TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
DIEU HUYEN
Niên Khóa 1962-1969


Ngày tham gia: 25 Sep 2008
Số bài: 4763
Đến từ: Vườn Hoa Hạnh Phúc

Bài gửiGửi: Wed Aug 29, 2012 10:13 pm    Tiêu đề: PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ




Pháp môn Tịnh Độ


      Chúng ta đã nhiều lần nghe hoặc đọcbài kệ tóm tắt con đường tu hành của người Phật tử:
      “Không làm những điều ác
      Siêng làm những việc lành
      Tự thanh tịnh tâm ý
      Lời chư Phật dạy rành”
      ... trong đó, “Tự thanh tịnh tâm ý” thì mới chính là mục tiêu cốt tủy của đạoPhật.
      Kinh Phật dạy rằng: “Tâm được tịnh rồi tội liền tiêu”, câu đó có nghĩa là khitâm đã tịnh là đã bạch hóa được nghiệp chướng tích lũy từ vô lượng kiếp. Tội lànhững nghiệp ác. Tâm đã tịnh rồi thì cũng có nghĩa là tất cả nghiệp thiện và ácđều đã tiêu dung, không còn nghiệp nhân để tái sinh, là chấm dứt được dòng sinhtử, ra khỏi vòng luân hồi. Tóm lại, là hoàn tất được bước thứ tư trong bốn ChânLý Thâm Diệu, là Diệt Khổ.
      -- Vậy thì, làm thế nào để có thể “tự thanh tịnh tâm ý?
      Về phương diện này, nhà Phật có những pháp môn phương tiện để hành giả, lànhững người thực hành các pháp tu, đạt được kết quả cụ thể, thí dụ các môn pháiThiền, Tịnh hoặc Mật tông. Kỳ này, chúng tôi xin trình bày pháp môn Tịnh Độ.
      Đạo Phật là con đường chuyển hóa Tâm, không nhờ vào thần quyền, cho nên ngườiPhật tử bước trên đường tu tập phải thông suốt hai phần là lý thuyết và thựchành, nhà Phật gọi là Lý và Sự, xong việc là “sự lý viên dung”. Toàn bộ giaiđoạn tu tập này được gói trọn trong công thức Văn, Tư và Tu. Văn là nghe lờidạy từ kinh sách của Phật và chư Tổ là bước thứ nhất, Tư là suy nghĩ để hiểucho rõ là bước thứ 2, rồi tới bước thứ 3 là thực hành các phương pháp Tu.
      Lại có câu “Tín Giải Hành Chứng”. “Tín” là tin rằng đạo Phật là con đường giảithoát, “Giải” là hiểu rõ phần lý thuyết của đạo Phật, “Hành” là hành trì cácbước tu tập thì sẽ tới giai đoạn thứ tư là “Chứng Đạo”
      Cổ đức dạy rằng ”Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là túi đựng sách”. Tuy thế, hiểu được phần Lý thì chóng, gọi là giải ngộ. Nhưng tu tới Chứng Đạothì phải tốn nhiều công phu hành trì, nên có câu “Lý tuy đốn ngộ nhưng Sự thìphải tiệm tu”, có nghĩa là phần lý thuyết thì hiểu nhanh, nhưng phần thanh lọc tâmý thì phải mất nhiều công phu.
      Nếu chỉ qua đọc kinh sách mà hiểu được phần lý thuyết, nhưng không thực Tu thựcChứng thì tâm thức không chuyển hóa, đôi khi lại tăng trưởng lòng kiêu ngạo, chư Tổ gọi là “chưa tới tưởng đã tới”, trở thành tăng thượng mạn, uổng phí mộtđời được sinh ra trong nhà Phật.
      Như vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu pháp môn Tịnh Độ về cả hai mặt lý thuyết và thựchành, trước nhất là phần lý thuyết.
      "A Di Đà Phật" hoặc Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật còn gọi là VôLượng Quang Thọ Phật, có nghĩa là vị Phật chiếu sáng khắp không gian vô biên vàthọ mạng dài vô tận. Phật là Giác. Cho nên A Di Đà Phật cũng chính là PhậtTánh, hoặc Giác Tánh của chúng sinh, vốn mênh mông cùng khắp không gian vàthường hằng từ vô thủy tới vô chung, không có ngằn mé. Tánh Giác đó vốn sángsuốt mênh mông, nhưng vì một niệm bất giác vọng động, tâm ý thức trùng trùngduyên khởi chuyển thành chúng sinh, tạo nghiệp trả quả báo, trôi lăn trong vòngsinh tử luân hồi.
      Pháp môn Tịnh Độ là một trong những con đường mà đức Phật đã dạy cho chúng sinhbiết cách thanh lọc ô nhiễm để Ngộ lại Giác Tánh.
      Trong Ngữ Lục của thiền sư Thiên Như Duy Tắc, ngài viết:
      “Ngày nay, có một số người, tăng cũng như tục, mong nhờ Niệm Phật để được thácsinh cõi Tịnh độ và tự hỏi Niệm Phật có khác Thiền chăng. Theo ý tôi, họ khônghề nhận ra Thiền và Niệm Phật không phải đồng mà là đồng; vì đích của Thiền làthấu hiểu ý nghĩa của sự sống, đích của Niệm Phật thì cũng vậy. Thiền chỉ thẳnglòng người, thấy tánh thành Phật; trong khi đó, Niệm Phật nhắm đi tới cõi TịnhĐộ vốn dĩ không chi khác hơn chính là tự tâm, và nhắm thấy rõ tự tính vốn dĩchính là đức A-Di-Đà (Amitabha).
      “Nếu thế, làm sao phân biệt Niệm Phật và Thiền?
      "Kinh nói, như đi vào một thành lớn mà khắp bốn phía đều có cửa; từ nhữngnẻo khác nhau, người ta tìm thấy lối vào riêng biệt của mình vì cửa không chỉcó một. Nhưng, một khi vào rồi, họ cùng ở trong một thành như nhau. Thiền vàNiệm Phật mỗi bên có một căn khí riêng; đấy là tất cả.
      “Ở Niệm Phật, các người có thể phân biệt đằng nào linh nghiệm đằng nào không. Tại sao? Nếu việc tụng niệm của tín giả chỉ ở ngoài môi miệng còn tâm thì chẳngnghĩ tưởng chút gì đến Phật, thứ tụng niệm ấy không linh nghiệm.
      Trái lại, nếu miệng và tâm cùng chung hướng về Phật trong khi tụng đọc danhhiệu Ngài, khiến cho tâm với Phật không rời nhau từng bước một, Niệm Phật chắcchắn sẽ có kết quả.
      Giả dụ đây là một người tay cầm tràng hạt, miệng niệm danh hiệu Phật; nhưng nếucứ vọng tưởng cuồng tâm, chạy xuôi chạy ngược, thì là một người chỉ tụng ở miệngchứ không ở tâm, luống công vô ích, nhọc mà chẳng được gì. Tốt hơn là nghĩtưởng đến Phật trong tâm hồn dù môi không mấp máy, vì như thế mới là đồ đệ chânchính của Niệm Phật.
      “Há không thấy Kinh nói rằng mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹthương con; chúng sinh chìm đắm trong biển sinh tử như con trẻ lưu lạc nơi xứlạ quê người. Phật như một bà mẹ từ ái thương nhớ chúng, và dù ngài không nóiđến từ tâm của mình, tấm lòng của ngài vẫn luôn luôn nhớ tưởng những đứa conlạc mất không thôi. Nếu con cũng nhớ tưởng mẹ như thế, tại sao mẹ con không cóngày hội diện?
      “Bởi vậy kinh nói nếu tấm lòng của chúng sinh nhớ tưởng đức Phật, chắc chắn sẽthấy ngài trong hiện tại hay tương lai. Hiện tại là đời sống này, tương lai làđời sống sẽ đến. Nếu thế, kẻ nào hết sức mong mỏi Phật và nhớ tưởng ngài kẻ ấynhất định sẽ đến trước mặt ngài. Vậy thì “thấy Phật” và “tham Thiền kiến tánh”khác nhau ở chỗ nào đâu? “
      Kinh căn bản của pháp môn Tịnh Độ đã được dịch ra Việtngữ là các kinh A Di Đà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh NiệmPhật Ba La Mật. Tuy nhiên, nơi kinh Lăng Nghiêm cũng có một chương nói về phápNiệm Phật Tam Muội như sau:
      “Đại Thế Chí Pháp Vương Tử cùng với 52 vị Bồ Tát đồng tu, liền đứng dậy, đảnhlễ bạch Phật rằng:
      - Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Vô Lượng Quang ra đời, thuở đó, mười haivị Như Lai kế nhau thành Phật trong một kiếp. Vị Phật sau cùng hiệu là SiêuNhựt Nguyệt Quang, dạy con tu "Niệm Phật Tam Muội", ví như có ngườithì chuyên nhớ, người thì chuyên quên, nếu hai người ấy nhớ nhau, không kể gặphay chẳng gặp, thấy mặt hay chẳng thấy; cứ nhớ mãi sâu vào tâm niệm, cho đếnđời này, đời khác, thì như hình với bóng, chẳng cách xa nhau.
      Mười phương Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh thìdù nhớ cũng chẳng làm gì được; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì đời đời mẹcon chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, thì hiện nay hay vềsau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khaingộ, như người ướp hương thì thân có mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang TrangNghiêm.
      Bản nhân của con là dùng tâm niệm Phật, đắc vô sanh nhẫn, nay ở cõi này tiếpdẫn người niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do “nhiếpcả lục căn, tịnh niệm tương tục” vào tam-ma-địa là hơn cả. ”
      “Nhiếp cả lục căn tịnh niệm tương tục” có nghĩa làchuyên tâm niệm Phật liên tục, trong lúc niệm không quan tâm đến bất cứ chuyệngì khác.
      Pháp môn Niệm Phật bị một số người nông cạn coi thường, cho là pháp môn của mấybà già trầu hoặc người không đủ trình độ tu Thiền mới theo pháp dễ là NiệmPhật.
      Đó là một sai lầm rất đáng tiếc. Thực tế, con đường giải thoát của đứcPhật chỉ dạy cho chúng sinh gồm nhiều lối đi, miễn là tới được mục tiêu phá trừmê vọng là cứu cánh giải thoát.
      Tham Thiền tới Kiến Tánh là mê vọng tan rã. Niệm Phật tới Ngộ được PhápGiới Tạng Thân A Di Đà Phật mà đức Phật dùng phương tiện thiện xảo gọi là cõiTây Phương Tịnh Độ thì cũng như Kiến Tánh vậy.
      Đểthấu triệt quan điểm này của Thiền Tông và Tịnh Độ Tông, chúng ta cùng đọc bàisau đây của thiền sư Hám Sơn, trích từ cuốn Mộng Du Tập do sư cô Hạnh Huệ dịch.
      Ngài là một vị thiền sư Kiến Tánh ở thế kỷ thứ 16, được tôn xưng là một vịthánh tăng. Ngài để lại rất nhiều bài pháp cho nhiều tầng lớp Phật tử. Sau khiqua đời, nhục thân ngài không bị hư hoại, hiện còn thờ trong tháp bằng kính tạitổ đình Tào Khê chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, cùng với 2 nhục thânbất hoại của Lục Tổ Huệ Năng và thiền sư Đan Điền.
      “Cội gốc sanh tử tức là các thứ vọng tưởng hàng ngàycủa chúng ta, các thứ nghiệp phiền não thương ghét, tham lam, giận hờn củachúng ta, nếu còn một mảy may không dứt thì tức là còn gốc rễ sanh tử. Nay muốntham thiền đốn ngộ liễu thoát sanh tử, hãy tự suy nghĩ xem có thể một niệm dứtngay phiền não của nhiều kiếp như chặt đứt một cuộn chỉ hay chăng? Nếu chẳngthể dứt sạch phiền não thì dẫu cho đốn ngộ, cũng thành nghiệp ma, đâu nên xemthường? Các vị tổ xưa kia đốn ngộ, cũng nhiều đời tích lũy công phu tu tập dầndần (tiệm tu) mà được, cho nên “đốn ngộ” này nói thì dễ mà thật ra rất khó. Nếukhông có hai, ba mươi năm hạ thủ công phu, thì làm sao có thể ở trong chốnphiền não lẫy lừng mà được một niệm đốn ngộ.
      Điều thiết yếu là phải tự biết căn khí mình như thế nào? Đến như một môn niệmPhật, người đời không biết sự nhiệm mầu của nó, xem là thiển cận, kỳ thật mỗibước thực hành cho đúng thì như thế nào? Chúng ta từ khi có sanh tử đến nay, niệm niệm vọng tưởng phan duyên tạo nghiệp sanh tử, đâu từng có một niệm quaytrở về soi lại tự tâm, đâu từng một niệm chịu đoạn dứt phiền não. Nay nếu cóthể đem tâm vọng tưởng chuyển làm niệm Phật thì niệm niệm dứt phiền não. Nếuniệm niệm dứt được phiền não thì niệm niệm ra khỏi sanh tử.
      Nếu một niệm niệm vững chắc không đổi dời nhất tâm bất loạn, so với tham thiềncòn có kết quả hơn. Tóm lại, chỉ do một niệm thiết tha chân thực mà thôi. Nhưngtham thiền nhất định cần phải chết đi hết tâm thế tục không còn một niệm vọngtưởng, còn niệm Phật là lấy tưởng tịnh chuyển tưởng nhiễm, dùng tưởng trừ tưởng, là Pháp Hoán Chuyển, cho nên đối với căn khí của chúng ta ngày nay dễ thực hànhhơn.
      Phật là Giác, nếu niệm Phật không quên Phật, tức là niệm niệm minh giác. Tâmnếu quên Phật liền là Bất Giác. Nếu niệm đến trong mộng cũng niệm được tức làthường giác không mê muội! Hiện tại nếu tâm này không mê muội thì lúc lâmchung tâm này không mê muội, ngay chỗ tâm này không mê muội tức là kết quả. Naycông việc bận rộn không thể tham thiền, duy có niệm Phật là tốt nhất, bất kểrỗi rảnh, bận rộn, chỗ nào cũng niệm được, chỉ cần một lòng không quên, khôngcòn có pháp nào hay hơn!.
      Niệm Phật tức là tham thiền, không phải hai pháp. Ngay lúc niệm Phật, trướctiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si, buông bỏ đến chỗ không còn gì để buông bỏ, chỉ đề khởi một câu “A DI ĐÀPHẬT”, rõ rành phân minh trong tâm không gián đoạn như sợi chỉ xỏ xâu chuỗi.
      Nếu tâm tha thiết vì việc sanh tử niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e mộtphen mất thân người muôn kiếp khó được lại, cần phải cắn chặt lấy một câu danhhiệu Phật này, nhất định phải chiến thắng vọng tưởng, bất cứ chỗ nào cũng niệmniệm hiện tiền, chẳng vì vọng tưởng ngăn che. Hạ thủ công phu thiết tha như thếlâu ngày thuần thục tự nhiên tương ưng, chẳng cầu thành khối mà tự thành khối.
      Nếu gặp lúc tâm bất an do các cảnh giới nghịch thuận phiền não buồn vui quấynhiễu, chỉ cần đề khởi một câu niệm Phật này lập tức thấy phiền não tiêu diệt. Vì niệm niệm phiền não là gốc khổ sanh tử, nay dùng niệm Phật tiêu diệt phiềnnão, ấy là Phật độ chỗ khổ sanh tử.
      Nếu niệm Phật tan được phiền não thì có thể thoát sanh tử. Nếu niệm Phật đếntrình độ làm chủ được trên phiền não thì ở trong mộng làm được chủ. Nếu ở trongmộng làm được chủ thì ở trong lúc bệnh khổ làm được chủ, thì lúc lâm chung rõràng biết được chỗ đi.
      Việc này không khó làm, chỉ cần một niệm tâm tha thiết vì sanh tử, nắm chặt mộtcâu Phật hiệu, không còn nghĩ ngợi gì khác, lâu ngày thuần thục, tự nhiên đượcđại an lạc, cái vui ngũ dục thế gian không thể sánh được. Ngoài pháp môn TịnhĐộ nầy, không còn có pháp môn nào thẳng tắt giản dị hơn. ”
      Trên đây là lời căn dặn của thiền sư Hám Sơn. Ngài làmột thiền sư Kiến Tánh, từ Trí Tuệ Bát Nhã nói lên những lời tha thiết khuyêntu pháp Niệm Phật, chúng ta rất nên tôn trọng lời dạy vàng ngọc này.
      Có một câu hỏi rằng nên niệm sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật hay 4 chữ A Di Đà Phật?
      Xin thưa rằng, niệm Phật cần nhuần nhuyễn, sao cho tiếng niệm Phật luônluôn âm thầm hiện lên trong tâm thức. Phật hiệu hiện lên thì phiền não vọngtưởng không quấy nhiễu được, gọi là “niệm Phật thì không niệm chúng sinh”.
      Tổ Tịnh Độ thứ 13 là đại sư Ấn Quang chỉ dùng 4 chữ là A Di Đà Phật để âm thầmniệm, gọi là “mặc trì”, tức là niệm không thành tiếng. Ngài kinh nghiệm rằngniệm như vậy mau thành khối. Có một số đạo hữu cho biết rằng do âm thầm niệm 4tiếng mà Phật hiệu luôn trôi chảy hiện lên trong tâm thức, thay thế cho nhữngsuy nghĩ vọng tưởng.
      Tuy nhiên, nếu ai muốn, hoặc đã quen với cách niệm 6 chữ là Nam mô A Di ĐàPhật, thì cứ tiếp tục niệm như thế, cả hai cách niệm đều có kết quả. Điều cần thiết là phải chí thành khi niệm, không để tâm rong ruổi theo vọng tưởng phiền não thế gian.

TuệĐăng



Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân