TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
Annie



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 2429

Bài gửiGửi: Thu Feb 21, 2008 10:59 pm    Tiêu đề: KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM

1 . TRƯỚC THẾ KỶ III

Khi bị nhà Hán xâm lăng, miền đất phía bắc nước Việt ngày nay bị đổi tên là Giao Chỉ Bộ . Vào năm 203 (triều Hán Hiến đế), Giao Chỉ Bộ lại bị đổi thành Giao Châụ

Phật học vào Việt Nam trước tiên bằng đường biển, từ phương Nam lên, do các nhà sư Ấn Ðộ theo thuyền buôn . Luy Lâu (vùng Dâu, Hà Bắc) có thể là cửa ngỏ để từ Việt Nam, các nhà sư, nhà buôn viễn xứ mượn đường đi vào đất Hán.[1]

Theo Thiền uyển truyền đăng tập lục, Pháp sư Ðàm Thiên trong khi đàm đạo với vua nhà Tùy (thế kỷ VI-VII) đã cho biết Giao Châu có đường thông thương với Ấn Ðộ, nên khi ở Giang Ðông (Trung Quốc) đạo Phật hãy còn xa lạ thì tại thủ đô Luy Lâu của Giao Châu đã có trên hai mươi chùa Phật, hơn năm trăm nhà sư, đã biết đến mười lăm bộ kinh.[2]

Có bằng chứng cho thấy Phật giáo đã từ Việt Nam vào Trung Quốc trước khi Phật giáo từ Trung Quốc truyền sang Việt Nam . Thế kỷ III, Ngô Tôn Quyền ở Giang Ðông đã được sư Khương Tăng Hội từ Giao Châu sang truyền đạo, Tôn Quyền đã cho cất chùa Kiến Sơ vào dịp nàỵ[3]

Ðại Việt sử ký toàn thư và Ngô chí (viết vào thế kỷ IV) chép lại lá thư của một người Hán là Viên Huy, gửi cho Thượng thư lịnh Tuân Úc năm 207 . Thư kể rằng Thái thú Sĩ Tiếp (Sĩ Nhiếp) ở Giao Châu mỗi khi ra đường đều có các nhà sư Ấn Ðộ theo xe, xông trầm đốt hương, đánh chuông khánh, thổi kèn sáọ[4]

Do miền Bắc sớm trực tiếp gặp Phật giáo Ấn Ðộ nên người miền Bắc có từ Bụt. (Tục ngữ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh; Ði với Bụt mặc cà sa, đi với ma mặc áo giấy?) Bụt do gốc tiếng Ấn Buđha . Sau này tiếp xúc Phật giáo Trung Quốc nên có thêm từ Phật, mượn ở cách người Hoa phiên âm từ Buđha (tiếng Hán-Việt là Phật đà).

Về sau, việc truyền đạo trực tiếp từ Ấn sang giảm bớt dần, trong lúc theo đường bộ đạo Phật từ phương Bắc du nhập chiếm ưu thế hơn . Do ảnh hưởng từ phương Bắc xuống, hay Bắc tông, Phật giáo Việt Nam thuộc ngành đại thừa . Trái lại, do ảnh hưởng từ phương Nam lên, hay Nam tông, các lân bang như Lào, Cam-pu-chia, Thái thuộc ngành tiểu thừạ

2 . TỪ THẾ KỶ III ÐẾN NỬA ÐẦU THẾ KỶ XIII

Trong các hệ phái Phật giáo ở nước Nam, Thiền tông phát triển mạnh nhất và có nhiều đặc sắc.

Khởi đầu với sư Khương Tăng Hội (đầu thế kỷ III), Sư có công khai sáng Thiền học Việt Nam và là người đầu tiên đem đạo Phật từ Việt Nam sang truyền cho người Hán . Phật giáo Việt Nam lúc này đã là đại thừa vì Sư đã cùng các cao tăng khác dịch kinh Bát nhã, rồi sư Chi-cương-lương-tiếp (Kalasivi) dịch kinh Pháp hoa tam muội.[5]

Tư liệu về thế kỷ IV còn khiếm khuyết.

Thế kỷ V, theo Tục cao tăng truyện, có Thiền sư Huệ Thắng, là môn đồ của sư Ðạt-ma Ðề-bà . Sư Huệ Thắng nhiều lần sang Trung Quốc hoằng giáọ[6]

Từ thế kỷ VI đến hết triều Lý, Việt Nam có ba dòng Thiền lớn.

a . Phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci)

Năm 580 Sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đến Việt Nam, trụ trì mười bốn năm ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), liễu đạo năm 594 . Phái này truyền được mười chín đời . Ðời chót có Thiền sư Y Sơn (liễu năm 1213).

b . Phái Vô Ngôn Thông

Năm 820 sư Vô Ngôn Thông từ Trung Quốc sang Việt Nam, trụ trì chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh), liễu năm 826 . Phái này truyền được mười bảy đời . Vua Lý Thái tông (1028-1054) là môn đệ đời thứ tám.

c . Phái Thảo Ðường

Sư Thảo Ðường từ Trung Quốc sang Chiêm Thành . Năm 1069, vua Lý Thánh tông thắng quân Chiêm, đưa sư về Thăng Long, phong Quốc sư . Sư trụ trì chùa Khai Quốc.

Phái này truyền được sáu đời . Trong hàng đệ tử có chín nhân vật đáng kể như: vua Lý Thánh tông (1054-1072), đời thứ hai: quan Tham chính Ngô Ích, đời thứ ba: vua Lý Anh tông (1138-1175) và quan Thái phó Ðỗ Vũ, đời thứ tư; quan Thái phó Ðỗ Thường, đời thứ năm; vua Lý Cao tông (1176-1210) và quan Quản giáp Nguyễn Thức, đời thứ sáụ

3 . PHẬT GIÁO VIỆT NAM ÐỜI TRẦN

Ðầu thế kỷ XIII, ba phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Ðường dần dần sáp nhập, đưa tới sự lớn mạnh của phái thiền Yên Tử để thành một phái duy nhất đời Trần là phái Trúc Lâm.

Phái Yên Tử xuất hiện từ núi Yên Tử . Tổ khai sơn là Thiền sư Hiện Quang (liễu năm 1220) . Tổ thứ hai là thầy của vua Trần Thái tông, được tôn là Trúc Lâm Quốc sư, pháp hiệu Ðạo Viên, có tên khác là Viên Chứng.

Trong hai mươi ba vị tổ của phái Trúc Lâm, tổ đời thứ sáu là vua Trần Nhân tông, pháp hiệu Trúc Lâm Ðầu đấ

Trong hoàng tộc có một Thiền sư lẫy lừng là Tuệ Trung Thượng sĩ . Ngài tên thật là Trần Quốc Trung, tước Hưng ninh vương, con cả của An sinh vương Trần Liễu, và là anh ruột của Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn . Khóa hư lục của vua Trần Thái tông và Ngữ lục của Tuệ Trung Thượng sĩ là hai kiệt tác trong thiền học đời Trần.

Ðời Trần cũng noi theo Lý, mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân tài ra giúp nước (đời Lý: 1195; Trần: 1247).

4 . TỪ THẾ KỶ XV ÐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX

Nhà Hồ (1400-1407) rồi nhà Hậu Trần (1407-1413) mất, quân Minh xâm chiếm Việt Nam (1413-1427) . Loạn lạc liên miên, đạo Phật suy yếu . Ðuổi xong giặc, vua Lê Thái tổ (1428-1433) tổ chức khảo sát trình độ các sư, đạo sĩ . Ai kém phải hoàn tục.[7]

Nhà Hậu Lê suy, ngoài Bắc Chúa Trịnh thao túng, trong Nam Chúa Nguyễn tung hoành . Phật giáo suy . Ðầu thế kỷ XVIII, thống nhất xong đất nước, vua Quang Trung (1788-1792) theo gương đời Lê, lo chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn lại việc cất chùa, chỉ đạo cất các chùa lớn có quy củ, gạn lọc các phần tử kém phẩm chất ra khỏi cửa thiền, buộc hoàn tục.[8]

Từ thế kỷ XV trở đi tuy không còn rực rỡ như hai triều Lý, Trần nhưng đời nào cũng có cao tăng, chân tu xuất hiện . Một số dòng thiền khác được ghi nhận như: phái Tào Ðộng, gốc từ Trung Quốc, triều Lê Thế tông (1573-1599); phái Liên Tông, triều Lê Hy tông (1676-1705) . Hai phái này ở miền Bắc . Miền Trung có phái Liễu Quán và phái Nguyên Thiều . Phái Nguyên Thiều có từ triều Lê Huyền tông (1663-1671), gốc từ Trung Quốc, là hệ phái của dòng thiền Lâm Tễ

Ngày 01-9-1858, phát súng đầu tiên của hải quân Pháp bắn vào cửa biển Ðà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lược của thực dân Pháp . Trong hoàn cảnh loạn lạc triền miên, đạo Phật bị ảnh hưởng, suy thoái dần.

?

Ðầu thế kỷ XX, phong trào chấn hưng Phật giáo đã lần lượt dấy lên ở nhiều nơi . Các cao tăng bấy lâu ẩn dật đến lúc nhập thế hoằng dương Phật pháp . Các kinh sách, tạp chí nghiên cứu đạo Phật nhờ phương tiện ấn loát tiến bộ đã có thể phổ biến rộng rãi hơn.

Bên cạnh các cao tăng còn có những cư sĩ trí thức cựu học lẫn tân học, uyên thâm về cả thế học và Phật học . Ở cả ba miền đất nước đều có những cư sĩ tài tuệ và tâm huyết tích cực góp phần đổi mới cách thuyết giáo và giảng dạy cổ truyền của nhà thiền . Trong số đó, ba nhân vật tiêu biểu là:

- Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954): đông y sĩ, sáng lập Hội Phật học Bắc Kỳ, trụ sở đặt tại chùa Quán Sứ (Hà Nội); phụ trách tạp chí Ðuốc tuệ của Hộị

- Tâm Minh Lê Ðình Thám (1887-1969): bác sĩ tây y; sáng lập viên và là hội trưởng Hội Phật học Trung Kỳ (tức là An Nam Phật học hội), trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm (Huế); chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Viên âm, cơ quan hoằng pháp của Hộị

- Chánh Trí Mai Thọ Truyền (1905-1973): đốc phủ sứ, sáng lập chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và Hội Phật học Nam Việt, đóng góp rất nhiều cho tạp chí Từ quang của Hộị

Sau này, việc đào tạo tăng ni tại Việt Nam đã có quy củ với các hệ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học cũng nhờ sự quật khởi từ những thập niên đầu thế kỷ XX, cũng là lúc đạo Cao Ðài vừa xuất hiện . Sự trùng hợp này đối với tín đồ Cao Ðài không hề là một ngẫu nhiên . Thực vậy, tại Thiên lý Ðàn (Sài Gòn), Tuất thời, 30-10 Mậu Thân (19-12-1968), đức Cao Ðài dạy: ?Về đạo pháp các con cũng biết Thầy đến lần ba này làm sao cho nhơn loại khắp trên mặt địa cầu được sống lại ơn cứu độ lan chảy khắp năm châu . Trước đây năm, sáu mươi năm các con cũng thấy các tôn giáo như ngủ mê mà từ ngày được đạo Thầy hoằng khai thì các tôn giáo lần lượt chấn hưng . Sự sống đó chẳng những đến cho các con mà đến khắp hoàn cầu, nên phong trào đạo đức đâu đâu cũng sống dậy.?

LÊ ANH DŨNG
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân