bờ thì chết!

Cô nói xong cúi mặt, mỉm cười. Sinh giơ hai tay lên sưởi, nói:

- Thuyền này to mà sao ít người thế cô?

- Chuyến về, xuôi nước thuận gió, chúng cháu không phải lấy thêm người chở đò.

- Làm nghề này về mùa rét vất vả lắm nhỉ?

- Chúng cháu quen đị..

- Cô xuống làm dưới thuyền này được bao lâủ

Người con gái ngửng lên, hình như lấy làm lạ cho câu hỏi vẩn vơ nhưng cũng trả lời:

- Chúng cháu làm nghề này từ thuở bé; thầy u cháu đã già, tuy nghề vất vả nhưng vẫn phải làm, vì không làm không có cái ăn.

Sinh nhìn kỹ tay người con gái, thấy tay tuy nhỏ nhắn, xinh xắn nhưng làm lụng nhiều nên đã sàm sạm đen, nhiều chỗ thành chai, tự nhiên đem lòng thương; tự sự thương một người con gái đẹp đến sự yêu tưởng không xa lắm. Sinh nhìn vào mặt người con gái hỏi vẩn vơ:

- Cô cả đời ở dưới thuyền chắc buồn lắm nhỉ?

Bấy giờ ngoài mặt sông bóng trăng rọi xuống như sắc hoa bạc trên làn sóng... còn ngoài xa thì sương đêm mờ mờ, chiếc thuyền như đi trong một thế giới mơ mộng, mà trong cái cảnh như thực hư ấy, Sinh tưởng chừng đương ngồi đối diện một người tiên nữ trá hình làm người con gái chở đò...

- Cô vào ngồi đây sưởi cho đỡ lạnh, bây giờ đương ở giữa sông thì bẻ lái thẳng mặc cho thuyền nó đị

Người con gái nghe lời, vào ngồi bên lửa giơ tay sưởi. Sinh để tay lên tay người con gái nói:

- Tay cô lạnh giá cả, tội nghiệp quá!

Nhìn đến cô bé thì cô bé vẫn điềm nhiên như không, cho Sinh sờ tay mình là tự nhiên, cười nói một cách ngây thơ:

- Ngồi đây ấm quá nhỉ, nhưng ấm quá chốc nữa ra lại lạnh.

- Ấy cứ ngồi bên tôi là ấm.

Người con gái lại cười một cách ngây thơ. Sinh âu yếm hỏi:

- Cô em năm nay bao nhiêu tuổỉ

- Mười tám hay mười chín tuổi, tôi cũng chẳng nhớ.

- Thế cô em tên gọi là chỉ

- Tên tôi là Duyên.

Sinh ngạc nhiên:

- Tên cô là Duyên à?

- Vâng tên tôi là Duyên, có gì mà ông lạ.

- Lạ vì tên tôi là Kim, tên hai người chắp lại thành Kim Duyên.

Người con gái như không hiểu, hỏi:

- Kim Duyên nghĩa là thế nàỏ

- Là cô với tôi có duyên với nhaụ

Cô bé cười ... nhưng vẫn cái cười ngây thơ như trước.

Sinh nói mấy câu ngụ ý, người con gái đều không hiểu cả, chỉ trả lời bằng mấy câu mộc mạc, hay cười một cách ngây thơ. Sinh càng nhìn người con gái càng thấy xinh đẹp, cái vẻ đẹp lộng lẫy dẫu ai trông thấy cũng phải cảm, huống chi như Sinh ngồi đối diện tha hồ ngắm nghía, trên trời dưới nước, riêng mình một tuyệt thế giai nhân.

Nhưng Sinh lấy làm chán nản vì không ngờ tấm linh hồn chất phác, mộc mạc ấy lại có thể ẩn dưới cái hình sắc đẹp đẽ đến như thế, khác nào chiếc áo nâu bạc rách bao phủ lấy tấm thân ngà ngọc, tuyệt mỹ kiạ

Sinh ngồi sát vào người con gái: cô con gái không nói gì, vẫn một nét mặt thản nhiên, hai con mắt xinh đẹp vẫn một vẻ vô tình. Sinh nắm lấy tay người con gái, nhìn thẳng vào mặt, âu yếm hỏi:

- Cô Duyên...

Cô bé, khẽ hất tay ra, gọi to:

- Thầy ơi, sắp đến đống mía rồi, thầy ra mà kéo dâỵ

Sinh đứng dậy lùi vào trong khoang, vờ cầm chén uống nước - nhưng mãi cũng không thấy ông cụ lái đò ra. Sinh biết người con gái lúc nguy cấp vờ gọi cha cầu cứu, lại toan đến gần chỗ người con gái ngồi, nhưng chép miệng nói một mình:

- Vô ích! Ra làm gì? Ích lợi gì? Một người con gái xinh đẹp đến thế mà ta không thể nào yêu được, mà người đó cũng không thể nào yêu ta, không biết yêu là cái gì! Còn làm xiêu lòng người để mua vui một lúc thì không nỡ... thôi chỉ thế này thôi, chỉ thế thôi để gọi là giữ cái kỷ niệm một đêm đông trên thuyền cùng người con gái đẹp. Rồi sau đây... cuộc đời mỗi người đi về mỗi ngả...

Sinh giở chăn đắp, ngủ một giấc, tờ mờ sáng hôm sau mới dậy. Lúc bấy giờ thuyền vừa đến làng Sinh. Sinh từ giã hai vợ chồng lái đò và người con gái lên bờ. Người con gái còn đứng trên mũi thuyền trông theo, gió trên sông đưa mấy tà áo nâu bạc phất phơ... Sinh lát lát quay cổ trông với lại để thu vào trong trí nhớ cái hình ảnh của một người con gái đẹp chắc không bao giờ Sinh lại còn thấy một lần nữạ

***

Nhưng một sự tình cờ lại làm cho Sinh gặp người con gái ấy một lần thứ hai... từ lần gặp gỡ trước đến bây giờ đã mười năm.

Trong mười năm ấy Sinh đã lấy vợ, đã có con, cuộc đời vẫn đi như dòng nước chảỵ

Sinh một hôm, bận chút việc phải đi đò liền gọi một chiếc thuyền đánh cá thuê chở. Một người đàn bà, bế con ở trong khoang thò đầu ra hỏi:

- Ông muốn thuê thuyền...

Sinh nhìn kỹ người đàn bà, sửng sốt buột miệng nói:

- Cô Duyên!

Người đàn bà cũng ngạc nhiên:

- Ông biết tên tôỉ

- Cô không nhớ saọ.. Cô không nhớ người đi đò từ Pha? Lại mười năm về trước...

Sinh nhìn người đàn bà thì người ấy vẻ mặt ngẩn ngơ như không hiểu, không nhớ rạ mà Sinh thì không thể lầm được.

Người đàn bà không để ý đến Sinh, quay mặt vào trong khoang nói:

- Thầy cháu ra có ông khách hỏi thuê thuyền.

Người chồng đi ra, đầu quấn chiếc khăn nâu, mình mặc áo cộc nâu, quần vuông lá tọa, vẻ mặt xấu xí, nói:

- Mời ông xuống, chúng cháu chở...

Sinh ngồi xuống ở mũi thuyền, nhưng vẫn nhìn đăm đăm vào người đàn bà; mười năm đã qua, mà trông vẫn phảng phất như người con gái năm xưa. Tuy đã đứng tuổi nhưng vẫn một vẻ đẹp lộng lẫy, tươi tắn như khi còn là con gái. Sinh nhìn người đàn bà, nhìn đến người chồng, đến đứa con trong lòng mẹ, nghĩ đến cái mơ mộng của mình mười năm về trước, thở dài lẩm bẩm:

- Cuộc đời! Cuộc đời người ta như thế đấy! Mà chỉ có thế! Ta tưởng người con gái đẹp thì không thể nào sống trong cảnh nghèo hèn được, ta ái ngại, ta thương... nhưng người con gái đẹp mà ta thương đây không biết mình là khổ, không bao giờ nghĩ đến xem mình có khổ không, vô tình thản nhiên sống theo cảnh đời họ... như dòng nước sông kia chảy trong lòng sông.

Sinh bùi ngùi, cúi mặt ngắm dòng nước, ngắm mấy cái rác, tan tác mỗi cái trôi về một phía... khác nào hình ảnh cuộc đời của Sinh với cuộc đời của người con gái chở đò, mỗi bên đi về mỗi ngả, không bao giờ gặp nhaụ

Người đàn bà không để ý đến Sinh, vẻ mặt thản nhiên như không biết mình vui hay khổ, không biết mình là xinh đẹp, như không bao giờ nghĩ đến rằng người đẹp như mình có xứng đáng với cái cảnh đời ấy không... vô tình khẽ cất tiếng hát ru con:

... Nước chảy đôi dòng... ... Con sông Thương... nước chảy đôi dòng...

(Ngày 22 tháng 12 năm 1932)
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Wed Apr 09, 2014 7:48 pm    Tiêu đề: Chiếc Lá Cuối Cùng
Tác Giả: O. Henry

Chiếc Lá Cuối Cùng

Hẳn nhiều người trong chúng ta đã biết câu chuyện cảm động : "Chiếc là cuối cùng" . Câu chuyện thể hiện một tinh thần vượt lên trên mọi nghiệt ngã của cuộc sống, một tình yêu thương đồng loại một cách vô vị lợi, một tình yêu thương quên mình mang lại niềm hy vọng sống cho 1 người tuyệt vọng của người họa sĩ già. Quả thật, Niềm hy vọng quí giá và cần thiết biết bao! nhờ đó, một con người đã được hồi sinh. Xin chia sẻ truyện ngắn "Chiếc lá cuối cùng" của O. Henry, bản dịch của Nguyễn Cao Nguyên.


o O o


Tại một quận nhỏ nằm về hướng tây công trường Washington, đường sá chạy rối loạn, quanh co, tròng tréo nhau tạo thành nhiều khu nhỏ, thường được gọi là những "cái ổ". Những "cái ổ" này cong lượn, hình thù thật kỳ dị. Một con đường cứ tự cắt mình ra một hoặc hai lần. Có chàng nghệ sĩ phát ngôn rằng đường sá như vậy cũng có cái... lợi của nó. Giả sử như có một tên đòi nợ đến thu tiền cọ tiền sơn các thân chủ họa sĩ ở đây, lòng vòng qua những con đường như vậy cuối cùng chỉ để tìm thấy chính... mình, với hai bàn tay không.

Vì vậy mà các nghệ sĩ tìm đến, lang thang trong cái làng cổ Greenwich để tìm thuê những căn nhà có những chiếc cổng xây theo kiểu kiểu Hà Lan từ thế kỷ thứ mười tám, cửa sổ quay về hướng bắc với giá thuê thật hạ Rồi họ mang vào những chiếc thùng bằng thiết, vài cái dĩa mòn lỉn kiếm được ở Đại Lộ Thứ Sáu và cứ như vậy cái làng cổ mặc nhiên trở thành một "thuộc địa" của đám nghệ sĩ.

Sue và Johnsy có một xưỡng vẽ ở lầu trên cùng của một căn nhà gạch ba từng thấp lè tè. Johnsy là tên gọi ở nhà của Joanna. Một người từ Main, một người từ California, họ gặp nhau tại quán cơm bình dân trên đường Số Tám, cùng yêu thích hội họa, cùng mê món rau díp trộn, tương đắc đến nỗi cột tay áo mướn chung với nhau một xưởng vẽ.

Đó là hồi tháng Năm. Vào tháng mười một thì trời phái một "ông khách lạnh lùng" mà các ngài bác sĩ thường gọi là Bệnh Viêm Phổi đến khủng bố khu "thuộc địa", thò cái bàn tay lạnh ngắt, sờ chỗ này một chút, vỗ chỗ kia một phát. Khu vực phía đông bị ảnh hưởng nặng nề với khá nhiều người bệnh, nhưng bước chân của ông khách chậm dần khi bước vào cái mê cung chật hẹp rêu phong của khu "thuộc địa"

"Ông khách Viêm Phổi" không phải là hạng người mà bạn thường gọi là ông bạn già hào hiệp. Cô Johnsy gốc Cali nhỏ bé, liễu yếu đó thật ra không phải là đối thủ xứng tay của lão già tay đỏ điếm đàng, nhưng lão vẫn đập cô ta tận tình. Vì vậy mà cô gái nằm xụi lơ, bất động trên chiếc giường sắt, mắt nhìn vào bức tường gạch của căn nhà kế cận xuyên qua khung cửa sổ nhỏ.

Một bữa sáng nọ, ông bác sĩ mời Sue ra ngoài hành lang, nhướng đôi mày rậm:
"Cô ta chỉ có chừng một phần..., để coi, phần mười cơ hội sống sót" Vừa nói ông vừa rảy rảy cái nhiệt độ kế. "Đó là vì cô ta không có chí cầu sinh. Cái cảnh bệnh nhân sắp hàng chờ chết chớ không chịu uống thuốc chắc phải làm cho các thầy chế thuốc xấu hổ. Cô bạn nhỏ của cô đã hạ quyết tâm không chịu bình phục rồi. Cô ta có mơ ước gì trong đầu không?"

Sue đáp:
"Cô ấy... muốn một ngày nào đó sẽ vẽ Vịnh Naples."
"Vẽ à? Chậc! Cô ta có một cái gì đáng giá hơn trong đầu để nghĩ tới không, một người đàn ông chẳng hạn?"

"Đàn ông?" Sue lập lại với một giọng mũi khịt khịt. "Đàn ông mà đáng giá thật..., à... không, thưa bác sĩ, không có những chuyện như vậy."

"Chà, như vậy thì tệ thật!" Bác sĩ nói. "Tôi sẽ rán hết sức làm những gì mà khoa học có thể làm được. Nhưng hễ khi nào bệnh nhân của tôi bắt đầu nghĩ tới chiếc xe chở quan tài và đám đô tùy thì tôi trừ đi một nửa cái hiệu quả của thuốc men. Nếu cô có thể làm cho cô ấy thắc mắc một chút gì về mùa đông năm tới thì tôi có thể hứa với cô là cái cơ hội sống sót là một trên năm, còn không thì một trên mười."

Sau khi ông bác sĩ bỏ đi, Sue trở vào phòng làm việc và khóc đến nhão chiếc khăn giấy Nhật Bản. Sau đó cô vác cái giá vẽ vào phòng Johnsy, miệng ba hoa những câu bông đùa chọc vui.
Johnsy nằm im lìm bất động dưới tấm chăn phủ giường, mặt hướng về phía cửa sổ. Ngỡ là bạn đang ngủ, Sue ngưng những lời đùa giỡn.

Cô ta sắp xếp giá vẽ và bắt đầu minh họa cho một truyện đăng báo. Những họa sĩ trẻ dọn đường đến với nghệ thuật bằng cách minh họa cho các truyện trên báo, cũng như các nhà văn trẻ dọn đường đến với văn chương bằng ngòi bút.

Lúc Sue đang mặc áo quần, mang mắt kiếng cho một nhân vật anh hùng, một chàng kỵ sĩ miền Idaho, thì cô nghe một thứ âm thanh rầm rì, lập đi lập lại nhiều lần. Cô ta chạy vội lại bên giường người bệnh.
Johnsy đang mở tròn mắt, nhìn ra ngoài cửa sổ và đếm. Đếm ngược.
"Mười hai." một lát sau "Mười một", "Mười", rồi "Chín"; rồi "Tám" và "Bảy" gần như liền nhau.
Sue nhìn ra ngoài cửa sổ với vẻ bồn chồn lo lắng. Có gì ở ngoài đó để đếm đâu? Chỉ có một khoảng sân trống trơn buồn thảm và cái tường gạch của căn nhà cách đó hai mươi thước. Một giây nho già, thật già, gân guốc và cằn cỗi bò lên gần nửa bức tường. Những cơn gió lạnh mùa thu vừa qua làm lá rụng gần hết chỉ còn trơ lại mấy nhánh bám lủng lẳng vào bức tường gạch đổ nát.
Sue hỏi:
"Đếm gì vậy, nhỏ?"
"Sáu." Johnsy nói, gần như thì thầm. "Nó bắt đầu rụng nhanh rồi. Ba ngày trước còn cả trăm, làm mình đếm đến nhức đầu. Nhưng bây giờ thì dễ rồi. Lại một chiếc nữa rụng kìa. Chỉ còn có năm chiếc."
"Năm chiếc gì hở nhỏ? Nói cho Sudie biết với."
"Lá! Lá trên giây nho. Khi chiếc lá nho cuối cùng rơi xuống thì mình cũng sẽ đi luôn. Mình nghiệm ra điều đó ba hôm rồi. Bác sĩ không nói cho bạn biết như vậy sao?"
"Ồ, mình chưa bao giờ nghe được những chuyện vô lý như vậy." Sue gắt bạn, giọng pha một chút giễu cợt. "Cái giây nho già đó thì có liên quan gì đến sức khỏe của bạn? Bạn thường vẫn thích cái giây nho đó lắm mà, cái cô hư này. Đừng có suy nghĩ dại dột như vậy. Ồ, hồi sáng này bác sĩ nói là bạn có nhiều cơ hội bình phục lắm, để nhớ chính xác coi ổng nói sao, ổng nói, mười ăn một. Như vậy thì chắc ăn như bắp rồi, chắc ăn như mình chạy xe trên đường phố hay đi bộ qua các cao ốc ở New York vậy. Thôi, rán ăn chút súp nhá, rồi để cho con nhỏ Sudie này tiếp tục vẽ tranh bán kiếm chút tiền còm mua rượu cho con đang bệnh, mua thịt heo xay về ăn cho đỡ đói nhá."
"Bạn không cần phải mua thêm rượu nho." Johnsy nói mà mắt vẫn dán chặt ra ngoài cửa sổ. "Một chiếc nữa rụng. Không, mình không muốn ăn súp đâu. Vậy là chỉ còn lại bốn chiếc. Mình muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi trước khi trời tối. Rồi mình sẽ đi theo..."

Sue cúi xuống bên mình Johnsy:
"Johnsy, nhắm mắt lại và hứa là sẽ không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa cho đến khi nào mình vẽ xong. Mình phải nộp mấy bản vẽ này vào ngày mai. Mình cần chút ánh sáng, nếu không thì bức tranh sẽ tối hù."
Johnsy hỏi, vẻ lạnh lùng:
"Bạn không vẽ ở phòng khác được à?"
"Mình cần phải ở đây với bạn." Sue đáp. "Ngoài ra, mình không muốn bạn cứ nhìn vào mấy cái lá nho chết tiệt đó."
"Vẽ xong thì nhớ cho biết liền." Johnsy nói và nhắm mắt lại, nằm bất động như một bức tượng bị đổ. "Tại mình muốn nhìn thấy chiếc lá cuối cùng rơi xuống. Mình chờ mệt quá rồi. Mình suy nghĩ mệt quá rồi. Mình muốn buông xuôi tất cả, để cho nó cứ tự do rơi xuống, rơi xuống như những chiếc lá tội nghiệp kia."
"Rán ngủ đi." Sue nói. "Mình phải kêu ông Behrman lên ngồi làm mẫu một người thợ mỏ nghèo. Mình sẽ đi chừng một phút. Đừng cử động gì cả cho đến khi mình trở lại, nhé."

Lão Behrman là một họa sĩ ở ngay dưới tầng trệt. Lão đã quá sáu mươi tuổi, có một bộ râu chảy dài từ một cái đầu to tướng xuống một thân hình nhỏ thó giống như bộ râu dài của thánh Moses trong tranh của Michael Angelo. Behrman là một nghệ sĩ thất bại. Lão cầm cọ đã bốn mươi năm rồi mà chẳng vẽ được một bức tranh nào cho ra hồn. Lúc nào lão cũng làm như sắp sửa thực hiện một tác phẩm lớn, nhưng thực sự chưa bao giờ bắt tay vào việc. Suốt mấy năm liền lão chẳng vẽ vời gì ngoài một vài bức tranh quảng cáo lem nhem. Lão kiếm sống bằng nghề làm người mẫu cho các họa sĩ trẻ trong khu thuộc địa vì các họa sĩ trẻ này không đủ tiền mướn các người mẫu chuyên nghiệp. Lão uống rượu như hũ chìm, và nói hoài về cái tác phẩm lớn sắp hoàn thành của mình. Đối với nhiều người thì lão là một lão già nhỏ con mà gân lắm, thường mạt sát thậm tệ cái tánh ủy mị yếu đuối của người khác và tự coi mình như một người dẫn dắt, bảo vệ hai cô họa sĩ trẻ trong cái xưỡng vẽ trên lầu.

Sue tìm thấy lão Behrman trong căn phòng nhỏ tối hù của lão ở lầu dưới, người nồng nặc mùi rượu dâu. Trong một góc phòng, tấm vải trên khung vẽ vẫn còn trống trơn nằm chờ hơn hai mươi năm rồi đường cọ đầu tiên của cái tác phẩm lớn của lão. Cô kể cho lão nghe về sự tưởng tượng lạ lùng của Johnsy, về nỗi lo là cô ta vốn đã mong manh, yếu đuối, khi nghị lực của cô cạn đi rồi thì cô sẽ trôi tuột đi như chiếc lá lìa cành.

Lão Behrman, cặp mắt đỏ ngầu chiếu thẳng ra trước, la lên với vẻ chế nhạo, khinh bỉ cái óc tưởng tượng ngu ngốc đó.
"Dà." Lão khóc. "Thế gian có người ngu nào nghĩ như con nhỏ đó là mình sẽ chết theo những chiếc lá nho khi nó lìa cành không? Lão chưa từng nghe chuyện đó bao giờ. Không, Lão không làm cái người mẫu khổ hạnh ngu ngốc đó cho cô đâu, hiểu chưa? Sao cô lại để cho những chuyện ngu xuẩn như vậy chạy vô đầu con nhỏ đó như vậy hả? Ờ, cái con nhỏ Johnsy tội nghiệp."

"Cô ta bệnh nặng và yếu lắm." Sue đáp. "Cơn sốt làm cho tâm trí cô ta trở nên hổn loạn, tưởng tượng ra những việc hoang đường. Được rồi. Ông Mehrman, nếu ông không muốn làm người mẫu cho tôi thì cũng không sao. Tôi biết ông chỉ là một lão già khó tánh, ba hoa, ngồi lê đôi mách."
"Cô đúng là cái giống đờn bà!" Lão Behrman la lên. "Ai nói là lão không chịu ngồi mẫu? Đi đi. Lão sẽ lên gặp cô. Suốt nửa tiếng đồng hồ vừa rồi lão đã giải thích là lão sẳn sàng ngồi mẫu mà. Dà, đây đâu phải là chỗ cho những người tốt như cô Johnsy nằm bịnh chớ. Một ngày nào đó lão sẽ vẽ xong tác phẩm lớn, rồi chúng ta sẽ rời bỏ chỗ này. Dà, đúng vậy."

Lúc hai người lên đến nơi thì Johnsy đang ngủ. Sue kéo tấm màn cửa sổ cho kín lại và ra dấu cho lão Behrman sang phòng kế. Cả hai cùng lo lắng nhìn mấy cọng giây nho bên ngoài cửa sổ. Rồi cả hai cùng nhìn nhau một lúc lâu không nói lời nào. Trời mưa dai dẳng và có chút tuyết rơi. Lão Behrman trong chiếc áo xanh cũ kỷ, bắt đầu ngồi lên trên cái ấm nước đặt lộn ngược giả làm tảng đá để làm mẫu một người thợ mỏ nghèo khó.

Sáng hôm sau, khi Sue thức dậy sau chừng một giờ ngủ mê, cô bắt gặp Johnsy với cặp mắt mở lớn, đờ đẫn đang nhìn chăm chăm vào một cái bóng màu xanh.
"Kéo cửa sổ lên. Mình muốn nhìn một chút." Cô thì thầm ra lệnh.
Sue làm theo một cách uể oải.
Nhưng, ô kìa, sau một cơn mưa dữ dội và những cơn gió vật vả suốt đêm dài, một chiếc lá nho vẫn còn hiện rõ mồn một trên bức tường gạch. Đó là chiếc lá nho cuối cùng còn sót lại. Cuống lá vẫn còn cái màu xanh đậm nhưng ven rìa lá răng cưa đã nhuốm màu vàng úa, treo lơ lững như thách đố trên một giây nho cách mặt đất chừng hai chục thước.
"Đó là chiếc lá cuối cùng." Johnsy nói. "Mình cứ tưởng nó chắc phải rụng hồi đêm rồi. Mình nghe gió dữ lắm. Chắc nó sẽ rụng trong ngày hôm nay và mình cũng sẽ rụng theo."
"Nhỏ, nhỏ ơi." Sue vừa nói vừa dúi khuôn mặt mệt mõi của mình vào chiếc gối. "Nếu bạn không muốn nghĩ đến bản thân mình thì xin hãy nghĩ tới Sue đây. Sue phải làm sao đây?"

Nhưng Johnsy không trả lời. Cái sinh vật cô đơn khủng khiếp nhất trên thế gian này phải là cái linh hồn khi đã sẳn sàng đi vào một cuộc hành trình miên viễn, đầy huyền bí. Sự tưởng tượng hoang đường đó dường như càng ám ảnh cô gái mạnh mẽ hơn khi mối liên hệ với bạn bè và với trái đất này của cô cứ lỏng lẽo dần.

Ngày tàn dần, và dù trời nhá nhem tranh tối tranh sáng, họ vẫn có thể nhìn thấy chiếc lá nho duy nhất còn bám vào cuống giây nổi bật trên bức tường. Rồi đêm đến và những cơn gió bắc lụn dần, trong khi cơn mưa vẫn còn đập vào khung cửa sổ, và rơi lộp bộp dưới mái hiên.

Khi trời vừa hừng sáng, Johnsy thẩn thờ đòi kéo tấm màn che lên.

Chiếc lá vẫn còn đó.

Johnsy nằm yên lặng nhìn một lúc khá lâu. Rồi cô cất tiếng gọi Sue đang khuấy nồi súp gà trên cái lò gas.
"Mình thật là hư quá, Sudie ạ." Johnsy nói. "Một cái gì đó đã làm cho chiếc lá cuối cùng kia không chịu rụng làm mình cảm thấy xấu hổ quá, mình thật là tệ quá. Muốn chết đi thì quả là một điều ngu xuẩn. Bạn mang cho mình một chút súp đi, một ít sữa có pha chút rượu nho nữa; nhưng khoan, mang cho mình một cái gương nhỏ trước đã, rồi kê giùm mình mấy chiếc gối để mình có thể ngồi dậy nhìn bạn làm bếp."
Một giờ sau cô ta bảo:
"Sudie này, mình hy vọng có ngày sẽ vẽ Vịnh Naples."

Chiều hôm đó bác sĩ đến thăm. Sue cáo lỗi với bạn để đi ra hành lang gặp bác sĩ khi ông ta ra về.
"Có triển vọng tốt." Bác sĩ vừa nói vừa cầm lấy bàn tay gầy guộc và run rẩy của Sue. "Rán chăm sóc thì cô ấy sẽ khỏi. Bây giờ tôi phải đi thăm một bệnh nhân khác dưới lầu, tên là Behrman, nghe nói là một nghệ sĩ gì đó. Cũng bị viêm phổi. Ông ta già, yếu thành ra bị nặng lắm. Không có hy vọng gì; nhưng hôm nay sẽ đưa ông ta vào bệnh viện để được tiện nghi hơn."

Hôm sau bác sĩ bảo Sue:
"Cô ấy qua cơn nguy rồi. Cô đã thắng. Giờ chỉ cần ăn uống và tịnh dưỡng là đủ."
Chiều hôm đó, Sue đến bên Johnsy đang nằm trên giường bệnh, thắt lại chiếc khăn len quàng cổ màu thật xanh, quàng tay ôm lấy bạn, rồi ôm chiếc gối, tần mần tẩn mẩn...
"Mình có chuyện này muốn nói với bạn, con chuột bạch à." Cô ta nói. "Cụ Behrman đã mất trong bệnh viện ngày hôm nay vì bị viêm phổi. Cụ mắc bệnh chỉ có hai ngày. Hôm đầu tiên ông quản gia tìm thấy cụ nằm trong phòng có vẻ đau đớn lắm. Giày dép, quần áo cụ ướt sũng và lạnh như đá. Họ không tưởng tượng ra được cụ ấy đi đâu, làm gì trong một đêm gió mưa khủng khiếp như vậy. Sau đó họ tìm thấy chiếc đèn lồng vẫn còn cháy sáng, một chiếc thang được kéo lê ra từ trong kho, mấy chiếc cọ còn dính sơn và một hộp sơn pha trộn hai thứ màu xanh và vàng. Và bạn thử nhìn ra ngoài cửa sổ kia, nhìn vào chiếc lá nho cuối cùng trên bức tường đó. Bạn không cảm thấy ngạc nhiên là tại sao nó chẳng lung lay động đậy gì trong cơn gió à? Nhỏ ơi, nó chính là cái tác phẩm lớn của cụ Behrman đó. Cụ đã vẽ nó vào cái đêm chiếc lá nho cuối cùng rơi xuống."


Tác giả:O. Henry.
bản dịch của Nguyễn Cao Nguyên



Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sat Apr 26, 2014 5:46 pm    Tiêu đề: Ơn Và Oán
Tác Giả: Vũ Bằng


Ơn Và Oán
 

Đến tận bây giờ, người ta vẫn chưa biết câu chuyện dưới đây đã xảy ra ở nước nào. Chỉ biết rằng đó là một câu chuyện xảy ra cách đây lâu lắm. Hồi đó là một hồi thái bình thịnh trị. Người nhà quê nhường cơm sẻ áo cho nhau. Của rơi trước ngõ không ai thèm nhặt. Súc vật thân với giống người như anh em một nhà.

Có một vị quan kia, chán mùi hoạn lộ, xin cáo về nhà để đi dưỡng tinh thần. Ông làm bạn với tách trà, giò cúc. Sáng, ông lên trên những đỉnh đồi cao để cho được gần trời; trông ngắm hạc bay, công múa. Chiều thì hoa cỏ thấy ông chống một cái gậy trúc ra đứng trước cổng nhà để nhìn nước nổi tăm, hay ngắm đám thế nhân đi lại ở trước đám bụi.

Những hồi ức thời làm quan của ông trở lại trí não lúc này rất rõ ràng. Ông nhớ lại những lúc ở dinh thự có xe đưa pháo đón. Chao ôi, bây giờ nhìn lại thì còn có cái gì? Chỉ còn một tấm lòng. Ông ngậm ngùi về nỗi hư không của thế sự và đến tận lúc bấy giờ ông mới thật thấm hiểu rằng chỉ có tấm lòng là người bạn chung thủy ở với ta cho tới chết. Tấm lòng mà thư thái, không vẩn điều hối hận là của báu có tiền không mua được.

Ông hưu quan nhìn trước mặt là núi, nhìn sau lưng là núi. ở giữa một dòng suối chảy thanh thanh. Ông nói với ông rằng:

"Sự ưa thích một khi đã đạt rồi thành chán. Trước đây ta giàu, hễ muốn là có tiền. Bây giờ ngồi ngẫm lại hồi đó, thật chẳng khác gì cái suối nó kêu lên một tiếng thì ở trong rừng này hai trái núi nó đem tiếng vang ngay lại.

Thế sự bao giờ cũng chỉ quẩn quanh có thế thôi. Duy sự khổ não thì bờ bến nào cũng có mà không hề giống nhau bao giờ. Người ta chém giết nhau, người ta lại giả dối với nhau; người ta khinh nhau, người ta lại ghét ghen nhau; người ta biệt ly rồi gặp nhau, người ta lại chia rẽ những đôi lứa không cho nhau sum họp".

Ông hưu quan nghĩ thế và rất buồn cho tâm lý người đời. Ông bèn lên ở trên một am vắng để dốc tìm đạo lý. Dưới chân am có một cái hố rất sâu. Trên cái hố có một cây thông cỗi.

Một hôm, đương mơ màng ở dưới gốc thông, nhà đạo sĩ của chúng ta bỗng thấy một vật gì sa vào cái hố cách chỗ ông ngồi ba bước. Ông bèn đứng dậy xem. Thì ra đó là một nhà đi săn đuổi thú qua đó trượt chân mà ngã. Người đi săn ấy làm ngã luôn cả một con quạ và con rắn đứng bên. Người và hai con vật lăn lộn, nhảy nhót để cố thoát thân, nhưng không được.

Vị đạo sĩ bèn rằng:

- Thôi, các người, đợi đấy. Ta sẽ có cách dắt lên cho.

Nói đoạn, ông bèn tìm một sợi dây thông thả xuống. Ông cho người nắm một đầu dây. Con rắn quấn lấy chân người. Con quạ hé mỏ đớp vào đuôi con rắn. Cả ba đều lên được. Thế là thoát chết.

Cả ba đều quỳ lạy vị đạo sĩ mà nói trong nước mắt:

- Bạch Đại đức, ngài đã cứu chúng tôi khỏi chết. Ơn ấy xin ghi đời! Chúng tôi xin lạy ngài và nguyện sẽ giúp ngài trong khi hữu sự, dẫu chết cũng không dám phàn nàn gì cả.

Vị đạo sĩ nâng cả ba lên. Người chưa kịp nói câu gì thì ông khách săn lại tiếp:

- Đại đức là một người cứu người mà không muốn người đền ân. Chúng tôi đã biết. Nhưng chúng tôi cúi xin ngài khi nào có việc đi qua tệ ốc thì ngài ghé lại để chúng tôi được thết đãi một chút, theo cái phận thấp hèn của chúng tôi.

Con quạ nói:

- Tôi tên là Quạc. Khi nào Đại đức gặp chuyện chẳng may gì thì xin gọi tôi một tiếng để tôi đến hầu.

- Còn tôi, - con rắn nói, - tôi tên là Gầm. Cũng vậy, khi nào Đại đức gặp việc gì khó khăn, xin cứ tên Gầm của tôi mà gọi. Tôi không chắc đã giúp Đại đức những điều gì quá sức tôi. Nhưng tôi quyết đem thân ra làm việc để đáp ơn Đại đức.

Cuộc chia ly rất não nùng. Vị đạo sĩ niệm Phật để đưa người và vật xuống núi về trần, nhưng vật và người đều rớt nước mắt, đi xa tới hai dặm vẫn còn quay trở lại.

Trong vòm cây xanh, một nóc nhà rơm vẽ ra rất lờ mờ. Sương dày rơi xuống biệt hai thế giới. Xa xa, tiếng chầy kinh nện lên.

Năm ấy, trời làm đói kém. Hổ về ăn khoai. Lúa không còn gặt mà cây cối trên núi bị dơi và chuột cắn nát không còn một trái. Nhà đạo sĩ phải bỏ núi tìm xuống đồng bằng khuyến giáo. Bởi vì dưới đồng bằng thì hoa mầu năm trước người ta còn tích lại được nhiều. Miếng ăn thì thực chẳng có thừa đâu. Nhưng khoai, đậu vẫn đủ cho lợn dùng mà lúa tốt thì những nhà thường thường vẫn có từng trăm hộc để cho người ta ăn đầy đủ.

Vị đạo sĩ của ta đi khuyến giáo hết các làng đều được tiếp đãi tử tế và nhà nào cũng mời đạo sĩ dùng cơm. Một buổi chiều kia, đạo sĩ đến trước cửa một nhà nọ thì trời vừa nổi một cơn mưa bão.

Đạo sĩ dừng chân đứng trú mưa ở đấy. Thì này, chủ nhà nào phải ai xa lạ: chính là ông khách đi săn ngày trước bị ngã lăn xuống hố cùng với con rắn và con quạ vậy!

Người đi săn bèn vội vã mời đạo sĩ vào nhà mình nghỉ chân. Lúc ấy quá Thìn. Mưa đã ngớt. Gió bớt mạnh và sấm không làm dữ nữa.

Anh thợ săn chắp tay trước ngực mà nói với vị chân tu rằng:

- Bẩm Đại đức, xin ngài ban cho chúng tôi một cái ơn: Đại đức nghỉ chơi lại chút nữa để chúng tôi được hầu một bữa cơm dưa muối, chúng tôi lấy làm hân hạnh lắm.

Vị đạo sĩ không chối từ. Anh thợ săn khó nghĩ. Bởi chính bụng anh ta thì anh ta nghĩ thế này: "Xưa kia, mình trót đã hứa với y nếu khi nào y đi qua thì mình sẽ tiếp đãi chu đáo để đền ơn cứu sống. Thì bây giờ đó, y đi qua. Nếu ta không tiếp, y sẽ cho ta là đồ bạc bẽo. Nhưng mà bây giờ mà ngồi tiếp cơm y!...".

Anh thợ săn đã có cách xử rồi. Anh gọi vợ xuống bếp và nói nhỏ:

- Tôi nói vừa rồi là nói vậy mà thôi. Chứ bây giờ mà thết cơm y thì tốn mà mất thời giờ quá. Âu là mình cứ chậm châm mà làm. Tôi biết: hễ quá giờ Ngọ thì y không ăn nữa.

Lời nói quả đúng. Giờ Tỵ qua, giờ Ngọ đến, vị đạo sĩ không ăn nữa thật. Ngài cáo từ đi ra. Anh thợ săn và vợ tuy vồn vã nhưng lấy làm sung sướng trong bụng lắm. Vị đạo sĩ thật thà ba bốn lần rập đầu cảm tạ người thợ săn tốt bụng. Ông đi một quãng đường dài mà vẫn không thôi niệm Phật cho vợ chồng anh ta.

Chẳng mấy lúc, ông đã về tới núi. Vừa bước chân lên bực, con quạ ở đâu liệng xuống và đậu dưới chân ngài mà lạy:

- Bạch Đại đức, ngài vừa mới ở đâu về?

- Ta đến khuyến giáo và mới ở nhà anh thợ săn ra.

- Vậy chẳng hay anh ta có mời Đại đức thụ trai không?

- Có! Có! Anh ta tốt lắm. Nhưng tiếc vì vợ anh ta làm cơm chậm quá nên ta không đợi được.

Con quạ ấy không rõ tại sao phút chốc bỗng hiểu ngay mọi việc. Nó bèn rằng:

- Đại đức chớ tin. Nó là loài yêu quái đó. Nó không biết lẽ phải. Nó điêu ngoa. Nó không biết trả ơn người cứu sống. Bẩm Đại đức, chúng tôi không có cơm canh hoa quả thết ngài nhưng ngài ngồi đợi. Chỉ một lúc, tôi xin quay trở lại.

Vị đạo sĩ chưa kịp nói một lời thì con quạ đã vỗ cánh cao bay. Nó bay sang một nước láng giềng. Và vào trong cung hoàng hậu. Hoàng hậu đang ngủ một giấc thần tiên trên giường vàng. Bà đeo ở cổ một hạt kim cương sáng ngời. Quạ vỗ cánh đậu bên cạnh và mổ lấy hạt kim cương đó đem về cho đạo sĩ.

Đạo sĩ lấy kim cương làm gì? Có lẽ đó là một vật báu vô giá. Nhưng vô giá với đàn bà. Dùng, đạo sĩ không biết dùng nó làm gì cả. Ngài cho vào bọc và để trong túi chờ một ngày kia...

Trong khi ấy thì khắp trong nước người ta xôn xao bàn tán về việc Hoàng hậu mất kim cương. Bà không biết mất bằng cách nào. Cả nước không ai đoán nổi kẻ gian phi táo tợn đã dùng cách gì lấy được viên kim cương đó. Từ dân đến quan, ai cũng được lệnh đi tìm hạt kim cương. Cả nước mất ăn mất ngủ. Đi đâu người ta cũng thấy yết thị rằng: "Hỡi ai là người tìm được viên kim cương của Hoàng hậu khá đem vào triều mà lĩnh thưởng một ngàn con ngựa, một ngàn con bò, một ngàn cân bạc, một ngàn cân vàng. Ai lưu trữ sẽ bị tru di cả họ".

Một ngày kia, vị đạo sĩ lại xuống đồng bằng khuyến giáo. Cảm cái ân người đi săn đã ở tốt với mình, đạo sĩ lại tìm đến nhà y. Và tặng vợ y viên kim cương mà con quạ đã đem biếu ngài.

Tức thì người đi săn giở mặt. Mắt y đỏ sọc lên như những hòn than, miệng y nóng rẫy chẳng khác gì lửa cháy:

- Tên này gớm thật. Mi không biết rằng vật này là vật mất cắp trong cung? Mi là đạo tặc. Ta phải trói để đem nộp quan bây giờ. Nói thế, y làm liền. Y trói vị đạo sĩ như trói lợn. Y chạy bay đến tâu vua và đứng chờ lĩnh thưởng.

Vua bèn phán hỏi đạo sĩ rằng:

- Gã kia, phải khai cho thực. Viên kim cương này ngươi lấy bằng cách nào và lấy ở đâu?

Nói làm sao? Biết nói làm sao bây giờ? Nếu ta nói thực, chỉ trong giây lát cả loài quạ trong nước đều bị chết. Ta bảo "tôi không lấy" thì vô lý vì viên kim cương rõ ràng tự tay ta đưa cho người đi săn. Còn nếu ta bảo: "Chính tôi lấy đó" lại càng không được. Bởi vì như thế là trái với luân lý kẻ tu hành, trời hỡi!

ở trường hợp khó khăn này, đạo sĩ chỉ ngậm miệng không nói gì là hơn cả. Vua bắt lính đem đạo sĩ ra xử trường. Đạo sĩ không giận ai hết, cứ chắp tay niệm Phật. Vua càng giận tên đạo sĩ gian ngoan. Ngài truyền:

- Quân bay, khá đem lão đạo sĩ yêu ma này ra chôn sống, chỉ để cho cái đầu ló lên thôi. Đến giờ Ngọ ngày mai thì giết.

Đạo sĩ, chỉ còn có cái đầu nhô ra khỏi mặt đất, nhìn trời cao xanh một lần cuối và rớt nước mắt ra. Lá cây rung nhè nhẹ. Hơi nước lòa cảnh vật.

- Dưới gầm trời này, không ai là không khổ! - đạo sĩ kêu lên thế. - Ta đem thân xa lánh chốn phiền ba, tưởng là yên mùi đạo. Nào ngờ lại phải chết một cách thảm khốc như thế này!

Đạo sĩ đã nói đến chữ gầm. Con rắn ở đâu hiện đến. Nó cúi đầu lạy đạo sĩ ba lạy mà rằng:

- Bẩm Đại đức, sao Đại đức lại ra thế này?

Chỉ một phút nó biết hết cả đầu đuôi câu chuyện. Nó khóc mà than:

- Lòng bác ái của Đại đức rộng như trời, sâu như bể. Thế mà còn gặp những tai ương. Vậy không biết thế nhân, lòng thì đục mà đức thì kém không biết còn đau khổ về tinh thần đến như thế nào! Tôi biết ngài có một lòng thương yêu nhân loại mông mênh. Ngài không giận ai hết. Nhưng tôi, tôi chưa đến chỗ cao siêu ấy, tôi phải trả thù mới được. Bây giờ tôi giắt vào khăn ngài gói thuốc này. Mai kia đây, nếu có ai bị rắn cắn ngài lấy thuốc này mà rịt cho người ta, người ta sẽ sống lại và sẽ đền ơn cứu sống.

Nói đoạn, con rắn bò đi. Đến tối nó vào cung vua và rình lúc vô ý cắn vào chân hoàng thái tử. Thái tử đau nhức và chỉ một lát toàn thân tím lại. Bao nhiêu ngự y đều chịu không thể nào chữa nổi. Nhà vua lại cho rao lên rằng: "Hỡi ai là người biết môn thuốc chữa rắn cắn nào cực hay khá đến chữa cho hoàng thái tử. Thái tử mà khỏi thì nhà vua sẽ chia cho nửa giang sơn và được hưởng sự vinh hoa phú qúy".

Quân đem lời ấy đi rao cùng làng xã. Đạo sĩ bị chôn sống thò đầu ra khỏi mặt đất nghe thấy rao thế bèn rằng:

- Khoan đã! Khoan đã! Bay khá về triều tâu rằng ta có thể chữa được cho hoàng thái tử.

Lập tức vua cho đào đất cho đạo sĩ lên. Đạo sĩ cúi lạy vua và xin phép vào ngay hoàng cung xem bệnh hoàng thái tử. Y lời dặn của con rắn, đạo sĩ lấy gói thuốc của nó đưa mà đem rịt vào chỗ đau. Hoàng tử như tỉnh một giấc mơ, mở mắt dậy mà hỏi:

- Chao ôi, tôi ở đâu thế này?

- Hoàng tử! Hoàng tử đương sống ở trên dương thế đấy! Đạo sĩ đã chữa lành cho thái tử rồi. Thái tử cúi xuống lạy tạ kẻ tái sinh cho mình. Cả nước vui mừng bầy tiệc. Vua cảm động phán với đạo sĩ rằng:

- Ngay chiều nay, ta mời đạo sĩ vào trong cung dự yến. Và ta chia nửa giang sơn cho đạo sĩ. Vàng, bạc, châu, báu, đạo sĩ muốn lấy gì ta cũng đưa.

Đạo sĩ không lấy gì hết. Vàng, bạc, châu, báu mà có lắm chỉ đưa người ta đến sự buồn phiền mà thôi. Ngài chỉ xin với vua cho mình sự yên ổn về tinh thần để đi tìm đạo lý trên đỉnh núi. Vua ngạc nhiên rồi cảm động mà kết luận rằng:

- Bạch đại đức, đại đức không nhận nửa giang sơn và từ chối cả bạc vàng châu báu. Thế nghĩa là ngài không ham giàu. Vậy thì chắc chắn ngài không lấy hạt kim cương nọ. Có đứa đổ oan cho ngài. Ngài trong sạch, đứa nào đã làm cho ngài mang họa xin nói cho trẫm biết.

Đạo sĩ không thể giấu được nữa rồi. Ngài phải đem hết câu chuyện ra thuật lại. Vua thương lắm, ôm lấy đạo sĩ mà nước mắt chan hòa như mưa.

.......

Ngay lúc ấy, anh thợ săn xin vào bệ kiến để chờ lĩnh thưởng. Lĩnh thưởng việc bắt được người đã ăn cắp kim cương. Anh ta hớn hở chờ lịnh thánh.

Vua bèn bảo anh ta rằng:

- Người đã làm một việc tốt, rất vừa lòng trẫm. Ta sẽ hậu thưởng. Nhưng xét ra thưởng một mình người chưa đủ. Người khá về đem cả họ lại đây.

Anh thợ săn chạy bay về và dắt cả họ ba đời lại. Anh ta dắt thêm cả một cụ tứ đại đến đề chờ ơn mưa móc. Giữa lúc ấy, vua phán:

- Sự hung ác và lòng bạc bẽo là hai cái tội to lớn hơn hết ở trên đời. Người đã sa vào hai tội ấy. Quân! Đem tru di cả họ y!

Đến khi đạo sĩ biết cả họ anh thợ săn bị chết chém thì đã chậm không làm thế nào được nữa. Ngài xin phép ngay bấy giờ được thả để đi lên núi, không bao giờ còn trở lại đồng bằng nữa.

Những sự chém giết, hung ác, và bạc bẽo của người đời nhiều quá đã làm se lòng những kẻ thực yêu đời.

Đạo sĩ, trong một lúc, ngờ rằng người ta không còn phương cách gì để trừ được trong muôn một sự buồn khổ cho nhân loại.

Tiểu thuyết thứ bảy
Nguồn Net
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sat Jun 28, 2014 5:51 pm    Tiêu đề: Điếu Thuốc Lá
Tác Giả: Sưu Tầm

Điếu Thuốc Lá
Tác giả : Sưu Tầm

Chúng ta sẽ không có một câu chuyện "điếu thuốc lá". Các anh ở Pháp về sẽ thuật cho bạn nghe những chuyện đau đớn, khi túi đã cạn tiền, những phút cảm động, khi nhặt được mấy mẩu đầu thuốc lá trong khe tủ, dưới gầm bàn, trên ổ khóa. Những thi sĩ sẽ ca tụng cái thủa thần tiên ngồi ngắm khói thuốc lá giữa lúc câu thơ sắp hiện hình trong khối óc. Nhiều nhà văn sẽ kể lại cái giật mình khinh hoảng trong đêm khuya, khi chuông đồng hồ rè rè điểm hai tiếng, vội liếc nhìn đĩa gạt tàn thuốc lá đã cao có ngọn...
Nhưng chuyện của tôi đây sẽ không có những thú vị, những ủy khúc nên thơ như thế. Nó sẽ là xin nói ngay, một câu chuyện trẻ con, rất trẻ con.
Thời ấy, tôi mới độ chín mười tuổi.
Một hôm tôi đứng xem anh tôi và ông Cửu Thầy đánh cờ. Anh tôi hai tay ôm đầu, mắt đăm đăm nhìn xuống bàn cờ chừng để tìm gỡ một nước bí. Còn ông Cửu Thầy thì điềm tĩnh, không nghĩ ngợi, ngửng mặt như chú mục vào một người tưởng tượng, đương từ cửa đi vào. Sự thực, thì ông ta chẳng nhìn gì hết, vì một lẽ rất giản dị: ông ta mù.
Thỉnh thoảng cặp môi mỏng và thâm của ông ta lại bỏ rơi nụ cười hầu bất tuyệt để kéo một hơi thuốc lá, rồi khi điếu thuốc đã đặt y nguyên chỗ cũ trên thành bàn cờ sơn son, nụ cười lại trở về đậu lên cái miệng hé mở, tựa con chuồn chuồn trên mặt ao không bao giờ chịu rời hẳn bông hoa muống sau mỗi cái giật mình cất cánh bay đi.
Tôi đứng ngắm ông Cửu Thầy, và như bị cái dáng điệu, cái cử chỉ lạ lùng thôi miên, mắt tôi đưa từ đôi kính đen bóng, từ hàng răng đen láy, đến điếu thuốc lá với sợi khói xanh, từ từ xoáy trôn ốc cất lên.
Và tôi lấy làm thán phục ông ta, vì thấy ông ta không sờ soạng tìm như mọi người mù, nhưng rất tự nhiên cầm điếu thuốc đưa lên môi, như một người hoàn toàn có đủ ngũ quan. Nào phải ông ta lờ mờ trông thấy ngoại vật cho cam! Ông ta mù tịt, mù một trăm phần trăm. Mà điều ấy chính tôi đã nhận thấy rõ ràng, một hôm tôi đứng nhìn ông ta tháo kính uốn nắn lại đôi gọng đồng: hai con mắt ông ta cùng không có con ngươi và lõm hẳn vào, hai mép mi như khâu liền lại nhau. Người nhà tôi còn nói một lần đến cúng kỵ, vì thằng con ông ta bỏ chạy chơi không dẫn lối cho ông ta, ông ta đã lễ bốn lễ sang phía bên cạnh bàn thờ. Nhưng điều này tôi quyết không thể có, chẳng qua người ta chỉ bịa đặt ra để giảm giá ông Cửu Thầy, vì tôi tin chắc rằng ông ấy không làm sai lầm một việc gì, không đi sai lạc một con đường nào: con mắt tinh thần của ông còn sáng suốt hơn con mắt thịt của chúng ta nhiều.
Cái tài đoán trông mọi việc của ông, bọn người sống chung quanh tôi thường thêm thắt truyền tụng, đến nỗi đã in sâu vào khối óc thơ ấu của tôi cái ảo thuật lạ lùng của ông thầy bói lạ lùng ấy. Vì ông Cửu Thầy chính là một ông thầy bói, một ông thầy bói cao quý của quan trường. Thiên tiểu sử của ông mà người ta thuật đi thuật lại bằng một giọng bí mật càng làm tôn giá trị ông lên và đã khiến tôi đặt ông ngang hàng với những nhân vật kỳ dị trong những truyện Chinh đông, Chinh tây, hay Đông Chu liệt quốc mà ông thường kể cho anh em chúng tôi nghe bên khay đèn thuốc phiện sáng bóng.
Ông mù năm mười tám tuổi, sau một khoa thi mà ông không may bị loại ở kỳ phúc hạch. Từ đó ông đi chu du thiên hạ để đoán việc dở, hay cho người đời. Một hôm, ông đến chơi một ông tổng đốc lĩnh chức khâm sai đi dẹp loạn Đốc Tít, giữa lúc ông tổng đốc sắp sửa cất quân lên đường. Ông gieo một quẻ, đoán sẽ xảy ra sự bất trắc và quan quân sẽ mất đầu chết ở một quãng đồi Tây. Ông tổng đốc lo lắng, rụt rè không dám vội tiến binh, liền cho một đoàn thám tử mười người, cưỡi ngựa phi qua đồi Tây để xét tình hình hư thực. Quả nhiên bọn thám tử đều bị câu liêm bên địch dựt mất thủ cấp. Được tin, ông tổng đốc thở ra khoan khoái: ngài vừa thoát cái nạn làm con ma không đầu. Tức thì ông thầy được ngài ban cho hàm cửu phẩm và từ đó ông đã nghiễm nhiên có cái tên, ông "Cửu Thầy".
Một lần nữa - mà lần này chính tôi được mục kích - giữa một trận bão dữ dội, một trận bão đổ cửa đổ nhà, nhổ bật cây, uốn cong cột giây thép, ông đã dám một mình nằm ngủ một giấc ngon lành trong gian nhà học mảnh yếu của chúng tôi. Thấy cụ cử và anh em chúng tôi rời đi nơi khác, ông chỉ mỉm cười nói một câu bí mật: "Không hề gì đâu!" Quả không hề gì thật. Gian nhà học chênh vênh trên nền cao vẫn đứng vững sau trận bão.
o O o
Tôi tò mò đứng ngắm cái mặt bình tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, ngắm hai ngón tay diễm ảo rón rén cầm điếu thuốc lá nhẹ nhàng như hai ngón tay thiếu nữ cầm sợi chỉ xỏ trúng ngay cái lỗ trôn kim, và trí tôi âm thầm ôn lại những chuyện trên kia.
Bỗng nẩy ra trong óc tôi một ý kiến ngộ nghĩnh: tôi muốn giấu điếu thuốc lá đi xem ông Cửu Thầy có đoán biết không, hay vẫn cứ rón rén hai ngón tay để cầm một vật đã mất. Tôi mon men lại đứng sát bên giường, mắt dán vào điếu thuốc. Và tôi thò tay ra rồi lại rụt tay về, lòng phân vân, sợ hãi. Như có tiếng thì thào xui giục tôi: "Cứ thử xem nào!..." Nhưng tôi vẫn không dám liều.
Một lần tôi đã quả quyết, mạnh bạo đưa bàn tay ra. Nhưng, như đoán rõ ý tôi hai ngón tay ông Cửu Thầy đã tới đích trước, khiến tôi càng kinh ngạc...
Về sau, tôi cũng làm nổi cái việc dự định của tôi, cái việc nó ám ảnh tôi một cách mãnh liệt. Mà làm nổi là nhờ về một cuộc cãi lộn của hai kỳ thủ: Lúc ấy anh tôi khẽ nói với bên địch nước cờ vừa đi của mình. Tức thì, không ngần ngừ, hai ngón tay ông Cửu Thầy rón rén hạ xuống bàn cờ, như cái mỏ con gà mái thong thả hé ra, nghiêng nghiêng hạ xuống đất để đớp một cái mồi chắc chắn và béo bổ. Nhưng cái kìm tay cặp không khí. Tôi cho là ông thầy lầm chỗ và mỉm cười nhìn ông: cái mỉm cười bí mật của ông đáp lại liền. Còn đáp lại anh tôi thì ông thầy chỉ dùng lời nói:
- Thôi, xin hòa, vì con ngựa của tôi đã bị người ta... bắt trộm mất rồi, tôi còn đánh chác làm sao!
Anh tôi cãi lại:
- Ông nói lạ! Có phải ông ngờ tôi giấu quân mã của ông không?
- Không, cậu không giấu, cậu chỉ nhặt để ra giường thôi. Kia kìa, quân mã của tôi kia kìa!
Vừa nói, ông Cửu Thầy vừa giơ tay trỏ vào chỗ những quân cờ mà anh tôi đã chặt được, y như một người sáng mắt vậy. Lòng kính phục của tôi đối với ông thầy bói đã lên đến cực điểm. Và tôi càng quả quyết thi hành việc dự định của tôi. Nhân ông không lưu ý tới, vì đương tức tối với anh tôi, tôi cầm ngay điếu thuốc lá giấu đằng sau lưng. Liền lúc ấy hai ngón tay của ông lò cò rón rén hạ xuống bàn cờ. Tôi sợ hãi luống cuống, vội vàng lại đặt điếu thuốc vào chỗ cũ. Tôi vội vàng quá nên đặt ngược, đầu có lửa cháy quay vào phía trong.
Chừng mải cãi lý với anh tôi, ông Cửu Thầy không kịp đoán biết điều bất trắc, biến cố thình lình ấy. Nghiễm nhiên, không ngờ vực, ông cầm thuốc hút. Bỗng ông giật mình đánh rơi điếu thuốc xuống đất: ông vừa đưa đầu có lửa vào môi.
Nhưng cái mỉm cười của ông không vì thế, cũng như không vì việc mất trộm ngựa, mà héo rụng. Nó vẫn nở tươi như đóa hoa hàm tiếu ở trên cặp môi ông, tuy cặp môi ấy chắc chắn đã bị bỏng, vì tôi thấy thỉnh thoảng ông lại thè lưỡi ra yên lặng lia quanh một vòng.
Rồi trong khi anh tôi chịu thua bày lại quân cờ để đánh ván khác, ông thản nhiên móc túi lấy gói thuốc lá, đánh diêm châm một điếu khác mà vẫn như trước, mỗi lần kéo xong một hơi, ông đặt xuống thành bàn cờ, y nguyên chỗ cũ. Có điều ông cẩn thận hơn, trước khi hút, ông đưa ngón tay ra sờ qua xem đầu nào nóng.
o O o
Từ hôm ấy, luôn luôn ông Cửu Thầy nhìn tôi mỉm cười, cái mỉm cười lặng lẽ, bí mật, ghê sợ nữa. Tôi cố nhớ đến cái mù của ông mà cho rằng ông không nhìn tôi, không mỉm cười với tôi. Nhưng không sao được, tôi vẫn nhận thấy rõ rệt hai cái mắt kính đăm đăm thu lấy hình tôi. Hơn thế, cái nhìn đen còn theo đuổi tôi cả những lúc tôi đứng một mình, cả trong những giấc chiêm bao của tôi. Tôi yên trí chắc chắn rằng thế nào rồi ông Cửu Thầy cũng trả thù tôi một cách đích đáng. Mà một ông thầy bói cao tay lại lắm mưu nhiều kế như ông ta đã định trả thù ai thì thực chẳng biết đâu mà coi chừng, mà tránh thoát được.
Vì thế, tôi lo lắng, ăn mất ngon, ngủ mất yên, mong cho chóng tới ngày ông từ biệt nhà tôi để cùng thằng con cắp tráp theo hầu đi chu du thiên hạ. Nhưng, hình như không bao giờ ông ta đi, hay ngỏ ý muốn đi. Hay ông định ở lại cho kỳ báo được thù?
Tôi càng sợ hãi khi thấy ông ta phô diễn sự trả thù thằng con một cách quỷ quyệt lạ lùng. Ông ta mỉm cười gọi:
- Con ơi!
Rồi rất ngọt ngào:
- Con lại đây thầy bảo thầm điều này.
Thằng con vì biết mình có lỗi, rụt rè chưa dám vâng lời ngay. Nhưng về sau như bị đôi kính đen của cha thôi miên, nó mon men lại gần... lại gần... Ông Cửu Thầy vẫn mỉm cười, đợi. Bỗng nhanh như con bói cá chộp mồi, bàn tay trái ông bổ xuống nắm lấy cái chỏm tóc rối trong khi bàn tay phải tát luôn một chập đến gần chục cái rất mạnh rất kêu trên hai má thằng con khốn nạn...
Đoạn đâu lại hoàn đấy. Nụ cười tươi, bí mật, đôi kính đen vẫn lãnh đạm nhìn thẳng vào mắt tôi.
Tôi không ngờ vực gì nữa. Những cái tát kia là cốt để bảo cho tôi biết trước rằng sự trả thù của ông thầy bói sẽ ghê gớm đến bực nào...
Nhưng sáng hôm sau ông Cửu Thầy từ biệt ra đi.
o O o
Ngày nay thỉnh thoảng đãng trí cầm ngược điếu thuốc đưa gần môi, tôi lại nhớ tới câu chuyện thời còn nhỏ, và tôi mơ màng như nhìn thấy đôi kính đen và cái miệng cười say, sợi khói xanh từ từ xoáy trôn ốc cất lên
Sưu tầm.
Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Sun Jun 29, 2014 12:59 am    Tiêu đề:

Châu Long - Lê Minh Hà

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau…
(Tạ Hữu Yên)

Châu Long bước mãi. Bóng xiêu xiêu theo chiều nắng hắt. Cái thúng cắp bên hông, nhẹ tênh. Còn nhẹ hơn cả cái ngày nàng từ nơi ấy ra đi. Ngày ấy, nơi ấy, nàng đã lẳng lặng nghe lời chồng dặn, lẳng lặng đặt vào giữa mớ xống áo trong thúng mấy nén bạc lưng vốn ban đầu.

Châu Long bước mải. Gió ngược. Đôi vạt thắt quả găng luấn quấn bay. Càng gần tới nơi bước chân Châu Long càng chậm lại. Như kiệt lực. Dấn tới gốc đa đầu làng, Châu Long buông người, kéo cái thúng nhỏ sát vào mình, bỏ nón. Chiều muộn. Người làm đồng đã về hết cả rồi. Chỉ còn đôi bóng bò gặm nắng xa xa. Phía con sông đào xưa. Phía xưa nàng còn được ngày ngày tằm tang cùng mẹ và chiều chiều xuống sông gánh nước, cúi mặt soi bóng mình, biết phía cuối dòng trong đám trai làng đang hò hét ngụp lặn om sòm kia có một đôi mắt… những đôi mắt…

Có con bê nào gọi mẹ. Nghe rối cả lòng. Nước mắt nàng ứa ra. Châu Long điên dại nhìn trời. Chao ôi ! Mười năm khốn khổ ! Chao ôi ! Nàng sẽ nói gì đây với thầy mẹ khi trở về vào lúc nhập nhoạng này như một cái bóng tha hương ?


Châu Long đi từ lúc non trưa, sau khi đã ngồi lặng lẽ cả nửa buổi nghe ông lý cùng mấy vị quan viên bàn bạc cãi vã. Họ hỏi gì Châu Long cũng bằng lòng. Dựng rạp đãi đằng làng nước ? Nàng gật. Lên tỉnh rước Lưu Bình ? Nàng gật. Khi tất cả hỉ hả ra về, nàng thu vén xống áo bỏ vào thúng, cẩn thận kéo tấm rào rấp ngõ, rồi đi. Chồng nàng đã dặn nàng như thế ngày ấy. Mười năm có lẻ. Đến bây giờ.

Mười năm. Mười năm nàng thức khuya dậy sớm chạy chợ nuôi Lưu Bình đèn sách. Sau này, người đời sẽ thi vị hóa quãng thời gian trớ trêu ấy của đời nàng.

” Châu Long quay tơ.
Lưu Bình ngâm thơ.
Vườn sau chim giục giã.
Nhìn ra hoa vừa nở. “ (1)

Không phải vậy. Không có gì là thi vị trong cảnh những người đàn bà đâm dặm đâm dụi nuôi chồng. Không có gì là thi vị khi nàng gồng gánh ra đi từ tối đất mong mua may bán đắt. Không có gì là thi vị khi nàng bấm mười ngón chân tê dại trên những con đường sống trâu ngày mưa, đổi gánh trên vai. Không có gì là thi vị khi nàng đi như bị lôi về phía trước bởi đôi quang nặng trùng sát đất giữa trưa ngày xuân cạn. Ai biết được nàng nghĩ gì khi ấy ? Mà biết, liệu người đời sau này có kể không ?

Nàng đi sâu vào cái ngõ nhỏ kẹp giữa bờ rào ruối. Có mùi nước đọng. Mùi đất vườn dưới sương. Cả nhà đã xong bữa lúc nàng chạm tay vào dại cửa. ” Ô chị Phủ ! ” Đứa em gái buột miệng ngỡ ngàng. Châu Long về bất ngờ quá. Cung cách về cũng lạ lùng. Ông đồ đưa mắt cho vợ với đứa con gái út. Cái nhìn ấy làm Châu Long chua xót. Nàng không thuộc về thế giới này. Nàng thuộc về đâu ?

…Đứa em gái đã hạ cái nia kê đòn thái dâu cho tằm ăn đêm. Bà đồ ngồi nhai miếng vỏ quạch, nhặt thêm mảnh cau khô bỏ miệng, thở dài. Bà thuộc tính chồng, không dám gặng gì con. Châu Long run run : ” Nhà con dặn về ngay khi được tin mừng… Tiện đường con tạt về thăm thầy mẹ. Vài hôm rồi con xin phép thầy mẹ con về…” ” Về đâu ? ” ” Về đâu ? “. Người mẹ không thể nào biết được tiếng gào đau khổ ấy trong lòng đứa con. Xuất giá tòng phu. Nàng sẽ về lại với Dương Lễ, ông quan huyện năm xưa đã từng làm bà hết sức đẹp lòng về món tiền cheo nộp làng lúc xin đón Châu Long. Bà hiểu thế và mừng cho con, biết phận rồi sẽ qua những ngày vất vả. Tình thương con của những người mẹ bao giờ cũng đơn giản thế.

Người cha nhìn đứa con mới về, đau thắt cả lòng. Nó đấy, đứa con gái mỏng mày hay hạt nhất làng. Ông đã bao lần ngồi trên bộ phản này nhìn ra ngõ nơi nó tha thẩn trông em và chốc chốc chạy ra chạy vào xua đàn gà lười kiếm ăn xa chỉ chực bới tanh bành bếp núc. Ông đã bao lần bần thần trong niềm tiên cảm về số kiếp khốn khổ của đứa con này. Lông mày dài. Đôi mắt mới tí tuổi đầu đã có cái nhìn xa vắng. Cánh mũi thanh. Môi mong mỏng hồng hồng. Cái cổ cao. Có cái gì quá mong manh ở nó, một đứa con gái nhà quê.

Khi Dương Lễ cho người đem giầu cau đến hỏi Châu Long, ông đã ngần ngừ rồi gật. Ừ thì con ông làm thiếp, nhưng dù thế thì có lẽ vẫn tốt hơn cho nó. Ông biết dáng dấp tính tình con ông có cái gì đó lệch nhịp đời thường những người đàn bà nơi vườn ruộng. Chịu phận thiệt thòi này để được yên ổn về sau. Đâu có ngờ…

…Một bận ông đồ khoác tay nải đi thăm bạn cũ, sững sờ thấy con gái dọc đường về chợ. Sau đó, bao lần ông kiếm cớ đi chơi, đứng nép ở một cái lều chợ từ xa nhìn con gái tíu tít giữa một lô thúng mủng bán bán mua mua, mà mắt vẫn nguyên cái nhìn xa vắng. Đã bao lần ông đứng sững giữa đường… Cặp thúng chồng đôi trĩu hai đầu quang lắc theo mỗi bước Châu Long, lôi giật con ông nhao về phía trước. Ông không thể giáp mặt con. Ông không thể giúp gì nàng. Con ông đã làm đúng chữ “tòng phụ tòng phu ” ông dạy. Bây giờ, Châu Long ngồi trước mặt ông. Ông cảm được cái nhìn cầu khẩn của con, dù nàng khuất mình trong vùng bóng tối, nhẹ lời :

- Con về chơi thế này thầy mừng lắm. Giờ thì thu xếp đi nằm sớm cho đỡ mệt. Đêm em nó còn phải dậy cho tằm ăn.


Đứa em gái mừng có chị về, nhưng chả biết nói gì. Ngày Châu Long về nhà chồng, nó còn bé tí. Giờ Châu Long hỏi gì nó trả lời câu đó, rồi cười. Nó sẽ cười được đến bao giờ ?

Châu Long không tài nào ngủ được. Hơi ấm từ tấm thân con gái mười sáu tuổi của đứa em làm nàng rưng rưng ngột ngạt. Lâu lắm rồi nàng không nằm chung với ai. Châu Long rón rén ngồi dậy, lại bàn nước của cha khêu ngọn bấc lụi rồi bước nhẹ về phía buồng tằm. Nàng vén tấm mành mành. Từ những nong tằm đặt trên giá nổi dần lên tiếng gì rất khẽ. Tằm thức. Châu Long kéo cái thúng đại đựng đầy lá dâu đã thái, rắc đều. Tằm này sắp lên né được rồi. Đời tằm… Cũng hệt đời nàng… Rút ruột…

Tiếng chó sủa sương vọng lại từ đầu ngõ, cấm cảu, khan khan. Châu Long sực tỉnh. Đĩa dầu lụi bấc từ bao giờ chỉ còn như hạt đỗ chập chờn. Nàng đã ngồi trong buồng tằm lâu lắm rồi. Cữ này chắc làng nước đã cờ quạt võng lọng rậm rịch. Cữ này chắc ông lý đã dẫn quan viên tới nhà xin rước nàng lên võng đi đón Lưu Bình. Phải, dân làng ai cũng biết Lưu Bình đã mười năm ăn ở với nàng. Chắc tất cả đang ngỡ ngàng trước tấm rào rấp ngõ.

Chắc chàng Lưu cũng sẽ như người đứng trên tổ kiến khi không thấy người vợ tấm mẳn trong đám võng lọng đón đưa. Ôi Lưu Bình ! Người đàn ông nàng đã chăm bẵm suốt mười năm như chăm chồng. Người đàn ông đã răm rắp nghe lời nàng hẹn ” Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng ” (2). Người đàn ông mà nàng đã đêm đêm cố thức xay giã giần sàng để giục thầm chàng đừng buông sách. Nàng sẽ nói gì với người đàn ông ấy, với chàng Lưu khi gặp lại nhau ? Chữ nghĩa là cái gì mà có thể giữ tay chàng bao nhiêu đêm chỉ vịn vào khung cửa buồng nàng rồi dừng ở đó. Là cái gì mà nó có thể trói chàng trên ghế lúc nàng dội nước ùm ùm ngoài giếng, dưới ánh trăng rười rượi, mong dập đi hơi nóng hừng hực bồn chồn thiêu đốt thân nàng. Chữ nghĩa là cái gì mà buộc nàng phải ngần ấy năm cơ cực ? Là cái gì mà có thể làm Dương Lễ xa nàng dễ dàng đến thế ?

Nhưng Dương Lễ có phải là chồng nàng ? Chàng đã cưới nàng về làm thiếp. Làm thiếp nghĩa là không phải làm vợ. Chỉ để chàng say mê ? Nàng không có sức vóc của người vợ thứ của chàng. Nàng không có cái đoan chính sắc sảo của người vợ đầu của chàng. Nàng có nét gì từa tựa một loài lan quý. Chàng đã nói thế với nàng. Nhưng chàng không giữ nàng lại để chăm chút cho nàng như thường ngày chăm chút vườn lan. Chàng đã cậy nàng đến với Lưu Bình. Nàng là một thứ phương tiện đẹp và sẵn để chàng bày tỏ tình bạn với đời. Ôi Dương Lễ !

…Người ta sẽ kể về tình bạn cao cả của chàng và về tình chồng vợ thánh thiện giữa chàng và nàng. Liệu có ai biết rằng niềm tự hào vì được chồng tin cậy đến nhường ấy nàng đã để mất rất nhanh sau đó. Thay vào đó là nỗi ngờ vực đắng cay, là phẫn nộ. Ôi những người đàn ông ! Người đời ! Tại sao họ lại phải tự khẳng định mình bằng nỗi đau của người khác. Chàng Dương Lễ là một bến nhiều thuyền. Nhưng nàng, nàng chỉ một thuyền một bến. Nàng chỉ có một chàng. Tại sao chàng không giúp Lưu Bình một cách bình thường. Không có con đường giản dị nào để cho cảm thông và yêu thương có thể từ tấm lòng này tới với một tấm lòng khác hay sao ? Tại sao chàng phải nghĩ ra cái việc sỉ nhục Lưu Bình trước khi chìa bàn tay đỡ bạn. Không, chàng cũng không phải chìa tay. Chàng chỉ đơn giản đẩy nàng ra. Tại sao chàng nỡ đặt lên đôi vai mảnh của nàng cái nghĩa vụ nhọc nhằn đến thế, nghĩa vụ của tình chồng vợ, bạn bè, nghĩa vụ phải trở thành huyền thoại cho những kẻ rỗi việc thích trầm tư và đúc kết các bài học ứng nhân xử thế.


…Người đời sau sẽ kể rằng nàng thức đêm thức hôm xay giã giần sàng chuẩn bị hàng họ đi chợ sớm để nuôi Lưu Bình. Ngần ấy năm ròng. Để thúc giục chàng Lưu kiên tâm đèn sách sớm khuya. Có thật. Nhưng người ta sẽ không kể rằng nàng đi nằm muộn chẳng qua còn để trốn những giấc mơ đàn bà. Những giấc mơ ấy hành hạ nàng, làm nàng khủng khiếp khi nghĩ về mình. Trong mơ nàng đã quằn quại giữa vòng tay Dương Lễ, giữa vòng tay Lưu Bình, hệt như cái cảnh nàng đã thấy vào một chiều xa xưa đi hái dâu, hồi còn con gái, còn được ở nhà cha mẹ. ” Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không ” (3). Biết bao đêm giật mình tỉnh giấc, nghe trống ngực đập muốn vỡ cả màng tang, nàng đã nhận ra mình ơ thờ với mọi sự, mọi giác quan chỉ chú mục vào tiếng trở mình của người đàn ông đang nằm ở gian ngoài. Giá chàng cứ đẩy cửa buồng nàng… Giá chàng trằn trọc nhiều hơn… Thì có lẽ… Thì nàng đã tung hê tất cả.

Nàng đã thổi xôi luộc gà mang lên đình cầu khấn cho chàng thi đỗ, cho nàng có ngày được buông gánh đời mà sống tiếp những ngày tháng cũ. Nàng đã tìm thuê người đỡ gánh cho chàng trên đường ứng thí, đã dốc tất cả lưng vốn đời mình ký cược vào chàng. Và chàng đã đỗ kỳ này. Kỳ này, nàng sẽ được trở về làm vợ lại. Kỳ này, chàng sẽ áo mũ xênh xang đến thăm Dương Lễ trả hận bát cơm cà muối khi xưa. Cái hận bị người sỉ nhục có thể tan. Nhưng lúc đó, chàng sẽ phải biết tới một nỗi hận khác, hận chịu ơn người. Hận ấy, liệu có khi nào chàng trả nổi ? Ôi Lưu Bình ! Ôi Dương Lễ ! Tại sao các người phải hành hạ mình hành hạ nhau để bày tỏ bản thân với người đời ? Tại sao phải sỉ nhục nhau để làm cái việc hoàn toàn vô nghĩa là tăng giá sự hy sinh ? Tại sao phải chờ người sỉ nhục mới cố công vượt lên mình để tự mở mày mở mặt. Người đời sau sẽ kể chuyện này với biết bao khâm phục và ngưỡng mộ. Nhưng ích gì ? Những huyền thoại có ích gì ?

Ngoài trời sương rụt rè tan. Ông đồ đánh tiếng với con bằng tiếng ho thúng thắng. Châu Long hạ tấm mành mành che buồng tằm, bước ra sân. Mùi buồng tằm ngai ngái khai khai tan loãng vào trong hơi đất vườn ban sớm, hơi rơm ẩm còn chưa đánh đống ở đầu hồi. ” Giờ này chắc người ta đã sắp lên tới tỉnh rồi “. Như thế chỉ trưa nay chàng Lưu Bình sẽ biết chuyện vợ bỏ nhà đi. Ngày mai thì Dương Lễ sẽ biết. ” Ta còn có thể ở lại nhà thầy mẹ đến bao giờ ? “. Những tính đếm tỉnh táo làm lòng Châu Long tê dại.


Liền mấy chiều oi ả. Bà đồ kêu đau đầu không cất mình dậy nổi. Đứa em gái còn ở ngoài bãi hái dâu. Châu Long bần thần dừng bước trước cửa buồng mẹ… Nàng chẳng bụng dạ nào giáp mặt ai vào lúc này. Làng xóm đã loáng thoáng đồn thổi chuyện cô Châu Long con ông bà đồ về âm thầm như bị chồng đuổi. Bạn gái ngày xưa con bồng con dắt, chẳng thấy ai đến thăm nàng. Đã hẳn. Khi nàng chưa tới thăm ai. Dù gì thì với họ nàng vẫn đang là ” chị Phủ “. Ôi chao là cái nông nỗi của kẻ được người tưởng hơn người.

Tiếng cái giường tre bà đồ nằm cọt kẹt khiến Châu Long không thể chần chừ. Nàng với cái nón ngần ngại bước ra sân định đi tìm hái nắm lá cúc tần về sao vàng cho mẹ bóp trán. Thì vừa lúc từ đầu ngõ ruối đưa vào râm ran tiếng thưa tiếng dạ. Châu Long bước giật vào buồng. Ông đồ tay cầm cái xe điếu nhìn ra nắng, sẽ giọng với con : ” Anh Phủ Dương Lễ. Ai như… Kìa… Quan Hoàng giáp Lưu Bình.”

…Hai người đàn ông áo mũ chỉnh tề tiến vào đứng chắp tay bên cửa. Dương Lễ cung kính và rành mạch : ” Con xin thầy mẹ đến đón nàng Châu Long trở lại nhà.” Ông đồ cúi nhìn cái điếu bát, khó nhọc gật đầu. Phải ! Nơi đấy mới là nhà của con ông.

Châu Long bước ra, trang nghiêm và xa vắng. Hai người đàn ông chợt hoang mang. Lưu Bình vừa từ oi ả vào mà mặt tái. Lần đầu tiên Châu Long nhìn thẳng vào mắt Dương Lễ. ” đây là chàng “. Lần đầu tiên Châu Long nhìn thẳng vào mắt Lưu Bình. ” Đây là chàng “. Có đáng gì không ? Mười năm sống ấy ? Ôi những người đàn ông ! Nàng đã làm cho họ nổi tiếng với muôn đời ở đất nước này. Nhưng tình bạn kỳ quặc của họ cũng làm nàng nổi tiếng. Châu Long biết rằng cái gánh đời đã nâng lên vai sẽ không bao giờ nàng có thể buông. Nàng sẽ phải gồng vai gánh tiếp cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Bởi vì người đời muốn thế. Nàng biết nàng đã trở thành một biểu tượng. Không cần trầm mình. Không cần hóa đá. Mười năm trớ trêu của đời nàng sẽ trở thành huyền thoại để người đời kể sau này.


Vào cái lúc cúi chào cha mẹ rồi lặng lẽ đi qua hai người đàn ông bước ra sân nắng để lại ra đi, thật thì lòng Châu Long lúc đó hoàn toàn trống rỗng. Nàng không ý thức được rằng với những kẻ buộc phải trở thành biểu tượng huyền thoại kể về mình chỉ là một niềm an ủi vô cùng bé nhỏ, tràn đầy đau đớn.

Bởi vì không ai ân ái với một biểu tượng.

Đêm đầu tiên sau mười năm có lẻ cách xa, Dương Lễ đã hết sức thất vọng về nàng. Nỗi thất vọng nhanh chóng trở thành mối ngờ vực dai dẳng. Ngờ vực tàn phá chàng, đến nỗi chàng không nhận ra niềm căm giận ở Lưu Bình không hề mất đi mà còn được chàng Lưu gia cố bằng tất cả những bẽ bàng của một mối tình chua chát. Dương Lễ cũng không hề nhận ra nỗi tuyệt vọng cay đắng ở Châu Long. ” Ê chề đời thoảng vị cơm ôi ” (4). Nhưng chính nàng, Châu Long, nàng cũng không gọi tên được cảm giác của mình, mà cũng không còn muốn biết rằng cái ê chề đấy cũng đầy ứ trong lòng hai người đàn ông đã đi qua đời nàng.

Tuy nhiên, vào lúc đó, người đời đã bắt đầu kể về tình bạn tuyệt vời giữa hai chàng. Và vì không dễ gì được người đời buông tiếng nên cả Dương Lễ lẫn Lưu Bình đều không ai đả động đến những chán chường tuyệt vọng hay phẫn nộ của mình. Lưu Bình được bổ về một huyện thuộc quyền trị nhậm của Dương Lễ. Hai người đàn ông thường gặp nhau, tương ái và tương kính đúng như người đời chầu chực để kể tiếp huyền thoại về họ.

Chỉ có điều Dương Lễ thôi không mê mệt lan quý như xưa nữa. Nếu không có Châu Long để mắt vườn lan của chàng chắc đã chết hết. Ngày ngày Châu Long vào ra vườn lan. Ai cũng yêu quý nàng, kể cả hai người vợ cùng nàng chia sẻ một tấm chồng chung. Ở nàng đã dần dần hiện rõ cái vẻ heo héo thường có ở những người đàn bà không chồng hay tuyệt đường sinh nở. Nhưng nàng lúc nào cũng tươi cười, lặng lẽ, dịu dàng. Dáng dấp của nàng làm ai thoạt gặp cũng thấy lòng không dưng mà tái tê.

Huyền thoại không kể rằng Lưu Bình ít lâu sau đó cưới hai chị em con gái một nhà phú hộ. Hai người vợ của chàng Lưu người nào cũng đảm và đều sinh cho chàng mấy mặt con. Huyền thoại cũng không kể rằng sau đêm đoàn viên Dương Lễ không bao giờ bước chân vào buồng Châu Long nữa.

Nhưng đó là sự thật.

(Sưu tầm)

Về Đầu Trang
nhungocnguyen



Ngày tham gia: 22 Nov 2011
Số bài: 890

Bài gửiGửi: Tue Jul 29, 2014 10:16 pm    Tiêu đề: Lòng Tử Tế

Ăn cơm chưa
Tập Truyện Ký Thác Bình Nguyên Lộc


Bà sơ rút nhiệt kế ra khỏi nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ ngạc nhiên như không tin ở điều mà bà đọc thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc lại một lần nữa.

Tôi đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm cho tôi hốt hoảng đến cực điểm.

Tôi mắc chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng kiến sự bối rối của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ, tôi chết đến nơi.

Nhưng gương mặt tươi của bác sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi an lòng lại ngay. Giờ ấy còn sớm quá, bác sĩ, chắc mới đến nhà thương, chưa kịp mặc áo choàng, còn vận thường phục.

Bà sơ theo sau nói:

-     Hắn không còn nhiệt độ nữa, chắc hắn phải lạnh lắm, vì sự thay đổi đột ngột nầy, tôi cho hắn uống Potion de Todd, bác sĩ nhé!
-     Phải đấy.

Đoạn bác sĩ hỏi tôi:

-     Ông nghe thế nào?
-     Như vừa tái sanh, thưa bác sĩ.

-     Tốt! Mới nghe, tôi hoảng lắm,vì nhiệt độ xuống thình lình, có thể là triệu chứng của sự chảy máu ruột… nếu ông lén ăn gì.

Tôi cười, một cái cười héo hon của con người sốt liên miên hăm tám ngày, mà không ăn uống gì cả trong thời gian đó. Bác sĩ dặn thêm, trước khi rời buồng tôi:

-     Vài hôm nữa là thèm ăn, nhưng phải nhịn, ăn là lủng ruột ngay. Ngoan lên nhé!
Quên nói rõ, là tôi mắc bịnh nầy trước chiến tranh, vào thuở mà loài người chưa tìm ra thuốc trị thương hàn. Nhà thương cứ để vậy, tiêm thuốc nâng đỡ cho trái tim khỏi lụy, rồi ai kháng chết được, thì sống, ai yếu lắm, là đi.

Như vừa được tái sanh! Tôi nói không quá lố lắm đâu. Vi trùng thương hàn phá rối sinh lý con người một cách kỳ lạ lắm. Tôi nghe yêu đời ghê hồn và dòm ra sân nhà thương tỉnh Bình Dương (bấy giờ là Thủ Dầu Một), tôi thấy khóm bông gừa, thứ bông hèn ấy, sao mà hôm nay lại đẹp lạ lùng.

Trưa hôm đó, bác sĩ Chaput khoe với tôi rằng, ở trại bố thí III, một con đồng bịnh với tôi cũng vừa khỏi. Ông ta sung sướng về chuyện ấy lắm,vì con bịnh các trại bố thí chết nhiều quá, khiến dân chúng hiểu lầm, nhà thương bỏ bê người nghèo khó. Sự thật, thì sở dĩ, số tử ở đó lên cao theo tỷ lệ, vì các con bịnh nghèo, thường để thật nguy kịch mới vào nhà thương và khi vào điều trị, không có người nhà theo để săn sóc, nhà thương chỉ vừa đủ người lo thuốc men thôi. Còn những sự săn sóc (rất cần) phải được người nhà lo lấy mới mong lành bịnh.

Tôi yêu đời, và cố nhiên, yêu kẻ đồng bịnh vừa khỏi cùng một lượt với tôi. Ba hôm sau, được nuôi dưỡng bằng nước xúp và bột Ý, tôi đã chống gậy đi được, và mục tiêu phiếm du đầu tiên của tôi là trại III.

Kẻ đồng bịnh với tôi là một cô gái Trung Hoa, hai mươi tuổi, con gái đang thì, cái ngực tất phải to, thế mà tôi trông cô ta xẹp lép như con khô hố. Cái mền cô ta đắp, như dán sát vào chiếu nhà thương.

Người bạn đồng bịnh với tôi, đi không được như tôi. Trong cơn nóng sốt không ăn, người nhà tôi có mua Sérum Glucosé cho bác sĩ bơm vào tôi, nhờ thế mà tôi không suy lắm. Con bịnh nghèo nầy, thì khỏi hưởng món xa xí phẩm ấy, mà nhà thương không sắm được, vì kém tài chánh.

Tuy nhiên, nhìn sơ cô gái, tôi cũng thấy là cô ta đẹp lắm. Hoa tàn kia mà còn mang dấu vết thời tươi thắm thay, huống chi đây chỉ là một đóa hoa thiếu nước lọ trong chốc lát thôi… Cứ theo người cùng trại với Á Lìl, thì cô ta là một đứa bé “mua”. Chú Xừng Hinh, chủ tiệm chạp phô ngoài chợ, năm xưa về thăm quê quán bên Tàu, gặp mùa lụt lội, đói kém, đã mua đứa bé ấy ba mươi đồng bạc. Bạc Trung Hoa với bạc Đông Dương thuở ấy tương đương giá với nhau, thì các bạn biết, con bé ấy rẻ là dường nào.

Chú Xứng Hinh cũng khá, xem Á Lìl như con chú, chớ nhiều thằng khác, nó nuôi những con bé “nước lụt” ấy cho đến thời trổ mã, bắt làm lụng cho bù với số tiền mua, rồi lại hưởng luôn là khác.

Như chủ nó, Á Lìl là người Triều Châu. Phụ nữ Triều Châu để rìa tóc phủ lên trán, xem rất ngây thơ và có duyên. Họ lại đẹp người hơn tất cả các thứ người Trung Hoa khác. Á Lìl lại là gái dung nhan có hạng trong thứ người đẹp nầy, nên tình thương kẻ đồng bịnh của tôi, bỗng nhiên, tăng lên gấp bội, vì tôi mới có hăm ba tuổi.

Nếu như ở ngoài, chắc không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện yêu một ả nô tỳ, cho dẫu là nó đang đẹp lộng lẫy. Nhưng ở đây, nó là con bịnh, đồng hạng với tất cả con bịnh khác.

Một ngày, tôi chống gậy xuống trại III đến hai lần, lần nào tới nơi, tôi cũng đứng lại nơi cửa trại, để thở dốc một hơi, rồi mới vào được.

Á Lìl đoán biết tình cảm của tôi đối với nó, nên lần nào, mắt nó cũng sáng lên, khi nghe tiếng gậy của tôi nện cồm cộp trên gạch.

Từ năm lên chín, mãi đến bây giờ, nghĩa là từ năm bị bán và đưa sang nước “An Nam”, con nô tỳ nầy chưa được ai nói ngọt với nó lời nào cả. Bây giờ, bỗng nhiên có một dân mặc bi-da-ma riêng, lân la thăm hỏi nó, thì làm sao nó không rưng rưng lệ sung sướng được.

Mặc dầu chỉ được uống nước cháo với đường hạ, con ở Á Lìl cứ càng ngày càng hồng hào ra. Con gái, dường như, có dự trữ trong người những sức mạnh gì như cứ chực vùng lên, không cần ăn gì cho bổ lắm, họ cũng cứ béo tốt ra.

Má Á Lìl cạn dần lên, trông ngon như hai trái đào ở bảy phủ Triều Châu mà Á Lìl thường ca tụng với tôi.

Trông Á Lìl, tôi nghĩ ngay đến những phi tần bên Tàu ngày xưa, cũng tuyển lựa trong đám dân “nước lụt” như vầy. Thì ra, con gái Trung Hoa, ngàn đời, vẫn đẹp và vẫn để mà tiếp tế cho các cung tần. Á Lìl sẽ làm bé chú chệt già đại phú nào đây, một ngày kia.

Hôm ấy, Á Lìl ngồi dậy được, nhưng còn phải ăn cháo hoa với hàm-yũu. Cháo với vị mặn giúp Á Lìl tươi tỉnh hẳn ra. Nó tiếp tôi bằng một bài hát gì đó, tôi không hiểu, nhưng rất thích nghe. Cái giọng mũi của người Triều Châu, khi hát lên, nghe líu lo rất dễ yêu, nhứt là dễ thương, nghe như là họ khóc cảnh sống lầm than của họ.

Á Lìl cắt nghĩa cho tôi biết rằng, bài hát ấy nói đến cái mặt trăng nho nhỏ và tròn tròn. Nó mới giải thích tới đó, thì người nhà chú Xừng Hinh mang cho nó một gàu-mên cơm. Mắt con Lìl sáng hơn là khi tôi mới vào thăm nó nữa. Tôi hỏi:

-     Nhà đem cơm từ bao lâu rồi?

-     Ngóa thèm quá, chỉ mới nhắn đem vô lần đầu thôi.

-     Lìl không nên ăn cơm vội. Bác sĩ không có dặn gì sao?

-     Bác sĩ nói tiếng Tây, ngóa đâu có hiểu. Bà Sơ biết chút ít tiếng Annam, dặn đừng cho ăn đồ cứng, ăn thì lủng ruột chết liền.

Á Lìl nói xong cười ngặt nghẹo, một hơi, rồi tiếp:

-     Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.
-     Lìl không hiểu, chớ ruột Lìl đã bị vi trùng làm cho mỏng lắm rồi đó.

Á Lìl lại cười một giây nữa, mà rằng:

-     Bị thuốc của thằng Tây làm cho mỏng thì có. Thầy biết sao không? Hổm nay ông Tây chích cho ngóa chết mà ngóa không chết, nên ổng bỏ đói cho ngóa chết đó.
Á Lìl nói rồi vừa kéo gàu-mên cơm lại, vừa nói:

-     Ăn cơn với ngừng (gừng) nấu dấm thì tốt lắm, như người Annam ăn với muối tiêu vậy mà, chết sao được.
Tôi bối rối quá. Hôm ấy có Má Mẹ, người cai quản các bà Sơ, từ Sàigòn lên Bình Dương thanh tra, nên bà Louise bận tiếp đón bà Mẹ Bề Trên ấy, không còn ai cho tôi cầu cứu để thuyết lý Á Lìl. Các thầy khán hộ thì đã dặn con bịnh cữ kiêng xong là nghe tròn bổn phận, không theo dõi họ để ngăn cản gì nữa. Còn tôi, tôi ngại một điều, mà cũng chẳng khỏi.

Khi tôi giựt lấy gàu-mêm cơm, thì Á Lìl giận dỗi trách:

-     Cố lứ nói thương ngóa, sao không cho ngóa ăn cơm?

-     Vì thương mới không cho ăn.

Thật thế. Nếu Á Lìl chỉ là một cô gái xấu xí, tôi cũng không nỡ để cho nó tự tử một cách gián tiếp như vậy. Huống chi trong mấy ngày vui mừng tái sanh ấy, tôi lại điên dại mà yêu đứa nô tỳ nầy.

Lìl cười gằn hỏi:

-     Thương gì lại bỏ đói?
-     Vì ăn thì chết ngay.

-     Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ có không ăn cơm mới chết thôi.

Á Lìl lập lại câu hồi nãy, rồi khóc mùi mẫn.

Thật là em nhỏ, mất miếng ăn một cái là khóc bù lu, bù loa. Nhưng không sao, tôi sẽ dỗ em nhỏ, thì em nhỏ nín chớ gì.

Tôi định bụng như thế, nhưng tôi lầm.

Lần đầu tiên, tôi rờ đến Á Lìl. Tôi vuốt tóc trán nó và nói rằng:

-     Lìl nín đi, rán nhịn, rồi vài bữa khỏi hẳn, tôi sẽ đưa Lìl đi ăn tửu lâu Triều Châu Đại La Thiên ở Chợ Lớn, có nhiều món ngon bằng một vạn thứ cơm gừng dấm nầy. Ở Đại La Thiên có chè thịt heo nè, có cù lao nè.
Nhưng Á Lìl cứ khóc, khóc như mẹ chết không bằng, lâu lắm nó mới nói được trong tấm tức, tấm tưởi:

-     Ngóa nhớ tía má của ngóa quá. Tía má ngóa vì không có cơm ăn nên chết. Tía ngóa chết đi được một tháng, thì má ngóa bán ngóa cho Xừng Hinh lấy tiền mua gạo cho mấy em của ngóa ăn. Nhưng cả nhà ăn giỏi lắm được mười ngày, chắc rồi cũng chết hết. Cơm sao lại giết người? Không cơm mới nguy chớ!
Nghe Á Lìl nhắc tới nguồn gốc nó, tôi đau xót vô cùng. Cơm là giấc ác mộng của người Trung Hoa từ mấy ngàn thế hệ nay, cho đến đỗi họ gặp nhau, chào nhau bằng câu: “Ăn cơm chưa?”

Nhưng làm thế nào cho con bé dại dột nầy hiểu rằng, không cơm thì chết đã đành, mà có cơm, lắm khi cũng chết.

Vả, Á Lìl không cả quyết ăn vì thèm nữa, mà ăn để trả thù sự chết đói của cả nhà nó, thì làm sao mà thuyết phục nó được. Có lẽ nó đang nhìn cơm, mà nói thầm: “Ừ, ngày xưa, cha mẹ tao không có mầy nên chết, bây giờ gặp mầy đây, tao có dung tha đâu! Tao ăn cho sống dai, mặc kệ lũ nó bày điều, đặt chuyện”.

Biết nói làm sao cũng không xong, tôi xách gàu-mên mà đi; sau lưng tôi, Á Lìl chửi rủa om sòm bằng tiếng Tàu. Nếu nó mà rượt theo được, chắc nó một mất, một còn với tôi, để cướp cơm lại.

Chiều hôm ấy, tôi trốn luôn, đến sáng ngày hôm sau mới dám chống gậy qua trại III.

Á Lìl vắng mặt trên giường. Thấy tôi ngơ ngác tìm quanh, một bà lão vừa ho sù sụ, vừa nói:

-     Nó chết đêm rồi thầy à, hồi năm giờ sáng, người ta đã khiêng nó xuống nhà xác.

-     Trời ơi! Sao lại chết? Tôi giậm chân mà hỏi câu ngớ ngẩn ấy.

Người khán hộ ở đâu sau lưng tôi đáp hộ bà lão:

-     Chảy máu ruột!

-     Sao lại chảy máu ruột?

-     Vì ăn!

-     Trời ơi!

Bà lão ho, rồi lại nói:

-     Thầy giựt cơm của nó mà trốn đi, thì chiều lại, người nhà nó đem cơm vô nữa. Nó ăn xong, tối lại kêu đau bụng, vằn vật tới khuya mới chết.

-     Sao bà không mời bác sĩ dùm nó?

-     Có, tôi có cho bà Sơ hay, bả có kêu thầy đây.

Bà chỉ vào thầy khán hộ, thầy ta lắc đầu thở ra và giải thích:

-     Tôi có tiêm thuốc cho nó, nhưng không gọi bác sĩ...

-     Sao vậy?

-     Vô ích. Chỉ có sang máu mới có một chút xíu hy vọng cứu nó. Nhưng ai sẽ cho máu nó? Còn thuê người để lấy máu[1] thì tiền đâu?

Là con trai, tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi dưới gió to. Đứng tần ngần giây lâu, tôi hỏi bà lão:

-     Nó có nói gì hay không bà, lúc nó hấp hối?

-     Có. Nó có kêu thầy...

-     Kêu tôi? Có nhắn gì hay không ?

Nó kêu khóc rằng: “Thầy hai ơi, té ra, quả thật không cơm cũng chết, mà ăn cơm cũng chết. Ngóa nghèo dốt, biết đâu. Trước kia tía má của ngóa nghèo nên không ăn cơm, ngày nay ngóa nghèo nên không biết, hai lần đều chết. Thầy hai ơi, ở lại mạnh giỏi nhá!”

Tôi không còn là con trai nữa, nhưng tôi không khóc tiếc thương một cô gái đẹp. Tôi chỉ khóc vì một gia đình sống không tên, không tuổi bị thảm kịch cơm làm tuyệt nòi, chỉ còn một mống thôi. Mống ấy trôi dạt đi xa ngàn dặm, qua cái xứ có cơm nhiều nầy, mà lại cũng không thoát khỏi thảm kịch cơm.

Ngày nay, mỗi khi nghe một người Trung Hoa chào ai: “Ăn cơn chưa?”, tôi bâng khuâng nhớ lại mối tình yêu đầu và nao nao buồn mối tình thương đầu của tôi.

[1]  thuở đó chưa có ngân hàng máu

(Sưu tầm)
                                                   
                                                    xxxxxxxxxx

Ba Sao Giữa Trời
Bình Nguyên Lộc


Bữa trưa nào xuống trạm ô-tô-buýt ở xóm Máy Đá, tôi[1] cũng thấy anh Hùng đứng sẵn bên bờ cỏ mà đợi tôi. Trời nắng chang chang, vậy mà hễ thấy dạng tôi, là mặt anh sung sướng và tươi như nhìn thấy trăng lên.

Nếu tôi không kể rõ những điều sau đây, thì khó hiểu sự si mê tôi của anh Hùng lắm.

Chúng tôi cùng học trường thuốc, và thường ngày vào xóm Máy Đá là nơi có viện cơ thể học, để mổ thây ma, những xác người vô chủ.

Tôi học năm thứ nhì, còn Hùng thì mới qua khỏi năm chuẩn bị và kể như là đi vào học năm đầu.

Trong kỳ đệ nhất tam cá nguyệt của năm đầu ấy, sinh viên, tuy chưa được mổ xẻ gì cả, nhưng được đưa vào buồng xác để xem mấy anh lớn làm nghề “đồ tể”, xin lỗi, danh từ nầy tôi dịch ngay ở một tiểu thuyết Pháp ra.

Đây là giai đoạn thử thách sinh viên. Đoàn cá mới, sẽ vượt Vũ Môn được hay không là do ở đây.

Nhiều anh mới qua khỏi cửa buồng, nhìn thấy xác một bà cụ móm xọm, bỗng đâm hoảng, nhảy nai, chạy mất và không bao giờ dám trở lại nữa.

Có anh lấy giấy bọc tay lại, trước khi rờ thây ma, anh khác lại nôn ọe ầm lên khi bụng một xác người mở bung ra dưới một nhát dao mổ, và một thứ nước xanh xanh, vàng vàng từ trong đó chảy linh láng ra, trên bàn đá trắng.

Hùng thuộc vào hạng chỉ dám đứng lấp ló nơi cửa cho đến giờ về. Tôi là bạn cũ của anh, nên hôm đó trông thấy mặt anh tái lét đứng dòm vô, tôi chạy ra kéo xển anh ta vào.

Mấy anh lớn ác lắm. Muốn tập cho em út dạn thây ma, họ có những lối đùa nghịch đáng giận. Năm ngoái, chúng tôi cũng sợ sệt như vậy, lúc mới vào. Họ lấy kẹo cho chúng tôi ăn, lấy thuốc cho chúng tôi hút, cho khỏi buồn nôn. Chúng tôi vô tình, mắt nhìn họ làm việc, tay mở kẹo đút vào miệng, thì trời ơi đứa nào cũng mút phải một lóng tay người lạnh ngắt, mà mấy ảnh đã gói lại bằng giấy bóng nhiều màu.

Được cái là bị một vố như thế, là hết sợ ngay, hết nhờm ngay. Năm nay, chúng tôi tới phiên làm anh hai (tức là người anh học năm thứ hai), nên cũng tái bản những trò đùa nghịch ấy. Hùng giận họ lắm, chỉ mến một mình tôi thôi, vì tôi không nỡ làm anh hoảng.

Trong tiểu thuyết “Những Người áo Trắng” của Pháp, thấy nói sinh viên trường thuốc ở Ba Lê đánh giặc với nhau bằng quả tim, buồng phổi, bàn tay, trái tai của thây ma. Sinh viên Việt Nam tôi đứng đắn hơn, trọng xác chết hơn, nhưng không khỏi đùa chút ít, bỏ vào túi quần mấy anh mới vào một bàn tay cùi ngón, để cho họ nhảy lăng ba xem chơi.

Hùng chỉ quanh quẩn theo tôi để được che chở, và chỉ yên lòng, khi vào viện một lượt với tôi, mặc dầu không phải vào đó là mổ liền. Còn phải nghe giảng nữa chớ. Nhưng biết đâu, những anh rắn mắt lại không đón anh ta ngay ngoài sân để dí vào mũi anh một cái đầu lâu?

Cái anh chàng tên Hùng ấy, xem tướng thì cũng hùng dũng lắm đó, nhưng lại sợ ma số dách, và sợ vi trùng còn hơn nữa. Anh thú thật với tôi, đêm nào anh cũng chiêm bao thấy toàn đầu lâu và những xác người thiếu tay chân nhảy múa quanh anh. Anh không thể tin được rằng, chất fót-môn dùng ướp xác có đủ khả năng sát hết vi trùng trên các xác trong viện cơ thể học. Anh phải dùng mu-soa riêng để cầm lấy những khúc xương đã mòn lẳn trong tay sinh viên từ năm này qua năm khác. Khăn ấy, sau buổi học, được bỏ vào một chiếc túi có quai xách, và về nhà là anh nấu tất cả các thứ ấy.

Để cắt nghĩa có một việc đón bạn, mà tôi kể lể dài dòng thế là vì …, thôi, rồi các bạn sẽ hiểu.

Tôi lại phải nói vòng vo tam quốc về vụ này nữa.

Hùng và tôi là bạn đồng lớp hồi Trung Học. Bây giờ anh thua tôi một năm, vì anh đã rớt Tú Tài toàn phần một niên khóa. Anh rớt vì anh bận yêu. Anh đã yêu một cô gái con nhà giàu, con của một nhà doanh nghiệp ở Sài gòn.

Anh thi rớt xong, là cô gái bị gả cho con một ông nhà giàu khác. Ấy, cha mẹ cô không hay cuộc tình duyên thầm lén của cô, chớ không phải phụ chú rể hỏng thi đâu.

Mà cô nọ cũng tệ, ngoan ngoãn đi lấy chồng như không có chuyện gì xảy ra cả.

Hùng tức lắm, nhưng không làm gì được cô ta, anh trả thù bằng cách cho tôi biết, cô ấy, trên lưng có ba nốt ruồi, mà anh hay nói đùa với cô rằng đó là “ba sao giờ giời”. Tiếng “giời”, Hùng nói theo giọng Bắc, cho có vẻ Kiều. Hình như cuộc phát giác bí mật thầm kín của cô gái ấy, hơn một người được nghe. Tôi phải mắng Hùng, anh ta mới chịu nín.

Nhưng sau đó, không rõ vì một lẽ bí mật gì, mà Hùng đau tương tư thật sự.

Anh không thích nghề Y, nhưng vào đó học, cốt để quên. Sinh viên trường thuốc khổ nhọc hơn ai cả, có ngày vừa học, vừa hành đến mười tiếng đồng hồ, đó là nói sinh viên thường thôi. Nói gì đến bọn nội trú, ngoại trú thì họ làm việc đến cháy nhà bên cạnh cũng không hay. Làm việc như thế, còn trí óc đâu nữa để sầu tình. Hùng quả đã khôn ngoan lắm.

Hôm ấy, hai đứa tôi cầm tay nhau vào viện cơ thể học.

Tôi nói:

-     Lão giảng viên cao giò bên anh hôm nay có việc nên nghỉ giảng. Chắc các anh qua bên buồng xác ngay.
Nghe nói thế, Hùng muốn trở ra về, nhưng không được nữa: tôi đã nắm chặt tay anh.

Hôm ấy, mười mấy chiếc bàn đá trắng đều có người choán. Đó là những kẻ chết đường, không người thừa nhận, nên được đưa vào để...“giúp sự hiểu biết cho nhơn loại”, tôi nói lớn lối theo kiểu anh Toàn, nhà đạo đức năm thứ nhì.

Mười mấy cái xác bị chất fót-môn làm tím đen ra và khô đét lại. Họ nằm đó như hình gỗ, người thì mặt mày bình thản như ngủ, kẻ nhăn ra một cách xấu xí quá chừng.

Anh Toàn bước vào một lượt với chúng tôi, rồi hét to:

-     Nhơn danh thuần phong mỹ tục, xin bà con lật úp mấy xác phụ nữ lại.
Anh Tố cũng hét:

-     Nhơn danh thuần phong mỹ tục và thay mặt nữ sinh viên, xin bà con lật úp mấy xác đờn ông lại.
Đó là họ đùa chơi cho đỡ buồn - nhìn thây ma mãi lại không buồn à? - chớ vào đó là không ai còn nghĩ gì quấy quá nữa cả.

Trong khi các bạn khác xúm nhau mổ sọ, để học bộ óc, thì Toàn chạy lại bàn chúng tôi, lật sấp cái xác dành cho chúng tôi lại. Lật xong, anh nhìn Hùng mà rằng:

-     Anh phải làm được như vậy mới đủ bản lãnh của một sinh viên trường thuốc, bằng không, về nhà chích dạo cho xong.
Hùng còn hôi mùi trường trung học, nên rất bất bình trước cử chỉ đó. Thấy vậy, Toàn làm tới, để trêu tức anh. Hắn đấm lên lưng cái xác và nói:

-     Cụ ạ, để cháu tẩm quất cho cụ nhé!
Xác người phụ nữ ấy, cũng như các xác khác, không mang tuổi tác nào cả, không rõ được đó là xác người già hay người trẻ. Chất fót-môn biến gương mặt họ giống nhau về năm, tháng. Nhưng người nầy tóc quăn, thì chắc cũng ở vào thế hệ sau nầy, mà đờn bà bắt đầu phi-dê.

Bỗng Hùng kêu rú lên một tiếng. Toàn day lại hỏi:

-     Đã hoảng rồi à?
Lạ kỳ thay, anh chàng sợ ma và sợ vi trùng nầy, không lùi mà tiến lại gần thây ma, cúi nhìn xuống lưng người chết.

Tôi bỗng chợt hiểu, nên cũng bước sấn tới, nhìn xuống với anh. Tôi không thấy gì cả. Lớp da người chết đen sạm, khó phân biệt được những dấu vết ngày xưa kia có lẽ là rõ rệt.

Hùng lấy ngón tay trỏ đè lên miếng da dưới xương bả vai, không phải chỉ để cho tôi thấy gì, mà như để chắc ý. Quả thế, bây giờ tôi thấy dạng ba nốt ruồi, đậm hơn màu da một chút xíu.

Hùng lật ngửa xác chết, nhìn sát vào mặt nó. Không, đó là một cái mặt khô, móm và hóp, không thể nhận ra là ai được cả, dầu người đó là kẻ thân yêu.

Anh Toàn không hiểu, ngước lên hét, vừa hét, vừa bỏ đi:

-     Bồ của tao đã giác ngộ rồi, tụi bây ơi! Sắp đắc đạo rồi đó!
Hùng đứng đó rờ rẫm mặt người chết rất lâu, xỏ tay vào tóc rối của thây ma, như không bao giờ biết nhờm cả.

Tôi nghĩ bụng: “Thôi, thế nầy, thì anh sinh viên trường Thuốc hóa thành thi sĩ mất. Làm sao khỏi ngậm ngùi khi bắt gặp xác người yêu trong một trường hợp như vậy”.

Nhưng lạ lắm. Mặt Hùng không buồn, mà chỉ suy nghĩ triền miên, rồi anh bỏ đó, bước mau qua bàn khác, vác lên vai một cái đùi người, tìm Toàn mà hỏi:

-     Cái lị mô giò chó quảy hôn?
Toàn cười ha hả và hét, ấy, anh ta không nói, chỉ hét thôi:

-     Hoan hô tinh thần tranh đấu bản thân sợ ma.
Riêng tôi, tôi lại đâm lo: “À, nó không hóa thi sĩ, mà hành động như vậy, thì đích là hóa điên rồi. Nhảy đột ngột từ cái hoảng sợ qua cái lì, phải chăng là phát điên thình lình?”

Bán giò chó quảy không ai mua, Hùng ra về. Tôi không ngăn nữa.

Hùng “cúp cua” đến bốn hôm, mặc dầu có lịnh rất nghiêm là anh nào bỏ thực hành, sẽ bị phạt nặng. Chúa nhựt, tôi tìm anh ta. Thấy va bình tĩnh như thường, tôi an lòng, hỏi:

-     Quên rồi chớ ?
-     Không, anh lầm. Tôi có buồn đâu mà cho là tôi quên. Hay nói đúng ra, tôi chỉ buồn có một phút thôi. Tôi đã rờ rẫm cái xác cho thật nhờm ra, để mà ghê tởm, đặng quên. Nhưng rờ được nó, tôi hết ghê tởm nó nữa. Không ghê tởm được thì vẫn đau khổ, vẫn nhớ. Nhưng qua giây phút kia, tôi không còn đau khổ vì cái chết vất vả của người tôi yêu nữa, mà đau một niềm đau khác, anh à. Tôi đau cho cái nghĩa của đời con người, liền sau khi chết. Cái xác ấy, rồi sẽ biến thành trăm, ngàn mảnh dưới các lưỡi dao, không còn dấu vết gì trên đời nầy. Mà cả những xác được chôn cất rất rình rang cũng thế.

Sao lại có sự rỗng không như vậy được? Phút trước đây, mạng anh quí biết bao nhiêu, mà phút sau nầy, xác anh lại là đồ bỏ. Ra cái quí chính là sự sống, chớ không phải thân thể nữa. Có đau hay không cho thân thể của con người!

Đang tha thiết yêu đương, giận ghét, mừng vui rồi suỵt một cái, là u u, minh minh, là không có gì nữa. Tôi sẽ làm cho sự sống còn hoài, không những đánh bại bịnh tật, mà cả sự già mòn nữa.

Lúc bấy giờ, nhìn Hùng, tôi thấy anh ngây thơ lạ. Hùng là hiện thân của tất cả phấn khởi của tuổi trẻ, cả quyết sẽ làm những việc tày trời và tin chắc sẽ làm được. Nhưng tôi không cười, cố lập nghiêm mà nói:

-     Đó là mộng của y sĩ muôn đời.
-     Mộng suông không được. Phải biến nó thành sự thật kìa.

-     Hay lắm. Chúc anh thành công trong việc phản lão hoàn đồng, việc trường sanh bất tử. Có một điều tôi không hiểu, là tại sao cô ấy lại chết đường ?

-     Ấy, hai họ đều là tay chợ đen. Giàu lẹ mà sụp cũng lẹ. Có lẽ cả hai họ đều mạt lụn hết rồi, nên không còn ai tìm xác cô ta nữa.

-     Tại sao không xin xác về chôn?

-     Vô ích, tôi đã nói cái quí chính là sự sống kia mà. Hôm mới vào đây học, tôi công phẫn hết sức, về việc dùng xác người như các Y Khoa Đại Học trên thế giới đã làm. Nhưng...

Hùng nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi:
-     Học Thuốc, anh có lý tưởng gì không?
-     Làm giảm bớt những đau đớn của loài người, chỉ có thế thôi. Còn những mộng to, tôi chưa có, vì ít lắm phải ba sao giữa giời mới gây nổi những mộng như vậy.

Tôi nói giọng giễu cợt, nhưng Hùng không thèm đếm xỉa. Anh trề môi rất dài:
-     Xoàng, anh xoàng lắm !
Hùng không nói nhiều nữa, để thuyết giáo như hồi nãy. Anh tỏ ra khinh bỉ tôi, một ông lang vườn tương lai.

Tôi không giận, mà lại trái lại thương cái mộng tuổi trẻ kia, và ngậm ngùi nhớ lại bao nhiêu mộng khác của mình thuở nhỏ không bao giờ thực hành được. Tôi siết tay bạn:

-     Chúc anh thành công và yêu cầu anh giao mộng ấy lại cho các thế hệ sau, nếu chính anh không toại nguyện

(1) người kể chuyện cho tác giả nghe

(Sưu tầm)
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân