TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Diễn Văn Của Tù Trưởng Seattle Khi Ký Hiệp Ước 1854
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Diễn Văn Của Tù Trưởng Seattle Khi Ký Hiệp Ước 1854

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7337

Bài gửiGửi: Thu Aug 09, 2012 10:58 am    Tiêu đề: Diễn Văn Của Tù Trưởng Seattle Khi Ký Hiệp Ước 1854
Tác Giả: (Sưu tầm)

Thân gửi bài diễn văn 1854 của một tù trưởng Da Đỏ ,
theo bản dịch của Học Viện Công Dân , Institute for Civic Education in Vietnam ICEV. Học Viện này ở Hoa Kỳ.

Diễn Văn Của Tù Trưởng Seattle Khi Ký Hiệp Ước 1854


TÙ TRƯỞNG SEATTLE

LGT. Bài diễn văn dưới đây được xem là một trong những bài diễn văn nổi tiếng của Tù Trưởng Seattle, thủ lãnh của bộ tộc dân da đỏ Duwamish.

Tên Seattle là phiên âm tiếng Anh của See-athle, hay Si-ahl.
Bộ tộc Duwamish sinh sống tại vùng Tây Bắc của nước Mỹ, khi vùng đất thuộc bang Washington ngày nay còn là vùng đất của người da đỏ.

Khi người di dân da trắng tiến vào vùng này, xung đột giữa hai sắc dân xảy ra, và cuối cùng thì Tù trưởng Seattle (tên gọi ngày nay thánh phố lớn nhất bang Washington) đã thuyết phục được dân da đỏ bán cho người da trắng vùng đất này, và chịu sinh sống trong những khu vực tập trung của người da đỏ.

Sau khi ký hiệp định, truyền thuyết cho rằng Tù trưởng Seattle đã ứng khẩu đọc bài diễn văn này, nhưng không có một tài liệu nào ghi chép lại, vì những điều ông nói được dịch lại qua Anh ngữ qua ba thổ ngữ của người da đỏ.

Đến năm 1887, bài diễn văn này được Bác sĩ Henry A. Smith cho đăng tải trên tờ Ngôi Sao Chủ Nhật của Seattle, số 29 tháng Mười,nhưng cũng không có tài liệu nào chứng thật được đó chính là những lời của Seattle.

Do đó, ngày nay, gốc tích của bài diễn văn này vẫn còn được giới nghiên cứu tồn nghi.

***

Bầu trời trên kia đã nhỏ xuống không biết bao giọt lệ xót thương cho dân tộc tôi qua hàng bao thế kỷ, và những gì có vẻ vĩnh cửu và bất dịch đều có thể đổi thay.

Ngày hôm nay trời đẹp.

Ngày mai nó sẽ có mây mù bao phủ.

Nhưng những lời tôi nói cũng giống như những vì tinh tú sẽ chẳng bao giờ thay đổi.

Bất cứ điều gì Seattle nói, ngài tù trưởng vĩ đại tại Washington có thể tin tưởng một cách chắc chắn như mặt trời sẽ mọc ngày mai hay bốn mùa sẽ tuần hoàn.

Vị thủ lãnh da trắng có nói rằng ngài Đại Tù Trưởng ở Washington gửi cho chúng tôi lời chào mừng hữu nghị và thiện ý.

Thiệt là một điều quý hóa vì chúng tôi biết rằng ngài đâu có cần đến chút tình hữu nghị của chúng tôi đâu.

Dân của ngài đông quá, nhiều như những ngọn cỏ che phủ những cánh thảo nguyên bát ngát.

Còn dân tôi thì ít ỏi, giống như những cụm cây xơ xác còn trơ lại sau cơn bão tố.

Ngài thủ lãnh Da Trắng vĩ đại, và vì vĩ đại nên tôi cũng cho là nhân ái, đã gửi lời là muốn mua đất đai của chúng tôi nhưng vẫn sẵn lòng chừa lại một khoảng đất để cho chúng tôi có thể sống thoải mái.

Đề nghị này trông ra có vẻ công bằng, và độ lượng, vì người Da Đỏ đâu còn có chút quyền gì đâu để đòi hỏi người ta phải kính trọng, và đề nghị này cũng có vẻ khôn ngoan, vì chúng tôi đâu còn cần một lãnh thổ mênh mông nữa.

Ngày xưa đã có lúc dân tôi sống ngập tràn trên lãnh thổ này như những đợt sóng biển được gió gợn đang che phủ trên thềm đại dương, nhưng ngày xưa đó đã qua lâu rồi cùng với những bộ tộc vĩ đại, và ngày nay chỉ còn lại là một ký ức thê lương.

Tôi sẽ không nói đến chuyện này hay khóc thương gì nữa về sự suy tàn không đúng lúc, hay trách móc những người anh em mặt trắng đã làm cho sự suy tàn xảy ra mau chóng hơn, vì cả chúng tôi nữa cũng có phần đáng trách.

Tuổi trẻ thì bồng bột.

Khi những thanh niên của chúng tôi nổi giận vì những điều sai trái xúc phạm tới chúng tôi, dù đó là những điều xúc phạm có thật hay tưởng tượng, và khi họ dùng sơn đen vẽ vằn vện lên mặt, hành động đó cho thấy tấm lòng của họ cũng đã bị nhuộm đen và họ trở nên hung dữ và tàn bạo đến nỗi những trưởng lão và những bà mẹ cũng không ngăn cản nổi họ.

Chuyện đó đã xảy ra.

Chuyện đó đã xảy ra khi những người da trắng bắt đầu dồn tổ tiên chúng tôi về hướng tây.

Nhưng chúng ta hãy hy vọng là sự thù địch đó giữa chúng ta sẽ không bao giờ xảy ra nữa.

[Vì] chúng tôi sẽ mất hết và chẳng thu hoạch được lợi lộc gì.

Sự trả được thù vẫn được giới thanh niên xem là có lợi, dù phải trả bằng ngay chính tính mạng của họ; nhưng những người lớn tuổi ở nhà trong lúc chiến tranh, và những bà mẹ có con chết trận, hiểu rõ hơn cái giá phải trả cho sự trả thù.

Người cha nhân từ của chúng ta ở Washington--tôi nay cho rằng Người là cha của quý anh cũng như của chúng tôi, vì khi Vua George đẩy biên giới của Anh quốc xa hơn về hướng bắc--người cha vĩ đại và nhân từ của chúng ta, đã nhắn nhủ chúng tôi là nếu chúng tôi làm theo những điều người muốn, thì người sẽ bảo vệ chúng tôi.

Những chiến sĩ can đảm của người sẽ trở thành bức tường thành vững chắc bảo vệ chúng tôi, những chiến hạm kỳ diệu của người sẽ đậu đầy trong hải cảng của chúng tôi, khiến cho những kẻ thù thâm căn cố đế ở phía bắc của chúng tôi--bộ tộc Haidas và Tshimsian[1]--sẽ phải khiếp sợ không dám dọa nạt đàn bà, trẻ con và người già của chúng tôi nữa.

Và như vậy, trên thực tế, Người là cha của chúng tôi và chúng tôi là con dân của người.

Nhưng liệu điều đó có thể xảy ra không?

Thượng đế của quý vị không phải là Thượng đế của chúng tôi! Thượng đế của quý vị yêu thương con dân của Ngài và ghét bỏ dân tôi!

Thượng đế của quý vị dang cánh tay vững mạnh và yêu thương ra để ôm lấy người con dân mặt trắng và cầm tay dẫn dắt như người cha dẫn đứa con còn nhỏ dại.

Nhưng nếu những người Da Đỏ là con của Ngài, thì chúng cũng đã bị Ngài từ bỏ.

Thượng đế của chúng tôi, vị Đại Linh Thần, dường như cũng đã từ bỏ chúng tôi.

Thượng đế của quý vị giúp cho quý vị mỗi ngày mỗi trở nên mạnh mẽ hơn.

Chẳng bao lâu dân của quý vị sẽ ở tràn đầy trên đất này, còn dân tôi thì sẽ tàn lụi đi như nước thủy triều rút xuống mà không bao giờ trở lại.

Thượng đế của người da trắng không thể yêu thương hay bảo bọc dân tôi. Dân tôi là những đứa trẻ mồ côi không nơi nương tựa.

Như vậy thì làm sao mà chúng ta có thể trở thành anh em cho được?

Làm sao mà Thượng đế của quý vị trở thành Thượng đế của chúng tôi giúp chúng tôi khôi phục lại sự hưng thịnh và đánh thức giấc mơ quang phục?

Nếu chúng ta có một vị Cha chung ở trên trời, thì Ngài là một người cha thiên vị, chỉ lo cho những đứa con da trắng. Chúng tôi chưa hề gặp Ngài.

Ngài ban giới luật cho quý vị, nhưng chẳng có lời nào cho những đứa con Da Đỏ, những người đã từng sinh sống đông đảo trên lục địa mênh mông này, nhiều như những vì sao trên trời.

Không.

Chúng ta là hai sắc dân khác nhau, có nguồn gốc và định mệnh riêng rẽ.

Giữa chúng ta chẳng có gì giống nhau và chung với nhau hết.

Đối với chúng tôi tro cốt của tổ tiên chúng tôi và nơi an táng họ là chốn linh thiêng.

Quý anh rời bỏ mồ mả của tổ tiên và dường như chẳng có điều gì ân hận.

Giáo luật của quý anh được viết trên những phiến đá bằng ngón tay sắt thép của Thượng đế của quý anh để cho quý anh không thể nào quên được những giới luật đó.

Người Da Ðỏ sẽ chẳng bao giờ hiểu hoặc nhớ giáo luật đó.

Giáo luật của chúng tôi là truyền thống của tổ tiên--những giấc mơ của những bậc trưởng lão đã được Đại Linh Thần trao cho trong giây phút uy nghiêm lúc nửa đêm, và viễn kiến của những lãnh tụ của chúng tôi--đã được khắc ghi vào tâm hồn của dân tộc chúng tôi.

Tiền nhân của quý anh sẽ thôi phù hộ quý anh và nơi họ sinh sống khi họ bước qua ngưỡng cửa của tử sinh và trôi dạt về những tinh cầu xa lạ. Họ sẽ bị quý anh quên lãng và chẳng bao giờ trở lại nữa.

Tiền nhân của chúng tôi chẳng bao giờ quên cái thế giới đẹp đẽ này nơi họ đã sinh ra.

Họ sẽ vẫn còn yêu mến những thung lũng xanh tươi, tiếng rì rào của sông nước, những non cao hùng vĩ, những thung lũng hẻo lánh, những hồ nước và vịnh nước có cỏ mọc xanh mướt viền quanh, và ngay cả còn mong ước trở lại để an ủi những người còn sống cô đơn, và vẫn thường trở lại những khu săn bắn để thăm viếng, chỉ bảo, khuyên nhủ và an ủi họ.

Ngày và đêm không thể sống bên nhau.

Người Da Đỏ đã từng lẩn tránh sự tiếp cận của người Da Trắng như sương mù buổi sáng tan biến trước ánh bình minh.

Tuy nhiên, đề nghị của quý anh có vẻ công bằng và tôi nghĩ rằng dân tôi sẽ chấp nhận, và chúng tôi sẽ rút về ở vùng đất bảo hộ mà quý anh đã đề nghị.

Lúc đó chúng ta sẽ sống xa cách nhau trong hòa bình, vì lời nói của Ngài Đại Tù Trưởng Da Trắng cũng có quyền uy giống như tiếng của thiên nhiên nói với dân tôi qua màn đêm dày đặc.

Nơi chốn mà chúng tôi sẽ sống những ngày còn lại ở đâu, không phải là điều quan trọng, vì cũng sẽ chẳng còn bao nhiêu ngày.

Đêm tối của người Da Đỏ chắc chắn là sẽ tối đen.

Chẳng có một ngôi sao hy vọng nào treo lửng lơ trên chân trời của họ.

Chỉ có tiếng gió buồn rầu, rên rỉ trong không gian.

Một định mệnh u tối phủ lên trên đường đi của người Da Đỏ và dù ở đâu y cũng sẽ nghe tiếng bước chân đang tiến tới gần của kẻ hủy diệt hung bạo và thản nhiên đón nhận số mệnh của mình như con hoẵng bị thương đang nghe bước chân của người thợ săn tiến tới.

Một vài tuần trăng nữa, một vài mùa đông nữa, thì sẽ chẳng còn hậu duệ của những người chủ đã từng sống trong những gia đình hạnh phúc, đã từng bước đi trên vùng đất bao la này, đã từng được Đại Linh Thần che chở, còn sống sót để mà khóc thương trên những nấm mồ của một dân tộc đã từng có một thời oanh liệt hơn cả dân tộc của quý anh.

Nhưng tại sao tôi phải thương tiếc cho cái định mệnh non yểu của dân tôi?

Bộ tộc này tiếp nối bộ tộc nọ, quốc gia này theo gót quốc gia kia, như những đợt sóng trên biển cả.

Đó là trật tự của thiên nhiên, và tiếc thương cũng chỉ hoài công.

Thời khắc suy tàn của quý anh có thể cũng còn xa, nhưng chắc chắn ngày đó sẽ đến, vì ngay cả những người Da Trắng có được Thượng Đế dẫn dắt và an ủi như người bạn, cũng không thể được đặc miễn khỏi cái định mệnh chung.

Cuối cùng có lẽ chúng ta là anh em thật.

Hãy chờ xem.

Chúng tôi sẽ cân nhắc đề nghị của quý anh và khi đã quyết định xong chúng tôi sẽ thông báo cho quý anh biết.

Nhưng giả như chúng tôi có chấp nhận, tôi muốn đưa ra một điều kiện ngay tại đây, và vào lúc này, là chúng tôi phải có quyền thăm viếng mồ mả cha ông, bạn bè, và con cháu của chúng tôi bất cứ lúc nào và không bị ai ngăn trở.

Mỗi phần của vùng đất này đều là chốn thiêng liêng đối với dân tôi.

Mọi sườn đồi, mọi thung lũng, mọi cao nguyên, gò đống, lùm cây đã được thánh hóa bởi những biến cố buồn cũng như vui của bao ngày đã trôi qua trong lịch sử.

Ngay cả những tảng đá ngây ngô đang nằm như chết dưới sức nóng gắt gao của mặt trời bên những bờ hồ lặng lẽ cũng rộn ràng với ký ức của những biến cố sôi nổi đã nối kết đời sống của dân tôi, và ngay cả mảnh đất mà quý anh đang đứng cũng đáp ứng thiết tha với những bước chân của dân tôi hơn là của các anh, bởi vì đất này đã đẫm máu của tiền nhân chúng tôi, và những bàn chân trần của chúng tôi nhận thức được mối giao cảm thân ái đó.

Những liệt sĩ can đảm của chúng tôi, những bà mẹ trìu mến, những người con gái vui tươi và ngay cả những trẻ nhỏ đã từng hân hoan sống ở nơi đây, dù chỉ trong một mùa ngắn ngủi, cũng sẽ yêu cảnh tĩnh mịch đầy sầu muộn này và khi chiều đến họ đón chào những linh hồn đang trở lại viếng thăm.

Và khi người Da Đỏ cuối cùng bị diệt vong, và khi ký ức về bộ lạc của tôi chỉ còn là một huyền thoại của người Da Trắng, thì lúc đó những bờ, những bãi sẽ tràn ngập cái chết vô hình của đồng bào tôi, và khi con cháu, chắt của quý anh nghĩ rằng chỉ có họ sinh sống trên đất này, trong những cửa hàng, trên những xa lộ, hay trong sự thinh lặng của những cánh rừng chưa khai phá, họ cũng không hẳn đã sống một mình.

Cả trái đất này không có chỗ dành cho sự tĩnh mịch.

Ban đêm khi những con đường trong phố phường của quý anh đã im tiếng và khi quý anh nghĩ rằng chẳng còn ai đi trên đường phố nữa, thì những đường phố đó vẫn có đầy những người đã từng là chủ của mảnh đất này, họ đang trở lại và vẫn còn yêu thương vùng đất đẹp đẽ này.

Người Da Trắng sẽ chẳng bao giờ sống một mình một cõi.

Hỡi người Da Trắng, xin hãy đối xử công bằng và tử tế với dân tôi, vì người chết chẳng phải là những người bất lực.

Chết.

Tôi vừa nhắc đến cái Chết, phải không?

Không có sự chết, chết chỉ là sự đổi thay của thế giới.

Về Đầu Trang
DIEU HUYEN
Niên Khóa 1962-1969


Ngày tham gia: 25 Sep 2008
Số bài: 4763
Đến từ: Vườn Hoa Hạnh Phúc

Bài gửiGửi: Fri Aug 10, 2012 11:04 am    Tiêu đề: Lời Cầu Nguyện với Đấng Tối Cao



Lời Cầu Nguyện với Đấng Tối Cao



Năm 1887, trưởng lão Yellow Lark (Chiền Chiện Vàng) của bộ lạc da đỏ Sioux đã dịch bài cầu nguyện truyền thống của người Sioux sang tiếng Anh và bản dịch đã trở thành lời cầu nguyện quen thuộc tronng nhiều nhà thờ ở Mỹ.
      Lời cầu nguyện thấm đầy tâm linh trong trẻo, khiêm tốn, sâu sắc và giản dị. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu, và hình dung rằng, những người da đỏ sống hòa mình trong tranh đấu với thiên nhiên và với các bộ tộc khác để sinh tồn rất vất vả. Và họ cất nguyện những lời tha thiết ấy!

      Lời Cầu Nguyện với Đấng Tối Cao

      Ôi Đấng Tối Cao,
      Giọng của Ngài con nghe trong tiếng gió,
      Hơi thở của Ngài đem sự sống cho toàn thế giới.
      Hãy nghe con khẩn nguyện,
      Con cần sức mạnh và khôn ngoan của Ngài.
      Hãy cho con bước đi trong vẻ đẹp diệu kỳ,
      và khiến đôi mắt con luôn đắm say cảnh mặt trời lặn đỏ tím.
      Khiến đôi bàn tay con kính trọng những thứ ngài đã tạo ra
      và đôi tai con nhanh nhạy nghe thấy giọng nói của ngài.
      Cho con khôn ngoan để con có thể hiểu được những điều
      Ngài đã dạy cho dân tộc của con.
      Giúp con bình tĩnh và mạnh mẽ
      đối diện tất cả những gì đến với con.
      Cho con học những bài học Ngài đã dấu kín
      trong mỗi chiếc lá và mỗi phiến đá.
      Giúp con tìm tư tưởng thanh khiết
      và hành động với tâm nguyện giúp đở mọi người.
      Giúp con có được từ tâm
      mà không bị lôi cuốn theo cảm xúc của người khác.
      Con xin có sức mạnh, không phải để mạnh hơn anh em của con,
      mà để chiến đấu với kẻ thù lớn nhất của con
      – Chính con (Những sợ hãi và nghi ngờ của con).
      Khiến con luôn sẵn sàng đến gặp Ngài
      với đôi bàn tay sạch và đôi mắt nhìn thẳng.
      Để khi đời con tàn phai, như hoàng hôn đang phai tàn,
      linh hồn con có thể đến với Ngài chẳng xấu hổ chi.

Great Spirit Prayer

(A Native American Prayer by Lakota Sioux Chief Yellow Lark)

Oh, Great Spirit, whose voice I hear in the wind,
Whose breath gives life to all the world.
Hear me; I need your strength and wisdom.
Let me walk in beauty,
and make my eyes ever behold the red and purple sunset.
Make my hands respect the things you have made
and my ears sharp to hear your voice.
Make me wise so that I may understand
the things you have taught my people.
Help me to remain calm and strong
in the face of all that comes towards me.
Let me learn the lessons you have hidden in every leaf and rock.
Help me seek pure thoughts and act with the intention of helping others.
Help me find compassion without empathy overwhelming me.
I seek strength, not to be greater than my brother,
but to fight my greatest enemy
- Myself (My fears and my doubts).
Make me always ready to come to you with clean hands and straight eyes.
So when life fades, as the fading sunset,
my spirit may come to you without shame.
~ (translated by Lakota Sioux Chief Yellow Lark in 1887)
published in Native American Prayers – by the Episcopal Church. ~

Nguyến Minh Hiển dích



Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân