TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - CHUYỆN TÌNH "TS NGUYỄN TẤT NHIÊN"
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

CHUYỆN TÌNH "TS NGUYỄN TẤT NHIÊN"

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7356

Bài gửiGửi: Wed Mar 26, 2014 2:28 pm    Tiêu đề: CHUYỆN TÌNH "TS NGUYỄN TẤT NHIÊN"


Chuyện tình "NHÀ THƠ LÃNG TỬ DỄ THƯƠNG - NGUYỄN TẤT NHIÊN"


Đoàn Dự ghi chép

(Bích Lan Nguyễn sưu tầm)

Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, là một nhà thơ được nhiều người Việt Nam yêu thích. Đối với các nhà thơ khác thì người ta hâm mộ, còn đối với Nguyễn Tất Nhiên, người ta yêu thích do thơ của Nhiên rất hay, phóng khoáng, có những nét gần như kỳ lạ nhưng lại rất trẻ, rất hồn nhiên, cứ viết là viết, hễ thích là viết và viết rất gần gũi với cuộc sống con người. Ví dụ: “Người từ trăm năm/ Về ngang sông rộng/ Ta ngoắc mòn tay/ Trùng trùng gió lộng/ Thà như giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn không... ” (Trích: Khúc tình buồn. Phạm Duy phổ nhạc và đổi tên thành ‘Thà như giọt mưa’ nhưng xem ra cái tên Khúc tình buồn hay hơn). Ôi, tình yêu mà chỉ có “một khúc” thôi – một khúc ngắn ngủi, nhỏ bé, giống như những giọt mưa rơi trên tượng đá, sau đó khô đi và tác giả tự an ủi: “Có còn hơn không”. Thật dễ hiểu, dễ gần gũi, vì ai cũng đã từng trải qua thứ tình cảm ấy nên thấy yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên.

Thời trẻ tuổi

Nguyễn Tất Nhiên sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa, mất ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California, Mỹ, hưởng dương 40 tuổi. Lúc còn là một học sinh với cái tên khai sinh Nguyễn Hoàng Hải, Nhiên theo học tại trường Trung học Công lập Ngô Quyền Biên Hòa từ năm lớp 6 (1963) cho tới năm lớp 12 (1970). Biên Hòa trước 1975 có hai trường trung học lớn, là trường Ngô Quyền (công lập) và trường Khiết Tâm (tư thục, công giáo). Trường Ngô Quyền nay vẫn còn nhưng trường Khiết Tâm đã bị tịch thu ngay sau 30-4 và trở thành trường bán công.

Khi còn là một học sinh trung học đệ nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9), cậu học sinh Nguyễn Hoàng Hải đã làm thơ và thơ rất hay, rất tình cảm, với những ý tưởng đặc biệt nên được bạn bè hâm mộ. Mới học lớp 7 nhưng cậu rủ cậu bạn cùng lớp cũng yêu thơ như mình tên là Đinh Thiên Thọ thành lập thi văn đoàn Tiếng Tâm Tình và khuyến khích bạn bè hợp tác. Các “tác phẩm” cả thơ lẫn văn trong thi văn đoàn đem quay ronéo rồi chuyền tay nhau đọc. Năm sau, lên lớp 8, mới 14 tuổi (năm 1966), hai “nhà thơ học trò” này chung tiền nhau xuất bản tập thơ đầu tay Nàng thơ trong mắt. Gia đình Nguyễn Hoàng Hải có tiệm may âu phục lớn ngay trong trung tâm thành phố, còn gia đình Đinh Thiên Thọ có tiệm tạp hóa cũng rất khá giả, nên tiền in thơ cũng “lo được”. Đinh Thiên Thọ lấy bút hiệu là Đinh Thiên Phương còn Nguyễn Hoàng Hải lấy bút hiệu Hoài Thi Yên Thi. Như vậy, Đinh Thiên Phương và Hoài Thi Yên Thi là hai nhà thơ “nhí” có tác phẩm xuất bản rất sớm, vào năm 14 tuổi (Đinh Thiên Thọ và Nguyễn Hoàng Hải bằng tuổi nhau).

Trong thời gian này, Hoài Thi Yên Thi (Nguyễn Tất Nhiên) thầm yêu một cô bạn cùng lớp gốc “Bắc kỳ di cư 54” tên là Duyên (Hoài Thi Yên Thi người miền Nam) với những tình cảm nhẹ nhàng, trong sáng, nhưng không đi đến đâu vì tình yêu thuở học trò thời đó là như vậy, “yêu rất nhiều mà chẳng được bao nhiêu” chứ không như bây giờ. Tuy nhiên, dù sao thì cô bạn gái cùng lớp tên Duyên cũng là niềm cảm hứng cho nhà thơ Hoài Thi Yên Thi và sau này “chàng” đổi bút hiệu thành Nguyễn Tất Nhiên, sáng tác khá nhiều bài thơ rất có giá trị: “Khúc tình buồn” (Phạm Duy phổ nhạc thành “Thà như giọt mưa”), “Linh mục” (Nguyễn Đức Quang phổ nhạc thành “Vì tôi là linh mục”), “Ma sơ” (Nguyễn Đức Quang phổ nhạc thành “Em hiền như ma sơ”), “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”, v. v... Người ta tìm được 71 bài đã đăng báo và 3 tập thơ đã xuất bản, trong đó có một tập in ở Mỹ khi Nhiên còn sống.

Tâm hồn nghệ sĩ của Nguyễn Tất Nhiên đã bộc lộ từ lúc còn rất ít tuổi. Đầu óc Nhiên được mô tả là lúc nào cũng như mơ mộng, suy nghĩ đâu đâu, không tập trung ngay cả trong khi còn đang đi học. Bạn bè thời đó gọi đùa Nhiên là “Hải-ngố” hay “Hải-khùng”. Có câu chuyện do bạn bè kể lại là một buổi sáng, Nguyễn Tất Nhiên đứng giữa ngã tư trong thành phố Biên Hòa, hai tay đút túi quần, cặp mắt mơ mộng nhìn lên trời như không biết đó là ngay giữa ngã tư.

Theo lời kể của nhà thơ Thái Thụy Vy, hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà “Hải-khùng” vẫn mặc chiếc áo măng-tô mua ở khu Dân sinh dưới Sài Gòn, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đạp xe đạp đi theo “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” tên Duyên.



Giai đoạn từ 1971 trở về sau

Sự nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công, thơ in ronéo tặng cho các nữ sinh chẳng ai buồn đọc. Hai tập thơ xuất bản, gửi bán trong tiệm sách ở đầu chợ Biên Hòa, để lâu giấy vàng cả ra cũng chẳng ai mua.

Cho đến khi thơ của Nhiên được một giáo sư trong trường Ngô Quyền (trước năm 75 các thầy cô giáo dạy trung học gọi là giáo sư, dạy tiểu học gọi là giáo viên; sau 75 tất cả đều là giáo viên giống như ngoài Bắc), vốn yêu thơ và biết thơ của Nhiên có giá trị nên gửi tới tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn do nhà văn Mai Thảo chủ trương. Lúc ấy, hễ có bài đăng trên tạp chí Văn của Trần Phong Giao, tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo hay Bán nguyệt san Thời Nay của Nguyễn Văn Thái v. v... là rất dễ được mọi người chú ý. Các nhạc sĩ Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang thấy thơ của tác giả Nguyễn Tất Nhiên nào đó đăng trên Sáng Tạo rất hay và có ý lạ nên phổ nhạc, từ đó Nguyễn Tất Nhiên bắt đầu nổi tiếng.

Bị... lính chê!

Đầu năm 1972, Nguyễn Tất Nhiên nhận được giấy gọi nhập ngũ Trường Sĩ quan Thủ Đức, nhưng mới đi trình diện, khám sức khỏe tại Trung tâm Nhập ngũ số 3 đường Tô Hiến Thành thì bị các bác sĩ trong Hội đồng Giám định Y khoa... chê và cho về với lý do “tâm thần không ổn định”.

Đối với anh chàng lãng tử đầu óc luôn luôn để đâu đâu này thì đi lính cũng được, không đi lính cũng được, chẳng sao cả. Nhưng đã đi rồi lại bị cho về vì... đầu óc không bình thường thì cũng hơi mắc cỡ với bạn bè. Do đó, chàng bèn nói dóc rằng chính chàng giả bộ tâm thần, đánh lừa được Hội đồng Giám định nên họ cho về. Giải thích riết rồi... chính chàng cũng tưởng rằng mình có tài “giả điên” thật, nên bèn lấy làm khoái chí lắm, hễ gặp bạn bè là khoe tới khoe lui hoài.

Thế rồi, sau 1975, ai cũng nghèo, Nguyễn Tất Nhiên may mắn xin được một chân làm nhân viên điều hành trong Hợp tác xã xe lam ở bến xe Tam Hiệp, Biên Hòa, đồng lương tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đỡ phải chơi không. Ngoài ra, Nhiên cũng có một người anh và một người chị ở bên Pháp làm ăn từ trước rất khá giả, luôn luôn gửi quà (tức các thùng hàng, lúc đó chưa được gửi tiền như bây giờ) về giúp đỡ nên gia đình không đến nỗi nào. Không phải lo cho chuyện gia đình, buổi tối buồn tình chàng đi học đàn ghi-ta và học sáng tác âm nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa nhưng không thành công. Chàng chẳng sáng tác được bản nhạc nào. Cuối năm 1980, gia đình được bảo lãnh sang Pháp, trong đó có Nhiên. Lúc ấy chàng 28 tuổi.

Ba năm sau, có một cô gái tên Lê Minh Thủy từ bên Mỹ đi du lịch Âu châu, sang Pháp. Cô này vẫn hâm mộ thơ của Nguyễn Tất Nhiên, nhất là qua các bài đã được nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc, bèn tìm đến thăm. Họ gặp nhau, yêu nhau rồi ít lâu sau chàng sang Mỹ làm đám cưới với nàng và ở lại với vợ tại Mỹ, sống ở Quận Cam, California. Năm 1987, theo gợi ý của vợ, chàng gia nhập Hội Nhà Văn Việt Nam tại hải ngoại. Đó là một mối tình đẹp, họ rất yêu nhau và có với nhau hai con trai.

Ngày 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy nhà thơ lãng tử Nguyễn Tất Nhiên chết trong chiếc xe hơi của mình đậu dưới bóng cây trong một sân chùa thuộc California, có lẽ do bị trụy tim bất ngờ.

Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ

Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

Phải đau theo từng hớp rượu tàn

Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định

Đây là những câu thơ được coi là “tiền định” trích trong bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” làm năm 1972, lúc Nguyễn Tất Nhiên mới 20 tuổi. Những câu thơ này được khắc trên mộ bia của chàng. Mộ Nguyễn Tất Nhiên nằm tại Vườn vĩnh cửu trong nghĩa trang Westminster, phía tây Little Saigon, California. Rất thường xuyên, các du khách Việt đến thăm khu phố Bolsa – Little Saigon có ghé ngang qua thăm mộ thi sĩ.

Theo lời nhà báo Đoàn Thạch Hãn thì bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do nhà thơ Du Tử Lê đặt. Ông Hãn kể rằng theo nhà thơ Phạm Chu Sa, “có lần Nhiên bộc bạch rằng bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do Du Tử Lê đặt. Nhiên bảo, ngay lần đầu mới gặp, Du Tử Lê đã chê cái bút hiệu Hoài Thi Yên Thi. Nhiên hỏi Du Tử Lê: ‘Bạn bè em ai cũng chê. Cái bút hiệu này hơi sến phải không? ’. Lê đáp: ‘Tất nhiên’. Du Tử Lê nói thêm: ‘Họ Nguyễn hả? Ừ thì lấy luôn là NguyễnTất Nhiên đi’”. Thế là cái tên định mệnh đó ra đời, gắn chặt với thi nghiệp của một con người tài hoa bạc mệnh.

Bài thơ dưới đây được xem là cuối cùng của Nguyễn Tất Nhiên:

TÌNH ƠI HỠI TÌNH

Lâu rồi..., không nhớ bao lâu

Tìm nhau trong cõi bạc đầu nhân gian.

Em về, dưới gót trăng tan

Có nghe thiên cổ tiếng ngàn thông đau?

* * *

Lâu rồi..., lâu lắm xa nhau

Còn chăng hư ảnh trong màu thời gian.

Em đi, tóc lộng mây ngàn

Ngàn mây lộng khổ mây bàng bạc theo.

* * *

Lâu rồi..., không biết bao nhiêu

Nắng mưa trên những tàn xiêu đổ đời.

Hôm em êm ả điệu ngồi,

Sau lưng là những tình ơi hỡi tình.

“Người xưa” lên tiếng

Trong số những bài thơ Nguyễn Tất Nhiên để lại, người con gái tên Duyên có một vị trí đặc biệt. Trong “Khúc tình buồn”, Nguyễn Tất Nhiên đã thấy “Người từ trăm năm về qua sông rộng. Ta ngoắc mòn tay (nhưng chỉ thấy) trùng trùng gió lộng”. Anh yêu người con gái ấy song không thể đến gần, bởi vì người đó cứ xa cách muôn trùng. Anh yêu, cuồng nhiệt, bỏng cháy mà không được đáp lại nên điều ước thật... điên: “Thà như giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn không”. Sau này, một người bạn của Nguyễn Tất Nhiên kể lại là đã hỏi tại sao lại “thà như giọt mưa” thì anh trả lời hết sức cắc cớ: “Ai biểu Duyên không yêu tôi thì tôi làm giọt mưa... vỡ trên vai nàng”.

Người con gái xứ Bắc tên Duyên đã đi vào thơ Nguyễn Tất Nhiên là ai? Bóng hồng ấy có sức hút mãnh liệt thế nào khiến nhà thơ đắm say, si tình, điều đó gợi ra trí tò mò của người yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên... Chính từ thắc mắc ấy, nhà báo Hà Đình Nguyên đã bỏ công ra truy tìm nguyên mẫu trong hàng chục năm ròng rã từ nhiều nguồn tin, bằng các mối quan hệ và bằng cả cơ duyên.

Trong một lần tâm sự với nhà thơ Lê Minh Quốc, anh thành thật nói rằng mấy chục năm nay đã cố tìm tòi về người đẹp tên Duyên trong các bài thơ nhưng “bó tay”. Lê Minh Quốc lục trong trí nhớ và giới thiệu Hà Đình Nguyên tìm gặp nhà báo Lưu Đình Triều, người học cùng trường Ngô Quyền thuở trung học với người đẹp tên Duyên và cả nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên ở Biên Hòa, Đồng Nai.

Qua trí nhớ của người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô gái tên Duyên cũng hé mở. Theo Lưu Đình Triều, nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải sinh năm 1952, sau mới lấy bút danh Nguyễn Tất Nhiên. Còn cô Duyên, tên đầy đủ là Bùi Thị Duyên dân “Bắc Kỳ”, gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình yêu của Hải dành cho Duyên cả trường Ngô Quyền ai cũng biết. Ngoài ra, Duyên còn là nguồn cảm hứng, là nguyên mẫu cho nhiều bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên khi anh ở độ tuổi đôi mươi.

Những tưởng Nguyễn Tất Nhiên sẽ chiếm được trái tim “người đẹp” khi tên cô ngân vang cùng nhạc Phạm Duy trong lòng bao nhiêu người yêu mến. Thế nhưng, người đẹp tên Duyên và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên vẫn đường hai lối rẽ. Sau này, họ cùng sống ở Mỹ nhưng không biết có cơ hội nào gặp lại nhau không, vì một người ở Michigan, một người ở California.



Cô gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào hiện nay vẫn sống tại Michigan, Hoa Kỳ. Sau này, qua những người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô đã nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò: “Tụi này học chung cùng lớp với nhau từ năm đệ tứ. Nhưng lúc đó tôi ngây thơ, chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc 14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba bản đặc biệt. Một bản của Nhiên, một bản tặng tôi và một bản cho ai tôi quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành tập thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không. Tất cả bạn bè trong lớp ai cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ”.

Trong tập thơ Thiên Thai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó. “Dĩ nhiên là phải xúc động bởi nguyên một tập thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu rằng mình là bạn thôi. Nếu có ý gì đó thì tôi không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được tiếp tục gặp một người bạn như tôi. Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm” – người con gái tên Duyên chia sẻ.

Mới hay, tình yêu đơn phương, hay tình dang dở khiến người ta nghĩ đến nhau nhiều. Những vần thơ đã sống cùng thời gian, và người con gái tên Duyên thành biểu tượng thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Những bài thơ đã làm cho cái tên Duyên trở nên nổi tiếng và ý nghĩa. Cái ý nghĩa gắn với một tình yêu cuồng si của một tài thơ điên, phận mỏng.

Nguyễn Tất Nhiên yêu và chẳng ngại ngùng khi gọi tên người mình yêu trong thi ca. Trong bài “Duyên của tình ta con gái Bắc”, anh viết: “Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc/ Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền/ Nhớ dịu dàng nhưng thâm ý khoe khoang/ Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt/ Nếu vì em mà ta phải điên tình/ Cơn giận giữ đã tận cùng mê muội/ Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên tài luôn yếu đuối... ”

Đoàn Dự ghi chép




Được sửa bởi MAI THO ngày Fri Mar 28, 2014 10:27 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Thu Mar 27, 2014 5:57 am    Tiêu đề: THƠ NGUYỄN TẤT NHIÊN

Cám ơn anh Mai Thọ luôn hăng say đóng góp cho diễn đàn.

Sau đây là một cái link của trường Trung Học Ngô Quyền, Biên Hòa, cho những ai yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên, trong đó có rất nhiều bài vở liên quan đến cố Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, Loan biết được qua chị Tưởng Dung, một người bạn thân của chị Minh Thủy mà Loan có dip gặp ở đó lúc Loan sang Mỹ.

Trước đó, có lẽ người ta biết nhiều đến "cô Bắc Kỳ nho nhỏ" và cô "Duyên vẫn là tính tự nhiên ngổ ngáo và tự tin, ngoảnh mặt quay đi một cách lạnh lùng như tượng đá... ”, mà ít ai biết đến cái tên Minh Thủy cho đến tháng 7 năm 1989, lúc chị Minh Thủy đang chuẩn bị thủ tục ly dị, thì những Minh Khúc dồn dập ra đời, với những lời trách móc bi thuơng, mọi người mới biết thêm có một nàng thơ nữa trong thơ của cố Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên.

Minh Khúc, 89

ví dù lá đỏ đường xưa
ngoài hiên những nụ tình chưa muốn tàn

ví dù tóc gọi thời gian
ngàn mây phiêu lãng cũng cần suối sông

ví dù gối đã lìa chăn
thì chăn gối cũng bao lần với nhau

ví dù trước đã lìa sau
thì sau trước trước sau sao vẫn là
ai gieo tiếng dữ rồi ra
lược gương nhau nhé tình ta với mình!

Westminster, CA, 14.7.89


http://www.ngo-quyen.org/D_1-2_2-129/


Được sửa bởi buihongloan ngày Fri Mar 28, 2014 6:13 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Thu Mar 27, 2014 6:43 am    Tiêu đề: CHUYỆN BÀ MAI

CHUYỆN BÀ MAI


Chắc kiếp trước bạn tôi, Ngọc Dung, có nợ nần chi đó với mấy anh chị phụ trách báo chí cho Hội Cựu Học Sinh Ngô Quyền, nên cô nàng sốt sắng với việc ăn cơm nhà vác ngà voi vô cùng. Và chắc kiếp trước, tôi cũng mắc nợ bạn tôi nhiều lắm, nên trái tim - tuy đã khổ luyện cho thật chai đá - của tôi cứ phải chảy mềm khi nghe bạn thiết tha réo gọi... nộp bài. Tối hôm qua, cô nàng còn “tinh vi” nhắc lại những kỷ niệm thời làm báo trường hồi nẫm nẫm, thời mộng mơ đầu đời của tụi tôi, để... “động viên” tôi nữa chứ. Nhờ Ngọc Dung nhắc, tôi mới nhớ lần nhân danh trưởng ban biên tập báo xuân Ngô Quyền năm Quý Sửu 1973, tôi đã “dám” loại, không đăng bài thơ của anh Nguyễn Tất Nhiên. Oai ghê chưa! Những cảm xúc cũ, trong một lúc, bất chợt ùa về. Ờ, tại sao mình không viết về chuyện giữa tôi và anh Nhiên - cũng kể là một mối tình Ngô Quyền chớ bộ - để như một lần “giải đáp thắc mắc” cho một số bạn bè, trong đó có chị Ngọc Huệ, về vai trò “bà mai” Ngọc Dung trong “thiên tình sử” ấy.

Nói đến “vai trò lịch sử” của Dung, tôi chợt giật thót mình! Thôi đã rõ như ban ngày còn gì, đâu cần chi kiếp trước tôi mắc nợ Dung; ngay kiếp này đây, trong những ngày quá khứ đầy sóng gió của đời sống tình cảm của tôi, tôi đã mắc nợ bạn tôi nhiều vô số kể. Với cương vị “đại sứ thiện chí”, Dung bị bên này trách phiền, bên kia mắng mỏ, vậy mà cái đuôi heo còn chưa được chứ nói chi đầu heo! Trong màn cuối của cuộc tình mười lăm năm, anh Nhiên, trong những lúc mất bình tĩnh, còn tận dụng phương tiện hiện đại, lưu lại mấy trái mìn nổ chậm trong “answering machine” để “make sure” địch thủ phải thọ trọng thương với những lời mạt sát kinh hoàng không thể tưởng.

Nhưng từ đầu chí cuối, Dung vẫn tận tụy với bạn, sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp, không bao giờ từ chối một lời cầu cứu nào của tôi dù biết sứ mạng có đầy “hiểm nghèo”. Đôi khi tôi tự hỏi, hay là Dung cũng mắc nợ tôi với anh Nhiên từ kiếp trước? Đưa thư, đưa quà của anh Nhiên gửi cho tôi cũng Dung, mà trả lại thư, trả quà cũng cô nàng. Đến nỗi trong một bài thơ, anh Nhiên đã dùng phép ẩn dụ, ví Dung như... quỷ sứ. Có lẽ cho tới giờ này, Dung vẫn không biết điều đó. Thật tình, khi nghe anh Nhiên, trong một lúc vui miệng khi đã thành chồng vợ, bảo là anh viết câu thơ đó vì căm tức Ngọc Dung. Tôi bật ngửa, vừa buồn cười vừa thương bạn, than thầm: Trời mẹ ơi! Đâu dè giấc mơ đi vào văn học sử của bạn tôi lại “come true” một cách oái oăm như vậy! Đó là câu “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân, Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ” trong bài thơ có tựa đề “Kẻ tự đóng đinh tim”. Bài thơ ấy có nhiều lời lẽ rất ngông ngạo nhưng cũng có nhiều đoạn thật dễ thương, thật tội nghiệp mà anh viết ra sau những lần lén đứng đón tôi đi học về, ngang nhà thờ Biên Hòa ở bùng binh công trường Sông Phố trước khi rẽ xuống đường Hàm Nghi. Tuy bài thơ đã từng được đăng trong một tạp chí văn học ngay lúc anh mới sáng tác, nhưng sau khi đã qua thời “trẻ người non dạ”, lúc gom lại thơ cũ để in tập “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” vào năm 1979, anh không để vào vì ngại đụng chạm với giới tín đồ Thiên Chúa; mãi về sau, anh mới cho in lại nó trong tập “Chuông Mơ” (1987) với một vài sửa đổi cho dịu bớt. Bài thơ ấy có những đoạn như sau:

“Chiều em đi học về, ngoan tóc thả

Áo suông eo trinh bạch cả giáo đường

Ta ngọt ngào gọi khẽ, người đi luôn,

Nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí

Bay xuống trần gian làm thi sĩ

Nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình

........................

Chiều em đi học về, chim trắng bước

Ngang giáo đường nhòe nhoẹt màu vôi phai

Có động lòng xin hãy rút khăn tay

Lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá

Là ta đó, em ơi, đang tầm tã

Mưa đầy hồn đau đớn thương thân

Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân

Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ

Tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ

Chỉ vì em lành lặn quên chàng

Chỉ vì em... gõ nhẹ cửa thiên đàng

Bình thản gửi cho hai hàng bính tóc!”

Bài thơ với những hình ảnh quá tội nghiệp ấy đã đánh trúng lòng trắc ẩn của tôi, nên dù không thật sự rung động, tôi vẫn không thể chối từ. Vào những buổi trưa, anh hay đón đường tôi (cũng ở khoảng trước nhà thờ là nơi tôi đi bộ ngang để tới đầu đường Trịnh Hoài Đức đón xe lam đi học), để dúi vội một cuốn sách nào đó có kẹp những trang thư. Những lúc đó tôi chỉ biết lấm lét nhận đại cho xong và mau mau cất vào ngăn cặp vì sợ người nhà bắt gặp. Khổ như vậy mà sau đó anh còn gửi tôi một bài thơ trong ấy có đoạn:

“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát

Ta vẫn thèm hôn lên mắt-tiểu-thư-hờn

Ta vẫn ăn năn những lúc đón đường,

(Em khó chịu... mà thư nào em cũng nhận!)”

             (Giữa trần gian tuyệt vọng)

Đọc tới bài này thì tôi vừa giận vừa ức, “xí, làm như người ta ham nhận thư lắm, đã vậy còn nói người ta khó chịu nữa”. Thế là Dung, sau khi nghe tôi năn nỉ, gồng mình vác hết chồng thư tình kèm bao nhiêu quà cáp, mang tới tận nhà anh để trả. Hậu quả ra sao thì chắc ai cũng dư đoán! Sau khi trút cơn thịnh nộ với “con tin”, anh lại đón đường tôi, phân trần, giải thích. Anh phân bua rằng anh dùng chữ “khó chịu” là muốn ca tụng một sự chịu đựng “phi thường” đáng tội nghiệp của tôi, vì anh thấy những lúc ấy mắt tôi đo đỏ như sắp khóc, chứ không phải nói “khó chịu” là chê tôi “khó ưa”. Khổ nỗi anh Nhiên làm thơ hay bao nhiêu thì nói năng vụng về bấy nhiêu, nhất là trong trường hợp cần “thanh minh thanh nga”. Vẻ lúng túng của anh càng làm tôi xấu hổ, và vì sợ gia đình bắt gặp, sợ bạn bè trêu chọc, tôi lại gật đầu cho qua chuyện, để anh “an lòng” thả cho tôi đi.

Sau đó, tôi bàn với Dung, cầu cứu bạn tìm cách nói cho anh Nhiên biết tôi có người yêu, đúng ra, tôi đang yêu một người khác rồi. Sợ kẻ si tình không tin, tụi tôi còn tính làm một màn kịch cho thấy tôi đang “yêu đắm đuối” một nhân vật nọ kia cho anh vỡ mộng mà quên tôi đi. Dĩ nhiên, anh Nhiên không tin, hay không muốn tin thì đúng hơn. Và trước khi anh viết tối hậu thư cho tôi, chịu “hứa sẽ không bao giờ làm phiền Thủy nữa”, thì bạn tôi cũng lãnh đủ trận lôi đình của anh vì đã dám “chà đạp” anh “như đạp lên con trùn con dế!”

Chuyện tình tưởng đã xong nhưng đúng là “nợ tình chưa dứt”, nên mới có màn tái hợp về sau và kết thúc bằng một bi kịch. Nhiều năm trôi qua, nước mắt tưởng đã khô nhưng hệ lụy vẫn khó bề dứt tuyệt, tôi làm sao gom hết được bao nhiêu tâm tình rối ren vào trong dăm dòng chữ ngắn, nên đành thôi ngưng kể tiếp chuyện tình. Vả lại, chủ đề bài này là “vai trò bà mai” của bạn tôi kia mà.

Thật ra, nói bạn tôi là bà mai không đúng mà cũng không sai. Không đúng vì làm gì có chuyện Ngọc Dung giới thiệu tôi với anh Nhiên. Nhưng không sai vì nếu không chơi thân với Dung thì không chắc tôi vướng lụy lưới tình. Số là vào năm lớp mười, Dung, Yến và tôi dự định ra một tập thơ chung, kiểu tập thơ học trò in bằng cách quay ronéo những bản viết tay hay đánh máy trên giấy stencil, xuất bản chừng vài chục cuốn để tặng bạn bè ấy mà. Vì một lý do nào đó tôi rút lui không góp mặt trong tập thơ đó, nhưng vốn đã “dính với nhau như sam”, mỗi khi Dung đi đâu để lo cho tập thơ thì cũng lôi tôi đi cùng. Hôm ấy, Dung tới gặp anh Nhiên ở quán Cà Phê Tuyệt vì cần lấy tấm bản kẽm bức tranh phụ bản “Duyên” của tập thơ Thiên Tai của anh để làm bìa cho tập “Tuyên Ngôn Mười Lăm” của Dung. Dung quen với anh Nhiên qua chị Duyên vì Dung là học trò tư của anh Đống, anh của chị Duyên. Nghe tới quán “Cà Phê Tuyệt”, đứa nào trong bọn tôi cũng rét run, đi ngang còn sợ huống gì là phải bước vào. Mà ác một nỗi là anh Nhiên nhắn Dung tới đó vì anh hay “ngồi đồng ngồi cốt” ở cái quán ấy. Sau này, cũng ở cái quán cà phê trứ danh ở đường Trịnh Hoài Đức này anh đã viết những câu mà Phạm Duy đã phổ nhạc thành “ngoài đường em bước chậm, quán chiều anh nôn nao”. Thực ra, trong bài thơ “Hai năm tình lận đận”, nguyên văn là:

“Ngoài đường em bước chậm

Trong quán chiều anh ngóng cổ cao...”

(Khi làm bài thơ này, anh Nhiên cũng bị tôi giận bởi trong bài có câu “em vẫn còn mắt liếc, anh vẫn còn nôn nao”, nhưng tôi “liếc” ở đây là để lén dòm thiệt lẹ vô trong quán coi có bị rình không, thế mà anh viết như vậy “rủi” có ai tưởng tôi “liếc mắt đưa tình” với ảnh thì sao!)

Trở lại với việc theo Ngọc Dung vô quán Tuyệt. Lần đó, hai đứa lóng ngóng bước vào quán, lúc anh Nhiên đang ngang nhiên ngồi gác chân lên bàn. Dung nhanh nhẩu nhập đề trong lúc tôi đứng xớ rớ kế bên. Anh Nhiên hách xì xằng vừa nói chuyện vừa nhả khói thuốc, như chẳng đếm xỉa tới ai, trông rất ư là “mục hạ vô nhân”. Lúc ra khỏi quán, tôi bực bội bảo với Dung: “Thằng cha” Hải  làm thơ hay mà lối quá, ngồi gác chân không thèm ngó tới ai, mày xin xỏ làm chi! (Lúc đó tài năng của anh Nhiên đã sáng chói trong giới học trò ưa làm thơ như tụi tôi vì anh vừa phát  hành tập Thiên Tai (năm 1971) và từng vào các lớp trong trường để bán tập thơ.)

Đâu ngờ rằng chính trong lần ấy, anh Nhiên đã để ý tới tôi. Anh còn nói rõ anh nhớ gương mặt rạng rỡ sáng láng rất đặc biệt của tôi và đặc biệt hơn nữa, là... tôi có hàng lông mép khá đậm màu nổi bật trên làn da trắng trẻo! Thế nên đến lần anh tình cờ gặp lại tôi ở nhà một chị bạn thì anh tự cho đó là duyên số (tuy hàng lông mép của tôi lúc này không hiểu vì sao đã lợt đi rất nhiều!) và nhất quyết theo đuổi tới cùng, theo lời anh kể sau này.

Dòng đời, cùng với thời gian, trôi miệt mài không ngừng nghỉ và dường như càng lớn tuổi, người ta càng thấy thời gian qua nhanh. Bao bi ai phẫn nộ hay hỉ lạc hân hoan một thời rồi cũng lắng xuống dịu êm. Dòng sông đời của tôi cũng đã rẽ qua nhiều khúc, để rồi chiều nay, khi viết những dòng này, trong bóng hoàng hôn nhòa nhạt bên ngoài, tôi tự dưng mang tâm trạng chàng học trò thi trượt, ngồi trong quán chiều đợi chủ quán đun chín món kê vàng. Được một đạo sĩ cho mượn chiếc gối kê đầu, chàng học trò không may đã ngủ quên vì buồn rầu lẫn đói mệt. Trong giấc mơ chàng thấy mình thi đỗ làm quan, được vợ đẹp con khôn, đạt sự nghiệp vinh quang để rồi thăng trầm sao đó đến nỗi cuối cùng phải ra pháp trường để chịu xử trảm. Chàng sợ quá, vùng tỉnh dậy, và thấy mình mới vừa nằm mộng, và trên bếp quán, nồi kê vẫn hãy còn chưa chín. Điển tích “giấc mộng hoàng lương” tôi đã học trong chương trình Việt Văn thuở nhỏ chiều nay như chợt thấm thía tận hồn. Nhìn lại cuộn phim đời mình, thấy phúc họa quả thật khó lường. Nếu buổi chiều đó tôi không đi cùng Dung tới quán Cà Phê Tuyệt thì đời tôi sẽ ra sao nhỉ? Hay là... tôi đã không đi và tôi chỉ nằm mơ thấy mình đi? Tôi đang mơ hay tỉnh? Ờ, mà chắc không mơ, vì điện thoại đang reo giục giã, và tôi biết đầu dây bên kia ai đang gọi tới mình.

                 

                                                 Nguyễn Thị Minh Thủy

                                                                   30 tháng 4, 2006
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Thu Mar 27, 2014 6:47 am    Tiêu đề: Tưởng Dung - SAO THIÊN THU KHÔNG LÀ...

(Để tưởng nhớ thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, nhân ngày giỗ thứ 15 của anh / tháng Tám, 2008)
           

Khi gọi Minh Thủy để nhắc về buổi hẹn đi ăn trưa vào ngày Chúa nhật hôm sau, tôi nghe giọng Thủy thật nhẹ nhàng ở bên kia: “Dung à, mày đi với tao thăm mộ anh Nhiên trước khi đi ăn một chút được không? hôm qua là giỗ của anh ấy đó, chắc lâu lắm rồi mày đâu có đi đến đó hả nhỏ?”. Tôi giật mình như vừa được nhắc nhớ đến một người bạn thân, một kỷ niệm quen thuộc, rất gần gũi, rất tự nhiên mà mình đã có và vô tình quên khuấy đi mất. Ừ nhỉ, đời sống bên này với những bận rộn, hối hả từng ngày, đôi khi có ai tình cờ nhắc đến những người bạn nào đó đã có một thời thân thiết, giao thiệp qua lại với nhau thật lâu bỗng dưng “mất tích” không gặp nữa vì hoàn cảnh, công việc hoặc dọn đi xa, tôi vẫn mừng rỡ, háo hức, chờ được nghe thêm tin tức hoặc gặp lại. Huống chi là anh Nhiên, vừa là người anh, vừa là người bạn đời quá cố của đứa bạn thân thiết nhất của tôi từ dạo còn đi học cho đến giờ. Trong phút chốc, hình ảnh cao gầy, lỏng khỏng với hai cánh tay dài quá khổ hay quơ quơ để diễn tả và gương mặt cứ… nhăn nhó, bậm môi, mỗi khi nói chuyện với tôi của anh hiện ra, rõ ràng trong trí nhớ. Anh Nhiên và tôi đã có một thời gian thân thiết và cũng có một thời gian…thù nhau quá sức. Nhớ tới mối quan hệ rất ngộ nghĩnh, đầy “hỉ, nộ, ái, ố” của chúng tôi trong chuỗi ngày xa xưa ấy, tôi thật không biết phải vui hay buồn. Thời gian quả thật đáng sợ, mới đó mà anh mất đã 15 năm rồi. Lần này đến thăm anh, chắc chắn tôi có rất nhiều điều để nhắc nhớ.  


Khi Thủy bắt đầu quẹo xe vào cổng của nghĩa trang Peek Family, cái âm thanh náo động ngoài đường phố bỗng dưng chìm dần, rồi tắt hẳn. Trước mặt tôi là con đường nhỏ vòng theo những vòm cây rợp bóng mát, thinh lặng, nhẹ nhàng… Mặt đất là những thảm cỏ xanh mượt mà được chăm sóc cẩn thận. Ngồi cạnh Thủy đang chầm chậm lái xe đến chỗ an nghỉ của anh Nhiên, tôi thong dong ngắm nhìn một khoảng không gian an bình, thoát tục đang trải rộng quanh mình, chỉ có tiếng gió rì rào trên các tầng cây, tiếng xào xạc của những chiếc lá khô đang uốn mình trên mặt đất khi bánh xe nghiến lên. Không khí yên lành, thanh tịnh dễ khiến lòng người lắng đọng. Những lo buồn, ray rức của đời sống, của những ngày trước kia đã có bỗng dưng chìm xuống, ngủ yên. Tôi như lịm người đi với cái cảm xúc lạ lùng chợt ùa tới, cái cảm giác mà từ lâu tôi không có được… bình yên và thanh thản. Không thấy bóng người lai vãng, buổi trưa cuối tuần thế mà vắng vẻ quá! Dường như những người nằm đây đã bị đời lãng quên? Lâu lắm rồi từ ngày tiễn anh ra đến phần mộ trong nghĩa trang này, tôi chưa bao giờ có dịp để trở lại viếng thăm, kể ra là cũng quá tệ! Nhưng biết làm sao hơn? thôi thì nhờ Thủy hôm nay cho tôi cơ hội để được thăm lại người mà tôi đã từng xem như một người anh và có lúc đã xem nhau như “kẻ thù” (như tôi và anh đã từng nghĩ về nhau sau một trận cãi vã kịch liệt).


Tiếng Thủy kéo tôi trở về với thực tại:

-"Chịu khó đi bộ một chút nha nhỏ, mộ anh Nhiên ở trong kia, không cho xe vô được."

Tôi cười:

-“Ừ thì có dịp đi excercise một chút, có sao đâu!”.

Tôi xuống xe với một tâm trạng nao nức, kích động như sắp sửa đi gặp lại người quen đã lâu rồi…thất lạc. Hai đứa chia nhau cầm bó hoa, nhang và hộp quẹt bắt đầu lần bước tìm bia mộ anh Nhiên. Nghĩa trang ở đây không choáng đầy mắt với những ngôi mộ xây cất đủ hình đủ kiểu, chằng chịt như ở Việt Nam. Các ngôi mộ ở Mỹ đều giống như nhau. Một khoảng đất cùng kích thước, nằm san sát, có hàng lối rõ ràng, tấm bia được đặt nằm phẳng phiu ngay trên mặt đất, vì thế cũng khó mà định hướng mộ của thân nhân mình nếu không biết trước.    

Thủy nhắc tôi:

-“Coi chừng đạp lên mộ người ta đó nha, có khi mộ cũ quá rồi mày không thấy rõ cái mặt bia đâu.”

-“Ừ, tao biết mà.”

Tôi vừa đi vừa nhẩm đọc thử tên tuổi của những bia mộ gần bước chân mình nhất, có nhiều người chết thật trẻ, nằm bên cạnh những ông bà cụ tuổi thật cao. Nắng chói chan trên từng giòng chữ, trên những tấm ảnh đã phai màu với thời gian.

Chúng tôi dừng lại ở dưới một bóng cây với những tàn cao, to rộng, đầy bóng mát. Thủy nói:

-“Đây rồi, mộ của anh Nhiên may là được nằm ở chỗ này, có bóng mát lại cũng gần chỗ có nước, thoáng và lý tưởng, chứ mộ của ông Mai Thảo ở đàng kia, trơ trụi, không có cây cối gì cả nắng nóng cả ngày, mày ơi!”

Tôi rảo mắt nhìn quanh, cố nhớ lại hình ảnh của mười mấy năm về trước. Cũng nơi này, gia đình, bạn bè, người thân của anh Nhiên có mặt đông đủ lúc hạ huyệt, những nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, mà lần đầu tiên tôi mới gặp mặt đã đứng ở đây đọc điếu văn, chia buồn, nhỏ lệ xót thương. Chưa bao giờ tôi được thấy nhiều nhân vật nổi tiếng cùng một lúc như thế. Tôi nhớ là mình đã rất xúc động khi nghe ông Phạm Duy với mái tóc bạc trắng ngậm ngùi, từ tốn nhắc đến những kỷ niệm với anh Nhiên và những bài thơ mà ông đã phổ nhạc. Tôi nhớ ca sĩ Việt Dũng đứng ở góc kia và một số người nữa nhìn tôi với đôi mắt hiếu kỳ khi thấy Thủy cứ gục đầu vào vai tôi khóc nức nở. Chắc họ thắc mắc không biết tôi là ai và có quan hệ gì với gia đình người quá cố. Và nơi đây, mẹ anh là người cuối cùng sau khi xác thân anh đã thực sự được đặt yên dưới lòng đất lạnh, đã khóc than, hối tiếc về sự ra đi của đứa con mà đến bây giờ trước sự thương tiếc, quý mến của thân hữu, của mọi người đối với anh, bà mới nhận ra con mình quả là một “thiên tài” đích thực. Nơi đây, chỗ này đã chứng kiến giờ phút cuối cùng “nghĩa tử nghĩa tận” của anh đấy mà. Những cành hoa đã thay nhau rơi xuống, phủ đầy trên nắp áo quan, những giọt lệ đã cạn khô trên mắt người đưa tiễn. Anh đã thực sự đi vào cõi thiên thu. Nơi mà anh đã cảm nghiệm được và nói đến rất nhiều từ những bài thơ đầu tiên. Tôi nhớ sau tang lễ của anh, khi mọi người lần lượt ra về, tôi đã đứng trước mộ anh một hồi lâu, nhớ đến bài thơ “Thiên thu” nằm ở trang cuối cùng trong tập “Thiên tai”, một trong những bài thơ mà tôi rất thích ngay lần đầu đọc thơ anh, bấy giờ sao mà thấm thía:


“Sao thiên thu không là xa nhau?

nên mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu

tôi đứng như cây cột đèn gẫy gập

và một con đường cúp điện rất lâu.



Sao thiên thu không là chôn sâu?

nên nắng xưa còn hôn mái tóc nhầu

tôi đứng như  xe tang ngừng ngập

và một họ hàng khăn trắng buồn đau…

…………………………………….



Sao thiên thu không là thiên thu

Nên những người yêu là những ngôi mồ

tôi đứng một mình trong nghĩa địa

và chắc không đành quên khổ đau!”

                   

Quả thật, sau mọi linh đình đưa tiễn, anh đã ở lại một mình trong nghĩa trang này với những khổ đau, nghiệt ngã của cuộc đời đã được chôn vùi dưới lòng huyệt lạnh, đã cùng anh đi vào tận chốn thiên thu!  

Tôi lặng lẽ cắm hoa vào cái bình đã có sẵn ở trước mộ, Thủy đi lấy nước ở một cái vòi cách đấy vài mươi bước và trở về đổ đầy vào bình hoa, tôi ngạc nhiên nhìn Thủy tưới phần nước còn lại lên trên mặt tấm bia, nhưng ngay sau đó lòng lại xúc động, bùi ngùi khi thấy Thủy dùng cuộn giấy mang theo, từ tốn lau sạch đi những bụi cát đang phủ lờ mờ trên đó. Bia mộ anh là một phiến đá làm bằng lacquer đen bóng, sau những vệt lau của Thủy đã lại sáng như gương. Tấm ảnh của anh hiện ra thật rõ ràng ở trên góc trái cùng với phần đầu của bài thơ “Giữa trần gian tuyệt vọng” anh viết từ năm 1972 nằm ngay bên cạnh. Tôi ngồi xuống, đọc từng giòng thơ đã được viết với nét chữ khắc thật đẹp với lòng trân trọng pha lẫn xót xa:



“Ta phải khổ cho đời ta phải khổ

Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian

Phải đau theo từng hớp rượu tàn

Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định

(Vì thượng đế từ lâu kiêu hãnh

Cầm trong tay sinh tử muôn loài.      

Tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai

Thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)

   

Cũng khá thân và lại rất thích thơ anh Nhiên, nên hầu hết các bài thơ của anh tôi đều biết và thuộc lòng (hoặc ít nhất cũng vài đoạn trong mỗi bài). Riêng bài này, khi tình cờ  nghe lại, trích trong bài viết “Tìm ở sao trời” của Hoàng Mai Đạt đăng trong tạp chí Văn Học và được đọc một lần trên đài radio Little Saigon hồi đầu năm, tôi đã ngậm ngùi, chợt nhớ ra: anh Nhiên đã mất lâu lắm rồi! Nghe nhắc đến bài thơ đã buồn, giờ trông thấy, đọc lại càng buồn và thấm thía hơn! Anh làm thế nào mà có thể khẳng định rằng cuộc đời mình là “phải khổ” “phải ê chề” và nhất là “phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định” từ năm mới vừa 20 tuổi?

Thủy vỗ nhẹ vai tôi, đưa mấy nén nhang và dặn dò:

"Mày khấn xong rồi cắm cho anh Nhiên vài cây, còn lại chừa để lát nữa đem cắm ở những ngôi mộ khác nha"


Từ ngày qua Mỹ, thực sự tôi cũng rất ít, hay nói hẳn ra là không có dịp nào đi vào nghĩa trang thăm mộ người chết như thế này, trừ những lần đưa tiễn, cầu nguyện ở nhà quàn trước khi hạ huyệt, nên có Thủy nhắc nhở cũng đỡ phải lúng túng.

“Khấn gì đây? Liệu anh có còn quanh quẩn đâu đây để nghe tôi nói không?” Tôi với anh từ lúc mới quen biết đến khi anh mất đi, có lúc đã chuyện trò vui vẻ, đã “cãi vã” thật nhiều, có lúc lại không thèm nhìn mặt hoặc nói với nhau lời nào. Hơn nữa, tôi đã không gặp anh ít ra cũng gần ba năm trước khi anh mất, anh giận tôi đã không cho tin tức gì của Thủy, tôi giận anh đã đối xử với đứa bạn thân của tôi và là vợ con anh quá… hờ hững, vô tình! Và như thế chúng tôi cứ như là “ân đoạn nghĩa tuyệt” từ đó. Không ngờ, chỉ một thời gian sau, anh đã tự rời bỏ cuộc đời quá sớm và dễ dàng như những bài thơ anh đã viết vậy!



Tôi cầm mấy nén nhang, mắt đăm đăm nhìn vào di ảnh của anh, thì thầm những lời không chuẩn bị mà vẫn nói thật suông sẻ như là đang có anh trước mặt:

“Anh Nhiên à, chắc rằng ở chốn “miên trường, vĩnh cửu” nào đó, anh đã quên hết mọi thống khổ, lụy phiền của nhân gian, đã được hưởng sự an vui, cực lạc đời đời rồi. Mong anh cũng quên và tha thứ cho những gì anh em mình đã hiểu lầm, giận ghét nhau trong quá khứ. Hãy ngủ yên và thanh thản trong“cõi thơ” trên chốn thiên đàng của anh. Hãy phò trợ cho Thủy và các con anh, giữ gìn, nâng đỡ chúng để chúng khôn lớn, vững chãi, có sức mạnh, niềm tin mà vượt qua mọi thử thách của cuộc sống, đừng để chúng vấp ngã, trầy sướt và đau đớn nha anh.”

Mắt tôi bỗng nhòa đi với ý tưởng là tôi đã nói được điều mình muốn nói với anh mà trước kia đã không có dịp. Lời xin lỗi rất chân thành. Dù gì tôi, Thủy và anh cũng có cái “duyên” với nhau trong một khoảng đời dù không dài lắm nhưng cũng không thể gọi là ngắn ngủi. Và cứ thế, những hình ảnh xa xưa bỗng quay về trong ký ức thật nhanh như những đoạn phim rời vừa được ráp nối.  

       

Tôi nhớ lần đầu tiên, lúc anh vào lớp tôi để giới thiệu tập thơ “Thiên Tai”. Tôi đã ngạc nhiên vì không biết tại sao một nhân vật…tầm thường của trường mình, người vẫn có tiếng là “gàn”, thậm chí còn bị cho là “khùng” như anh mà lại biết… làm thơ và lại còn… dám in thơ đem bán nữa. Vì tò mò, tôi đã lật xem thử vài bài trong tập thơ và không ngờ bị lôi cuốn ngay với “Bài thấm mệt đầu tiên”, “Nên sầu khổ dịu dàng”, “Linh mục”, “Nên thời gian ấy ngùi trông”… tôi đọc say sưa, đọc mãi cho đến bài cuối cùng “Thiên Thu”, và như người vừa nhận ra mình đang cầm một “báu vật” trên tay, không thể nào để mất, tôi mua ngay một quyển dù lúc đó giá tiền của tập thơ không phải là nhỏ đối với tuổi học trò lớp mười của tôi. Tôi đem về nhà đọc đi đọc lại mãi những bài thơ của anh, bắt đầu thán phục về “tài làm thơ”, về sự liên tưởng, lý luận để bày tỏ, diễn đạt tâm tình một cách thật đơn sơ, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc qua việc sử dụng từ ngữ mới lạ, độc đáo của anh. Những hình ảnh rất dung dị, bình thường của đời sống qua thơ anh bỗng trở thành đẹp đẽ, ý nghĩa hơn. Tôi thật sự ngạc nhiên và thích thú với sự so sánh của anh trong “Bài thấm mệt đầu tiên”:



“Tình mới lớn phải không em rất thích?

Cách tập tành nào cũng thật dễ thương

Thuở đầu đời chú bé soi gương

Và mê mải dĩ nhiên làm lạ.



Tình mới lớn phải không em rất lạ?

Cách tập tành nào cũng ngượng như nhau

Thuở đầu đời chú bé ôm phao

Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước.



Tình mới lớn phải không em rất mỏng?

Cách tập tành nào cũng dễ hư hao

Thuở đầu đời cầm đũa thấp cao

Và nâng chén, dĩ nhiên, đổ vỡ…”



Cũng nhớ, trong tập “Thiên Tai” bài "Phác họa" thật ngắn với một câu đã làm tôi sững sờ và có ấn tượng mạnh mẽ về con người của anh là:

“Tôi không đủ kiên nhẫn để đọc hết một quyển truyện dài, vì truyện dài không thể đọc vội vã. Người chắc cũng không đủ kiên nhẫn để yêu tôi vì tôi còn dễ chán hơn truyện dài. Tôi là một kịch bản trường thiên!”

Anh đã tự thu mình lại, khiêm nhường đi, chọn cho mình con đường cam phận, chịu thua thiệt, hay dùng đó để xác định rõ về bản tính, về chủ năng của chính mình, một “thiên tài” không dễ ai hiểu biết và cảm thông?

 

Từ đó, anh được tôi xem như là một nhà thơ trong danh sách “thần tượng” của thơ với ngôn ngữ mới lạ. Sau, nhờ chị Duyên, nhân vật trong bài thơ “ Khúc tình buồn”, được Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát “Thà như giọt mưa”, tôi lại có “duyên văn nghệ” được anh cho mượn phụ bản “Duyên”  trong tập thơ “Thiên Tai” để làm bìa tập thơ “Tuyên ngôn 15”cho chính tôi và Ngọc Yến, một cô bạn cùng lớp. Thủy bị tôi rủ đi theo gặp anh mấy lần để lấy và trả tập bản kẻm, thì lại mắc vào một cái duyên khác “duyên nợ ba sinh” với anh sau này. Thật tình, lúc đó anh làm tôi rất cảm động vì thấy “nhà thơ lớn” mà sao lại dễ dãi với “đàn em nhỏ” như tôi mượn gì là được nấy. (Chắc tại nghe tôi khoe là “em nuôi” của chị Duyên?). Về sau, tôi còn… khám phá ra do gia đình có quan hệ dây mơ rễ má thế nào đó, mẹ của anh gọi ba tôi bằng cậu, tức là tôi tới vai “dì” của anh Nhiên lận. Chao ôi, thật là oai ghê!



Nhưng thú thật, anh có một cái tật mà tôi rất… kỵ là mỗi khi lỡ nói gì trái ý là anh chau mày, bậm môi, đôi mắt cúi gầm xuống, hai bàn tay chập vào nhau chống trước trán, lầm lì không nói gì hết cho đến lúc… bỏ đi.  Có lúc tức quá, tôi bảo Thủy: “Ông này cứ làm như đang đóng kịch vậy đó mầy ơi!... thấy ghét!”. Thủy rất hiền, nhút nhát, ít nói, nên cô nàng chỉ cười lặng lẽ, không ý kiến. Cũng vì tính tình như vậy nên thư tình, quà cáp gì của anh Nhiên gửi cho Thủy sau này cũng một tay tôi chuyển giúp. Cứ tan trường, hai đứa đi bộ về nhà chỉ cần nhác thấy bóng chiếc Honda của anh Nhiên sắp lạng tới là Thủy đẩy tôi ra phía ngoài để nó đi bên trong, tránh nói chuyện hay nhận thư, quà từ anh. Vừa sợ vừa muốn cho xong, nên tôi cứ nhận đại rồi đưa qua cho Thủy ngay sau khi anh đã phóng xe đi mất. Thủy vừa nhận vừa phản đối nên tôi cũng không biết rõ cô nàng có… chịu chàng hay là không. Nhưng tôi thì thấy vui lắm vì nghĩ rằng mình đang làm chứng nhân cho một mối tình cũng lãng mạn quá đấy chứ. Cũng nhờ vậy mà có lần tôi được “ăn theo” với Thủy, lần đó, anh Nhiên rà xe cạnh tôi dúi nhanh một cái bọc và nói trước khi phóng xe đi: “Thuốc… bổ óc đó, một cho Dung, một cho Thủy, ráng uống để mà thức học bài thi”. Tôi đưa cho Thủy bọc thuốc, cảm động một chút, vui vui một chút, coi vậy mà anh chàng cũng… biết điệu quá đó chứ! Lúc ấy, anh Nhiên đã bắt đầu thân thiết với tôi, thỉnh thoảng cứ chạy xe đến nhà tôi đưa thư, kể lể mọi chuyện… Có một hôm, đang ngồi trong nhà tự dưng thấy anh chạy xe đạp xồng xộc tới, vừa dựng xe, vừa thở hào hồn kể cho tôi nghe chuyện “gây gỗ” giữa anh với anh T., em của chị Duyên, mới vừa xảy ra ở quán cà phê gần nhà tôi. Câu chuyện bắt đầu từ bài viết “Hột mè” của anh đăng trên báo Văn thì phải? Anh nói: “Thằng T. nói anh viết bài này “chửi” chị nó độc quá, nên nó tức đòi đánh anh…”. Tôi có đọc qua bài đó nên cười an ủi: “Anh viết cũng nặng tay lắm chứ bộ. Anh T. tức là đúng rồi. Thôi ai biểu viết mà chọc giận người ta làm chi. Chửi người khác mà anh vui sao?” Trước khi ra về anh còn nói như thật: “Lần sau, anh không có nhịn đâu.”. Tôi cười vì biết tính anh nói thì… dữ nhưng chẳng làm gì hại ai cả. Chắc cũng vì chuyện này mà thời gian sau anh đã viết “Bài tạ lỗi cùng người” có những câu thật cảm động:



“Năm năm trời… ta làm tên quái đản

Cầu danh trên nước mắt người tình

Năm năm trời có nhục có vinh

Có chua, chát, ngọt, bùi, cay, đắng…

Có hai mái đầu chia nhau thù oán

Có thằng ta trút nạn xuống vai em!

Năm năm trời …có một tên Duyên

Ta ca tụng rồi chính ta bôi lọ

Tình ta đẹp nhưng tính ta còn nít nhỏ

Nên lỗi lầm đã đục màu sông

Nếu em còn thương mến tuổi mười lăm

Xin nuốt hận mỉm môi cười xí xóa

Hồn ta đẹp nhưng đời ta thảm quá

Nên tị hiềm nhen nhúm giữa ngây thơ

Nếu em còn chút đỉnh mộng mơ

Xin rộng lượng thứ dung người lỡ dại.”



Tôi dạo ấy cũng… hơi lo dùm cho Thủy, Thủy học rất giỏi, giỏi nhất trường, xinh xắn, tài năng toàn diện, ai cũng quí mến, còn cái ông nhà thơ này sao ngày nào cũng đón đường, tỏ tình, tỏ ý với Thủy mà làm thơ thì cứ thấy ca tụng hết cô này đến cô khác. Vậy thì thương thiệt hay giả đây?

Cho nên, đến khi Thủy năn nỉ nhờ tôi mang trả lại hết quà cáp, thư từ cho anh Nhiên, tôi đã…ngây thơ thương bạn, nhận lời mà có biết đâu tự mình đi đón nhận phong ba bão tố. Sau khi biết tôi mang mọi thứ đi trả giùm cho Thủy, anh Nhiên đã mắng tôi và đổ thừa tại tôi…xúi Thủy tuyệt tình với anh. Tôi tức điên lên và cãi với anh một trận tơi bời hoa lá. Anh giận tôi đến độ còn dọa sẽ viết một bài… chửi tôi trên báo để cho tôi biết tay anh. (May là chắc anh nghĩ lại, thấy “tội” của tôi còn nhẹ hoặc biết là không có tội gì hết, nên không có bài nào nêu đích danh tôi để… trả thù, trừ một câu trong bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” đã ví tôi là “quỷ sứ” mà sau này qua Thủy tôi mới biết. Đó là câu: “Lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân. Phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ” Chứ nếu không chắc tôi cũng đã được anh đưa vào… văn học sử bằng một ngõ… tối tăm rồi!). Bài thơ “Kẻ tự đóng đinh tim” anh viết với những lời rất ngông ngạo mà cũng rất… thê lương, tội nghiệp, khiến tôi dù biết là hình ảnh của mình có trong bài thơ này cũng chẳng… đẹp đẽ gì nhưng qua cách dùng từ ngữ rất tự nhiên, tượng hình và gợi cãm của anh trong một số đoạn đã khiến tôi xúc động, khó quên:



“ Vì chẳng được cầm tay nhau kể lể

nên chuyện tình cứ thế, thảm hơn

Chúa cũng cau mày ngắm nỗi cô đơn

của một kẻ đóng tim mình trên thập giá!

…………………………………………

chiều em đi học về, thơm tóc thả

áo suông eo trinh bạch cả giáo đường

ta ngọt ngào gọi khẽ, người đi luôn

nên lũ thiên thần bỗng nhiên thất chí

bay xuống trần gian làm thi sĩ

nâng Thánh Kinh mà hát thơ tình

có con chiên nào thoáng ngạc nhiên

rồi lại đắm chìm trong vần nhã nhạc...

…………………………………………

chiều em đi học về, chim trắng bước

ngang giáo đường nhòe nhoẹt màu vôi phai

có động lòng xin hãy rút khăn tay

lau giùm mắt kẻ xương bày trên thánh giá

là ta đó, em ơi, đang tầm tã

mưa đầy hồn đau đớn thương thân

lỡ yêu tín đồ phải chấp nhận gian truân

phải muối mặt giao du cùng quỷ sứ

tính nhân hậu đã hồi nào hóa dữ

chỉ vì em lành lặn quên chàng

chỉ vì em... gõ nhẹ cửa thiên đàng

bình thản gửi cho hai hàng bím tóc!

………………………………………..

ta phải chết cho Nước Trời thịnh vượng

cho thánh thần chúc phúc bình an

cho em còn mãi mãi dịu hiền ngoan

mà hãnh diện có thằng đen đúa

luôn nhăn nhó mặt mày chê Chúa khó

nhưng cắn răng không hở miệng trách em!”



Từ đó, tôi với anh Nhiên bắt đầu một mối thù… không tên, và cứ mỗi khi Thủy nhắc tới anh Nhiên là tôi tha hồ mà… đay nghiến. Lúc này, tôi đã thực sự giận ghét anh Nhiên và muốn cho Thủy đừng thèm “mềm lòng” với cái anh chàng nghệ sĩ tài hoa mà gàn dở này nữa.

Nhưng khi đọc bài thơ“Thục Nữ”, là bài đầu tiên anh Nhiên viết cho Thủy, với hình ảnh Thủy trong thơ và Thủy ngoài đời là một, rất thật, rất dễ nhận ra với tóc bính, nón lá, hài nhung, mảnh mai, nhẹ nhàng, vô cùng thục nữ đã làm tôi xúc động:

 

“Chiều em đi hai hàng bính tóc

Gieo xuống đôi vai nhỏ thiệt thà

Còn bao nhiêu dấu hài khuê các

Sao đành gieo xuống phố đời ta?



Chiều em đi nón lá che nghiêng

Sao đành che mất nụ cười duyên?

Mây vẫn chưa về gom bớt nắng

Trần ai đông lắm kẻ si tình.



Chiều em đi trong nắng trời tây

Bóng đổ lênh đênh – bóng đổ gầy

Bóng đổ gầy như ta ốm yếu

Đeo đẳng hoài theo tình không may



Chiều em đi bước ngại bước ngùng

Như sợ làm đau ngọn cỏ nhung

Như sợ bay lên từng đóa bụi

Sao khách tài hoa nát cả lòng?



Chiều em vui quá thuở vàng son

Ta bỗng lang thang khắp ngả đường

Ta đi cho chết thời oanh liệt

Cho thấu một trời đau đớn riêng!”



Bài “Giữa trần gian tuyệt vọng” là bài thứ hai anh đã viết gửi cho Thủy với những lời bày tỏ chân tình, nhưng đã khiến cho Thủy. giận hờn, ấm ức nhờ tôi mang trả lại thư từ, quà tặng của anh và đã là nguyên nhân khiến tôi phải… rước họa vào thân. Đó là những câu:



“Ta vẫn nhớ trưa nào em ngồi hát

Ta vẫn thèm hôn lên mắt tiểu thơ buồn

Ta vẫn thèm ăn năn những lúc đón đường

(Em khó chịu… mà thư nào em cũng nhận)



Sau khi biết vì mình mà tôi và anh Nhiên đã không thèm nhìn mặt nhau nữa, thì Thủy ít nhắc nhở tới anh hơn và lặng thinh mỗi lần nghe tôi kể tội anh đã mắng nhiếc, sỉ vả tôi như thế nào. Anh Nhiên thì phải tự động tìm cách để…  nối nhịp cầu tri âm với Thủy một mình vì không còn cái nhịp cầu mang tên…Dung nữa.

Mãi cho đến một buổi chiều kia, tan học về, Thủy báo cho tôi biết: “ Ông Hải (tôi và Thủy vẫn quen gọi anh bằng tên thật là Hải, dù anh đã nổi tiếng và mọi người luôn gọi anh bằng tên Nguyễn Tất Nhiên) nói chiều thứ Sáu hàng tuần có chương trình giới thiệu nhạc mới ở radio, thứ Sáu này nhớ đón nghe vì sẽ có bài thơ “Hai năm tình lận đận” ổng làm cho tao được Phạm Duy phổ nhạc, hát lần đầu.” Tôi nhìn Thủy ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Ông này coi vậy mà cũng… khôn, biết cách giải mã “độc đáo” thiệt, như thế này thì Thủy có… chạy đàng trời.” Tôi tuy còn ấm ức vì… mối hận lòng, “oan âm Thị Kính” vẫn còn đầy ứ mỗi khi nhớ tới, nhưng cũng thấy vui và hãnh diện lây với bạn. “À há, như vậy mi đã bắt đầu được đi vào văn học sử rồi đó nha”. Cũng nhờ vậy, chiều thứ Sáu đó, tôi đã được thưởng thức trọn vẹn bài hát “Hai năm tình lận đận” với âm điệu nhẹ nhàng, buồn rầu đến tội nghiệp qua tiếng hát dễ thương, nồng nàn của Duy Quang:



“Hai năm tình lận đận

Hai đứa cùng xanh xao

Mùa đông hai đứa lạnh

Cùng thở dài như nhau.



Em không còn thắt bính

Nuôi dưỡng thời ngây thơ

Anh không còn lýnh quýnh

Giữa sân trường trao thư



Hai năm tình lận đận

Hai đứa đành xa nhau



Em vẫn còn mắt liếc

Anh vẫn còn nôn nao

Ngoài đường em bước chậm

Trong quán chiều anh ngóng cổ cao.



Em bây giờ có lẽ

Toan tính chuyện lọc lừa

Anh bây giờ có lẽ

Xin làm người tình thua.

…………………………

Hai năm tình lận đận

Em đã già hơn xưa!”



Tôi đã bật cười khi nghe Thủy kể lại, hai câu cuối của bài thơ này đã làm… động lòng Lâm Diễm, một đứa bạn cùng lớp với chúng tôi, khi nó đọc thấy bài thơ đăng trên báo trước khi được phổ nhạc. Diễm vào lớp báo ngay với Thủy: “Thủy ơi, ông Hải làm thơ chê mày… già”.

Sau khi nghe bài hát này tôi thầm nghĩ, Thủy đã không thể thoát khỏi lưới tình nữa rồi. Thủy vốn yêu thích thơ văn, cũng như tôi và số đông bạn bè cùng lứa lúc ấy, rất hâm mộ thơ Nguyễn Tất Nhiên, Thủy đã được làm “nàng thơ” của thi sĩ, nay lại được dòng nhạc của Phạm Duy đưa hình ảnh “thắt bính” của mình chắp cánh bay xa. Còn gì hơn! Nhưng chúng tôi không có thời giờ để hỏi han những chuyện vớ vẩn nào khác nữa. Tất cả thời gian còn lại là học thi, thi Tú Tài II. Tôi quên bẵng đi chuyện tình của anh Nhiên và Thủy để lo học.

Rồi đến lúc lên Sài gòn vào đại học, tôi và Thủy lại cùng ở trọ với nhau, chắc Thủy nghĩ là tôi còn giận anh Nhiên lắm, vì mỗi lần Thủy nhắc tới anh là cứ nghe tôi châm chọc: “ông ấy là ai? tưởng mình là nhà thơ lớn… ngon lắm hở?”. Không nhớ tôi có nói gì nặng hơn nữa không mà Thủy càng ngần ngại, dè dặt tránh nói về anh trước mặt tôi. Tôi học bên Văn Khoa, Thủy học ở Đại học Vạn Hạnh, bên kia cầu Trương Minh Giảng. Bởi thế, bài “Chở em đi học trường đêm” có đoạn:



“Chở em đi học mưa, chiều

Tóc hai đứa ủ đôi điều xót xa

Mưa thánh thót, mưa ngân nga

(hình như có bão băng qua thị thành)

……………………………………

Đèo nhau qua đoạn đời này

Cầu Trương Minh Giảng nghe đầy hoàng hôn...”

 

Tôi cứ tưởng là viết cho Thủy, nhưng sau này khi hỏi lại, Thủy nói: “ổng viết cho… con nhỏ khác mày ơi!”. Tôi giật mình và cảm thấy bất mãn vì nghĩ rằng các ông văn thi sĩ chắc không chỉ có bốn ngăn tim, nên mới có thể chứa đựng được một lúc nhiều hình bóng đến như vậy! Bài “Thơ khởi tự mê cuồng” anh viết năm 74, mới là bài anh viết cho Thủy, nên vẫn thấy bóng dáng Thủy đâu đó, mặc dù lúc này Thủy và anh đã không còn liên lạc với nhau.



“Trời mưa, không lớn lắm

nhưng đủ ướt đôi đầu!

Tình yêu, không đáng lắm

nhưng đủ làm… tiêu nhau!



Đường người, vui có chăng

ta trùng điệp u buồn

nhớ ai mà tóc rụng

ngóng ai muốn đục tròng.

…………………………

Đường người, đau có chăng

em tính còn ham chơi

lưng ngoan dòng tóc bính

môi trinh non thích cười

Chiều chiều hay giỡn nắng

tình trôi kệ tình trôi…”



Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi chia tay nhau, Thủy tiếp tục học và về làm việc ở Biên Hòa. Tôi thì lưu lạc đến Long Thành làm nghề “gõ đầu trẻ”. Công việc bận rộn nên chúng tôi cũng liên lạc ít hơn. Thủy và tôi chỉ thỉnh thoảng gặp nhau trong những ngày cuối tuần khi tôi trở về nhà.

Tôi không biết rõ mối quan hệ của anh và Thủy bắt đầu lại từ lúc nào, mãi cho đến khoảng giữa năm 78, một hôm, Thủy đột ngột đến tìm tôi vào buổi trưa, chúng tôi kéo nhau lên lầu nói chuyện. Thủy ngần ngại, rào đón một lúc lâu mới báo tin là sắp đám hỏi với anh Nhiên. Thấy tôi lặng thinh, Thủy hỏi: “Mày bất ngờ không?... thất vọng không?”. Tôi biết Thủy vẫn còn nhớ “mối thù” của tôi với anh Nhiên lúc trước, nên cười và lắc đầu: “Chuyện cũ, chuyện nít nhỏ, tao quên rồi. Đừng nhắc tới nữa. Vậy là “Ngày mai trong đám xuân xanh ấy, có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi” rồi. Mày có cần gì tới tao không?” Thủy thở phào nhẹ nhõm: “Có chứ, mời mày tới dự đám hỏi, nhớ tới sớm sớm để phụ tao nha nhỏ.” Không hiểu sao lúc đó, tôi vừa mừng lại vừa lo cho Thủy, Thủy dịu dàng, yếu đuối và sống “kín cổng cao tường” trong mái ấm của đại gia đình từ bé, còn anh Nhiên, đời sống luôn quay quắt với dư luận khắc nghiệt và lang bạt kỳ hồ, như trong thơ anh vẫn thường khẳng định: “ Em có một đời rong xanh mơ đá. Tôi có ngàn năm say khước hận thù”(Bài thấm mệt đầu tiên) hay “Chim trong tổ biết chi đời giông bão. Em con cưng nào biết tuổi lưu đày” và “Em gia giáo phải lòng anh lang bạt” (trích Uyên Ương). Liệu Thủy sẽ được bình yên, hạnh phúc hay sẽ lao đao với sóng gió cuộc đời?  

Thời gian này, bài “Nụ hôn đầu” với những câu:



“Gian truân lắm mới hôn người

Chiếc hôn tình lớn đem đời theo nhau.

………………………………

Hôn em chấn động đầu đời.

Chiếc hôn tình lớn kiếp người đôi giây.”



Và “Cuối tháng Tám”, không hiểu đã cảm nhận được điều gì mà cả hai bài thơ của anh viết cho Thủy đầy những lời ăn năn, thống hối:



“Khổ đau oằn nặng sinh thời

yêu ai tôi chỉ có lời thở than,

có môi hôn trộm vội vàng

khiến em hoảng hốt trong cơn tình đầu

nụ cười giữ được bao lâu

nhân sinh là một dòng sầu miên man

sông dài rồi cũng chia phân

tình bao nhiêu lớn cũng tàn phai thôi

Tôi đam mê siết thân người

hay đâu tảng đá đeo đời trăm năm.

Em gầy guộc, em mong manh

Em chưa đủ sức long đong cùng chàng

Em ngây thơ đến rỡ ràng

Em chưa đủ lượng khoan hồng thứ dung

Em tội nghiệp, em tủi thân

Em chưa tự chủ kíp nhăn lệ tràn

Lôi người té sấp gian nan

Lỗi tôi, ừ đó, muôn phần lỗi tôi.”



Đến ngày đám hỏi của Thủy và anh Nhiên, tôi mới biết chỉ có tôi là đứa bạn duy nhất được Thủy mời trong đám đông của gia đình hai họ.

Lần gặp lại đầu tiên sau mấy năm không nhìn mặt nhau ở đám hỏi, được coi như là một nhịp cầu nối lại mối quan hệ giữa tôi và anh Nhiên. Anh tỏ vẻ quí mến tôi hơn và thỉnh thoảng hay ghé nhà tôi để hỏi thăm hoặc nhắn tin cho Thủy



Có một chuyện khiến tôi cảm động và nhớ mãi là một buổi trưa vừa từ trường về nhà trọ sau mấy giờ dạy, thay chiếc áo dài xong thì nghe tiếng gõ cửa và sau đó là giọng của Thảo, chị bạn cùng nhà gọi : “Dung ơi, có ai kiếm kìa.”. Nhà chúng tôi ở là một căn biệt thự khá lớn của một chị bạn dạy cùng trường, mấy ngày trước 30 tháng 4, chợ Long Thành bị pháo kích, sập gần hết, nhà chị cạnh đó nên cũng bị một quả ngay vào giữa, căn nhà như bị cắt ra làm đôi. Phần phía trước chỉ còn cái mặt tiền và khung cửa sắt là nguyên vẹn, hai phòng phía sau, sâu vào trong, nơi không bị hề hấn gì, là nơi mà nhóm giáo viên chúng tôi chia nhau ở, được nối bằng một khoảnh đất nhỏ mà trước đó dùng để trồng hoa kiểng và một cánh cửa lớn bằng gỗ. Tôi vội chạy lên và ngạc nhiên khi thấy anh Nhiên đứng sừng sững ngay khung cửa với chiếc xe đạp bên cạnh. Anh nhìn tôi đang ngó anh trân trối, nhe răng cười hỏi: “Sao? không mời vô à?” Tôi vẫn chưa hết ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. “Ủa, anh đi đâu đây? Sao biết Dung ở chỗ này?” Anh dựng xe sang bên, một tay giở nón, một tay lau mồ hôi trán và nói: “Nghe Thủy nói Dung dạy học ở trường Long Thành, nhà anh có rẫy cũng gần đây, sẵn đi ngang ghé vô trường hỏi, họ nói Dung mới đi về, rồi chỉ nhà cho anh đó chứ.” Tôi mời anh vô trong uống nước và giới thiệu với chị Thảo: “Anh này là thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên đó!”. Chị Thảo tròn xoe mắt nhìn anh: “Vậy hả? Trời ơi, nghe tiếng quá chừng mà bây giờ mới gặp đó nha.”. Anh Nhiên chỉ cười và không nói năng gì. Hỏi thăm nhau được một chút, anh từ giã ra về còn hỏi tôi: “Dung có cần nhắn gì về nhà không? anh ghé qua nhắn cho”. Bỗng dưng tôi nhớ tới chục ký gạo vừa đươc lãnh sáng nay ở trường theo tiêu chuẩn công nhân viên nhà nước, và tôi đã làm một việc vô cùng tệ hại mà sau này lúc kể cho Thủy nghe hoặc nhớ tới, tôi vẫn còn áy náy và rất xấu hổ là : “Anh Hải chở dùm bao gạo này ghé qua nhà đưa cho má Dung được hông?”. Tôi thấy đôi mày anh cau lại, trán nhăn nhăn, môi mím chặt, nhưng cũng gật đầu: “Ừ, thì để anh chở cho”. Tôi giúp anh khuân bọc gạo lên để phía sau “bọoc ba ga”, cột giây cẩn thận, cám ơn anh, chào tạm biệt và… tỉnh bơ, mãi cho đến khi đưa anh ra tới cửa ngoài thấy anh bắt đầu gò lưng trên chiếc xe đạp tôi mới giật mình. Tiếng chị Thảo phía sau tôi vang lên: “Trời ơi, mày ác quá trời đi người ta tới thăm mà còn bắt chở bao gạo về dùm nữa, nặng lắm đó, một chút lên tới dốc 47 làm sao ổng lên nổi.!” (Dốc 47 là cái dốc rất cao ở gần ngã ba Thái Lan giữa đường đi Biên Hòa và Long Thành). Tôi mới bắt đầu hối hận và thấy mình… vô duyên quá đỗi!          



Cứ tưởng mọi việc sẽ được tiến hành êm đẹp như đã định, Thủy và anh Nhiên sẽ làm đám cưới cuối năm đó. Nhưng không ngờ, bao ngang trái cuộc đời không hẹn mà cứ đến đe dọa cho mối tình của hai người, lý do từ việc có nhiều dư luận về anh Nhiên đã đến tai gia đình Thủy. Lúc này, tôi đã đổi về Biên Hòa để đi học lại, nên Thủy thường gặp tôi sau những giờ làm việc, tâm sự, thở than về những ngăn cấm của gia đình và đôi khi nhờ tôi làm “bình phong” để Thủy và anh Nhiên hẹn hò nhau.



Bài “1978 ở Việt Nam” chắc anh đã viết trong lúc tâm trạng u uất, chán chường về sự đổi thay của xã hội lẫn hoàn cảnh riêng tư của chính mình:



“Phu thê nếu phải nợ rồi

Thì tôi đâu ngại ngỏ lời yêu em



Như con chim mới tập chuyền

Bâng khuâng gấm lụa thánh hiền em ra

Mặt trời rực rỡ phương xa

Ở đây hạnh phúc chỉ là đau thương.

…………………………………



Phu thê nếu đã buộc ràng

Thì xin nhẫn nhục cưu mang vợ chồng

Tôi, quanh năm sống hoang đàng

Cũng xin nhỏ lệ hoàn lương khóc tình!



Rồi đến bài thơ “Uyên Ương” với những câu thật não lòng:



“Có những chiều ta muốn hôn em, rồi khóc

Mùa bình an nào chờ đợi uyên ương?

Nhớ hôm xưa em mảnh khảnh tan trường

Hương trinh khiết ngây ngây chiều nắng lụa.

………………………………..

Nhớ hôm xưa em bình minh thiếu nữ

Môi vô tư chưa bợn nhuốm hơi người

Tay măng tơ chưa vọc nước dòng đời

Tóc bính thảnh thơi chưa phiền khói thuốc



Ta lẽo đẽo theo tình ê ẩm bước

Để chiều về nhẹ thấm thía gian nan!

Nhớ hôm xưa em mơ mộng nhẹ nhàng

Hay hát khẽ đôi bài tình man mác.



Chim trong tổ biết chi đời giông bão

Em con cưng nào biết buổi lưu đày…”



Nhưng rốt cuộc, Thủy đã quyết định cùng với gia đình anh Nhiên rời khỏi Việt Nam cuối năm 78, sau những tháng ngày dài nổi trôi cùng vận nước và cả vận mệnh của chính mình. Một năm sau, tôi mới nhận được lá thư đầu tiên có kèm theo hai tấm hình của Thủy và anh Nhiên chụp ở vườn Luxembourg trong mùa thu, đầy lá vàng, lãng mạn, tuyệt đẹp, mới biết là hai người đã định cư ở Pháp. Nhờ địa chỉ đó nên tháng tư năm 81, sang đến đảo Ga Lăng, Indo, tôi đã liên lạc được với Thủy. Không ngờ, Thủy vẫn  nhớ và gửi quyển “Thơ Nguyễn Tất Nhiên” gồm những bài từ tập “Thiên Tai” và những bài thơ sáng tác từ 1970 đến 1980, đã được ấn hành lại ở Pháp, làm quà sinh nhật cho tôi trên đảo. Tập thơ này quả là một món quà vô cùng quí báu lúc bấy giờ đối với bọn chúng tôi gồm một đám thanh niên cùng mê thơ Nguyễn Tất Nhiên, cả mấy tháng trời, đêm nào cũng mang ra vừa đọc vừa bàn luận, thật sôi nổi, hào hứng.

Đến tháng mười, tôi được các em bảo lãnh sang Mỹ, về ở Missouri. Anh Nhiên và Thủy cũng đã dọn về Cali từ tháng tư.



Chúng tôi thư từ, điện thoại thăm hỏi nhau nhưng vẫn chưa gặp mặt, Thủy và tôi cùng bận rộn với đời sống mới mà lại ở xa nhau, nên ngay cả đám cưới tôi tổ chức ở Utah, Thủy cũng không có dịp sang dự. Cho mãi đến hôm tôi sinh cô con gái đầu lòng khoảng một tuần, thì Thủy gọi phone báo tin là sẽ đi xe bus Greyhound sang thăm tôi. Đó là lần đầu tiên tôi gặp lại bạn sau 6 năm
Về Đầu Trang
buihongloan
Niên Khóa 1970-1975


Ngày tham gia: 01 Aug 2008
Số bài: 488

Bài gửiGửi: Fri Mar 28, 2014 6:03 am    Tiêu đề: Tưởng Dung - SAO THIÊN THU KHÔNG LÀ...(t.t)

xa cách. Thủy không thay đổi tí nào, vẫn dáng dấp học trò, vẫn gầy gầy, nhỏ nhắn, gương mặt, nụ cười vẫn hệt như thời còn đi học, mặc dù bây giờ đã có thêm hai chú nhóc, Tí Anh đã ba tuổi và Tí Em sắp lên hai, lúc nào cũng quấn bên chân mẹ. Trong dịp này, Thủy đã kể cho tôi nghe hết về cuộc sống từ ngày rời VN, với những ngày đầu vất vả nhưng hạnh phúc ở Pháp, đến những khi sóng gió vì đời sống nghệ sĩ lang bạt, bất đắc chí của anh Nhiên ở Mỹ, cả đến những cay đắng mà Thủy phải chịu đựng để chu toàn cái hình ảnh của “một người vợ, một người đàn bà thuần túy Á Đông, chỉ biết phục tùng chồng và tuyệt đối không nên để ý hoặc thắc mắc gì về những quan hệ công việc bên ngoài của chồng.” mà anh Nhiên vẫn luôn nhắc nhở Thủy mỗi khi có chuyện bất đồng. Tôi ngạc nhiên và không ngờ đứa bạn với bề ngoài yếu đuối như Thủy mà có thể chịu đựng được ngần ấy thứ đau khổ, trắc trở trong cuộc đời làm vợ của nhà thơ. Thủy nói lần này, sau khi trở về, hai người sẽ quyết định chia tay.




Thoạt tiên, tôi hơi ngỡ ngàng, nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai đứa bé đang hồn nhiên, quấn quýt bên Thủy, tôi giận anh Nhiên quá sức, tại sao có mái gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc thế này mà anh không chịu gìn giữ? Tôi muốn an ủi Thủy, nhưng an ủi thế nào khi tôi cũng không biết phải xử trí làm sao trong hoàn cảnh ấy. Thủy định là sẽ ở chơi với tôi đến hai tuần nhưng chỉ một tuần Thủy đã đổi vé về lại Cali, sau những cú phone dồn dập của anh Nhiên. Mấy hôm sau, Thủy gọi để báo tin là sóng gió đã tạm dừng, dù không biết là chàng sẽ giữ lời hứa đến bao lâu. Tôi mừng cho Thủy và thầm cầu nguyện cho cái tổ ấm của Thủy sẽ bình yên, sáng sủa hơn sau cơn bão tố vừa qua.




Năm 86, gia đình tôi dọn về Cali, căn nhà nhỏ của chúng tôi ở Gardena, thỉnh thoảng đón tiếp Thủy và hai cậu con trai đến chơi, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ thấy anh Nhiên đi cùng. Thủy tâm sự: “Tao chỉ là một người đàn bà bình thường, mơ có một mái ấm gia đình rất bình thường như những người đàn bà khác, nhưng với tao sao nó khó khăn, xa vời quá mày ơi!”. Nghe Thủy nói, tôi càng thấm thía hơn ý nghĩa của cái thuyết “Hồng nhan bạc phận”, của “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”, càng thấy xót xa và thương bạn hơn. Có lúc, tôi đã phải nói với Thủy: “Tao thì chỉ biết “yêu thơ” thôi chứ không có “can đảm” để “yêu nhà thơ” như mày, sao mà khổ quá đi!”

Từ lúc sang Mỹ dù đã xuất bản được tập thơ “Chuông mơ” (1987), “Tâm Dung” (1989) và cả việc sáng tác nhạc để ra đời băng nhạc “Tình khúc Nguyễn Tất Nhiên” nữa, nhưng anh vẫn là một người “bất đắc chí”, cay đắng với cuộc đời, hờ hững với trách nhiệm gia đình và đó có phải là nguyên nhân khiến anh trở thành một con người khác, một hình ảnh bất toàn hơn trong đời sống gia đình chăng?



Có lẽ vì biết quá nhiều về những bất hạnh từ đầu của hai chữ “nợ duyên” giữa anh Nhiên và Thủy, nên tôi đã đứng về phía bạn khi Thủy dứt khoát đoạn tuyệt với những khổ đau, oan nghiệt của quá khứ, hiện tại và có thể sẽ mãi còn tiếp diễn ở tương lai để chọn một cuộc sống bình an hơn cho Thủy và nhất là hai đứa con, nên tôi đã lặng thinh khi anh Nhiên gọi tôi để hỏi về tung tích của Thủy. Và đó là lần thứ hai, tôi lại bị anh mắng nhiếc thậm tệ, bằng những lời nhắn nặng nề trên máy answering. Lúc đó, tôi nghĩ, cứ để cho anh nghiền ngẫm, rồi tỉnh thức, nhận ra và biết quí báu những gì mình đã có, ân cần với đời sống và trách nhiệm hơn để có thể định hướng lại tương lai của mình. Nhưng không ngờ, anh đã quá yếu đuối và dễ tuyệt vọng đến độ phải chọn sự kết thúc bi thảm đến vậy! Lúc nghe tin anh mất, là lúc tôi đang trong giờ lunch ở một hãng điện tử. Sửng sốt, kinh ngạc… tôi nuốt không trôi miếng cơm còn đang nhai dở trong miệng. Tôi muốn về nhà ngay để gọi cho Thủy…



Thời gian qua nhanh như cơn gió thoảng, mới đó mà đã mười mấy năm. Cuộc sống vẫn nối tiếp với những định mệnh đã được an bày. Các con anh nay đã khôn lớn, trưởng thành. Thủy đã tìm được bờ bến bình yên và đang có một đời sống hôn nhân hạnh phúc, điều mà trước kia tưởng chừng sẽ không bao giờ có được.



Giờ đây, dưới những tàn cây, bóng mát trong nghĩa trang này, tôi đến thăm mộ anh, thắp nén hương lòng hoài niệm về một thời quá khứ buồn nhiều hơn vui giữa chúng tôi, dù không biết rằng những việc làm trước kia đối với anh là đúng hay sai, nhưng tôi cũng muốn nói với anh lời tạ lỗi. Có những điều khi còn sống chúng ta chưa có dịp phân trần, tỏ bày cho hết thì đến lúc lìa đời, cũng xin được có cơ hội để hòa giải, thứ tha. Chỉ tiếc một điều là những câu thơ anh viết lúc còn trẻ, khi đọc lên cứ tưởng sẽ là “lá bùa hộ mạng” cho anh, đã không nâng đỡ, vực dậy anh trước khi anh quyết định đi về một đời sống khác:






“Nếu vì em mà thiên tài chán sống

thì cũng vì em ta ngại bước xa đời”.    



TƯỞng Dung

                                                   

Nguồn: - Tạp chí Hợp Lưu, California, Hoa Kỳ, số 101, tháng 7&8/2008

-      Đã đăng lại trên talachu.org tháng 10/2008 (Bấm vào link: Sao Thiên Thu Không Là... )

-      hopluu.net tháng 11, 2008 - (Bấm vào link: Sao Thiên Thu Không Là... )

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7356

Bài gửiGửi: Fri Mar 28, 2014 10:56 am    Tiêu đề: CÁM ƠN


CÁM ƠN


CHÂN THÀNH CÁM ƠN QUÝ CHỊ: MINH THỦY, TƯỞNG DUNG & BÙI HỒNG LOAN, ĐÃ CỐNG HIẾN CHO ĐỘC GIẢ THÊM NHIỀU CHI TIẾC THÚ VỊ VỀ CUỘC ĐỜI CỦA TS NGUYỄN TẤT NHIÊN, MÀ TRƯỚC GIỜ HIẾM NGƯỜI BIẾT ĐẾN .

MAI HỮU THỌ




CHIỀU TRÊN ĐƯỜNG HỒNG THẬP TỰ - NHẠC & LỜI Nguyễn Tất Nhiên – Ca sĩ Khánh Ly trình bày

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân