TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Lìa vọng tâm thì thấy Phật
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Lìa vọng tâm thì thấy Phật

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
PHAMHOANGCHUONG
Cựu Giáo Sư Duy Tân


Ngày tham gia: 17 Aug 2009
Số bài: 21

Bài gửiGửi: Thu Sep 24, 2009 3:19 pm    Tiêu đề: Lìa vọng tâm thì thấy Phật

LÌA VỌNG TÂM THÌ THẤY PHẬT

Phạm Hoàng Chương


Thói thường, trong xã hội sống theo văn minh Âu Mỹ, thiên hạ cho những con người khôn ngoan, thực tế, thành công, là những người biết tự tạo cho mình và gia đình một cuộc sống vật chất đầy đủ, nhà lầu xe hơi, ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc rủng rẻng trong nhà bank. Những kẻ hay đọc sách, làm thơ viết văn, suy tư mơ mộng, học cao, nói những lời triết lý tôn giáo cao xa hão huyền là không thực tế, họ có thể được kính trọng, tiếng tăm, nhưng đa số phải sống bám vào gia đình, xã hội, và tín đồ, hay ít ra sống một cuộc sống thanh đạm, nghèo nàn về vật chất. Quan niệm sai lầm này cần phải được đem ra thảo luận và xét lại.

Hãy đặt câu hỏi như thế này: Tất cả những gì mà thiên hạ cho là thực tế, thành công về vật chất trên đời này, nhà lầu xe hơi, tiền bạc, địa vị..v.v…những thứ mà con người lao nhọc thân tâm, ngày đêm lo nghĩ, cực khổ tạo ra là để cung phụng cho cái gì? Cho cái TA, cho cái thân xác tạm bợ phù du này, đúng không?. Những thứ thành công trừu tượng khác, như danh vọng, lòng kiêu hãnh vì vợ đẹp con khôn, nắm quyền chỉ huy, địa vị cao sang, cũng chẳng có công dụng nào khác ngoài làm tăng trưởng thêm lòng ngã mạn, về cái NGÃ, cái thân xác sinh diệt này.

Cái thân xác này không bền chắc, mà tùy thuộc vào thức ăn, nước uống, không khí, khí hậu, và mặt trời là những thứ sinh diệt vô thường. Cái thân xác suốt ngày phải kiếm ăn, nấu nướng, thu nạp vào, tiêu hóa, rồi phải cuống cuồng chạy đi tìm chỗ để xổ ra. Cái thân xác này không có gì nhét vào thì đói khát, khổ sở, mà không xổ ra được, cũng đau tức, lăn lộn ê chề… Cái thân xác này, khi còn hít vào được, gọi là sống, mà không còn thở ra nữa, gọi là chết, khác nào khúc gỗ hôi thối, làm cho ngay đến cha mẹ, vợ chồng, anh em, con cái ruột thịt cũng sợ hãi, tránh xa. Đó là khi khỏe mạnh, nó còn đưa vào, thải ra suông sẻ. Khi đau bệnh ngặt nghèo rồi thì muốn nuốt thức ăn vào cũng không được, mà thải ra cũng không xong. Cái TA đó có gì là quí giá, tốt đẹp, là trường tồn, vĩnh cửu? Nó là mầm mống của bệnh tật, già yếu và khổ đau. Nó đâu có thực. Nếu thực thì ông bà, cha mẹ, chú bác, cô dì ta đó, ngày xưa thân ái xum vầy quanh ta, sao không còn nữa, mà biến mất đâu rồi, đến phiên ta rồi cũng sẽ vậy thôi, thân này, bởi vậy, rõ ràng chỉ là hư dối, không có thực. Cuộc sống ở thế gian này như vậy có gì là hạnh phúc mà tham đắm. Hiểu được như vậy, mới thấy con người thực tế không phải là biết làm giàu, mà phải là con người nhận thức rõ được chân lý tuyệt đối này để đặt ra những câu hỏi về tâm linh, siêu hình. Ngẫm lại mà xem, ai cũng thích được chúc sống lâu trăm tuổi, trẻ khỏe giàu bền mãi mãi. Không ai muốn nghe chúc “đau bệnh, già, khổ, chết”. Có đúng không? Nhưng mà đó chính là sự thực, phải chấp nhận. Hay là thiên hạ biết rõ mà vẫn thích sống trong cái ảo tưởng giả dối “sống lâu giàu bền” đó. Thân xác, cũng như tất cả vạn pháp trên thế gian này, trong đạo Phật, là do duyên hợp mà thành. Vạn vật do tứ đại: đất, nước, gió, lửa kết hợp lại mà thành. Cây lúa kia, do hột giống, đất nước, không khí và ánh nắng duyên hợp mà thành.…Thân xác kia, do Đất (thịt xương gan ruột lông tóc), NƯỚC (máu, nước mắt, mồ hôi), GIÓ ( hơi thở), LỬA (nhiệt độ) mà hợp thành. Còn duyên thì hợp lại, gọi là SỐNG, hết duyên thì tan rã, gọi là CHẾT. Sống và chết của con người chỉ cách nhau một hơi thở. Và không ai biết trước được cái chết nó xảy ra vào lúc nào. Nó không có báo trước. Thân xác, cái TA, mà ta cho là quí nhất trên đời, còn chưa giữ được thì nói chi đến những thứ giả tạm ngoài thân, như nhà lầu, đất cát, xe hơi, tiền bạc, danh vọng, uy quyền…Cái gì do Duyên hợp thì phải sinh diệt, theo luật THÀNH, TRỤ, HOẠI, KHÔNG, Phật giáo gọi là vô thường.

Người nào hiểu ra điều căn bản này có thể bắt đầu gọi là những người thực tế, khôn ngoan. Bớt thì giờ bon chen làm ăn, chơi bời hưởng thụ, cãi cọ hơn thua nhau, để suy tư về ý nghĩa của cuộc đời. Tự hỏi chết rồi đi về đâu? Những người duy vật thì cho là chết là hết, cứ tha hồ cướp giựt vơ vét hiếp đáp người khác yếu hơn mình bằng mọi thủ đoạn để hưởng thụ cho thỏa mãn kiếp người trước khi tan thành tro bụi…Những người đầu óc đơn giản, nhưng biết lo xa, cho là chết rồi xuống địa ngục, hay lên thiên đàng, tùy theo lúc còn sống ăn ở hiền lành hay làm ác...Từ từ, khái niệm về một Luật nhân quả của thiên nhiên, về một sự công bình tuyệt đối của Trời đất đã vô tình mơ hồ kết tinh trong tâm hồn con người có chút bản chất thiện. Con người tin tưởng vào Ông Trời, Phật, Chúa, Thần linh, một đấng Tạo hóa siêu nhiên nào đó, có quyền lực tối cao, tạo ra muôn loài và đóng vai trừng phạt khen thưởng muôn loài, bắt đầu lo ăn hiền ở lành. Những người theo Ấn độ giáo, hay Phật giáo, tin vào vòng Luân hồi của chết và sống, trong đó chúng sinh tùy theo Nghiệp ác hay Nghiệp lành, sau khi chết, luân chuyển lăn lộn lên xuống trong 6 cõi: Trời, Người, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỹ, và Địa ngục.. Theo đạo Phật, chỉ có những bậc chân tu, minh tâm kiến tánh, giác ngộ, mới thoát khỏi vòng luân hồi, vĩnh viễn sống trong cảnh bất sanh bất diệt, an vui tự tại. Đạo Phật gọi đó là Niết bàn, hay Chân tâm, Phật tánh.

Tất cả những bộ kinh lớn của Phật giáo, Lăng Nghiêm, Viên Giác, Kim Cang, Pháp hoa, Hoa Nghiêm, Bát Nhã.…đều bàng bạc nhắc đến Tướng và Tánh, Sắc và Không, Tâm và Cảnh, Vọng tâm và Chơn tâm, đến Trung Đạo và lý Bất nhị. Tướng với Tánh như Sóng với Nước. Tướng là hình tướng thay đổi, sinh diệt, như có khi là mưa, có khi là tuyết, sương mù, mưa đá, ao hồ, sông biển, sóng êm hay động. Tánh là bản chất cố định của các tướng đó, tức là chất nước, lúc nào cũng là ướt. Chúng sinh tướng mạo hình thù, sắc tộc, tiếng nói khác nhau, nhưng Phật tánh thì giống nhau không khác.

SẮC là sự vật mà con mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, tay chân sờ được, nhưng nó không có bản chất cố định, khi thơm khi thối, khi ngon khi dở, nó thay đổi luôn luôn. Nó sẽ rồi tự hủy hoại với thời gian, nên gọi “Sắc tức là Không”. Có đó không đó liền liền. KHÔNG là TÁNH thấy, là CHÂN tâm, trường tồn, không thay đổi, nhưng nó vô hình mắt thường không trông thấy, nên tạm gọi là Không. Nhưng mà cái Không này có thực, hiện hữu, không bao giờ mất, nên kinh Bát Nhã lại gọi “Không tức là Sắc”.
Tâm có 2 thứ: vọng tâm và chơn tâm. Vọng tâm (tâm phan duyên) chạy theo Cảnh, còn Chơn tâm thì đứng yên. Sống theo vọng tâm, lăng xăng cả ngày, như con khỉ bị nhốt trong chuồng (dụ cho vọng tâm) đáp trả chí chóe với những con khỉ đứng bên ngoài chọc ghẹo (dụ cho Cảnh) nên tạo nghiệp, bị luân hồi sanh tử. Sống theo Chơn tâm, như con khỉ trong chuồng biết mà nhắm mắt làm ngơ, không thèm trả lời những cám dỗ hay mắng chửi của lũ khỉ bên ngoài, thì không tạo Nghiệp, không bị luân hồi sanh tử. Muốn hiểu rõ về Chơn tâm và Vọng tâm, phải coi lại Kinh Lăng Nghiêm, mới thấy cái cảm giác sung sướng chói lòa của người bừng tỉnh sau cơn mê lầm triền miên từ khi cha sanh mẹ đẻ tới nay. CẢNH, như bầu trời không gian, con mắt thấy khi tối khi sáng; như trong phòng và ngoài sân, con mắt thấy có chật chội, có rộng thoáng, nhưng TÁNH thấy (chơn tâm) thì lúc nào cũng thấy, không tối đi hay sáng ra, không chật vô hay rộng ra. Ngay cả người mù, tánh thấy vẫn có. Họ thấy cái tối đen. Con mắt là thứ sinh diệt, hoại rửa theo thời gian, nên cái mà con mắt thấy là hư giả, không thực. Âm thanh cũng vậy, khi to khi nhỏ, khi còn khi mất, nhưng TÁNH nghe thì lúc nào cũng nghe, không to ra hay nhỏ lại, không rõ thêm hay điếc đi. Ngay cả người điếc tánh nghe vẫn có. Họ nghe thấy sự yên lặng. Tai là thứ sinh diệt, thối rửa, hủy hoại theo thời gian, nên cái mà tai nghe là hư giả, cũng không có thực. Cái gì sinh diệt thì mất, cái gì không sinh diệt thì còn. Cho nên nhục thân, xác thịt tan rã sau khi chết, mà TÁNH thấy tánh nghe, hay CHÂN TÂM, vẫn không bao giờ mất, mà tiếp tục đi theo con người đầu thai qua kiếp khác trong vòng luân hồi sanh tử trùng trùng điệp điệp.

Trung đạo và Bất nhị là pháp “không có hai bên”, không thái quá cũng không bất cập, không có đối đãi hai bên, tốt hay xấu, thiện hay ác, lớn hay nhỏ, già hay trẻ, sống hay chết. Vì sao? Vì cái gì có thay đổi thì sinh diệt, hư dối.……Trung đạo, hay Bát nhã, cái thấy biết Chơn tâm đó, gọi là PHÁP. Còn như có đối đãi, còn thấy hai bên như phàm phu thấy, gọi là PHI PHÁP. Con người còn MÊ thì cần nương theo Pháp. Nhưng, khi đạt đến trí huệ Phật, thành Phật rồi, thì Pháp không cần phải giữ, không cho là thật nữa. “Pháp còn phải bỏ, huống chi là Phi pháp”. Như người bệnh phải cho thuốc (Pháp) mới khỏi. Nhưng khi khỏi rồi thì có cần dùng thuốc (Pháp) nữa hay không? Nếu đã hết bệnh mà còn dùng thuốc nữa thì thật là điên rồ, gây ra đại họa. Nếu giữ cả thuốc lẫn người thì lại thấy có hai, là đối đãi, mà đối đãi là sanh diệt. Cho nên cái giáo pháp rốt ráo của Phật nói ra rất cao, rất ít người liễu ngộ và hiểu được, nếu không có căn cơ nhiều đời tu tập về trước.. Cái triết lý mà Phật nói ra còn không nên chấp cho là thật, phải bỏ đi, huống chi là cái hư vọng mê lầm vì chạy theo vọng tâm mà chúng sanh bấy lâu đeo đuổi. Giáo pháp của Phật như chiếc thuyền dùng đưa người mê sang sông (sang bờ giác ngộ), nhưng chỉ là phương tiện, khi đến bờ rồi thì phải bỏ, không còn vác theo trên vai nữa. Cũng vậy, ngón tay dùng để chỉ mặt trăng, nhưng khi thấy mặt trăng rồi thì ngón tay phải bỏ đi. Cao hơn một bậc, rốt ráo tột cùng hơn cả, khi mình đã là mặt trăng (Phật) rồi, thì chính mình với mặt trăng là MỘT (không hai), còn nhắc đến mặt trăng nào nữa, huống chi là ngón tay. Đó mới gọi là giác ngộ hoàn toàn, là viên giác (Kinh Viên giác).

Kinh Đại thừa nào cũng nhắc đến Phật tánh rỗng lặng tròn đầy trong sáng vốn có sẵn trong mỗi chúng sanh, mà chúng sanh vì Vô minh mê mờ nên không biết. Như người ăn mày có viên ngọc quí trong túi áo mà không biết, vất vã lam lũ xin ăn khắp nơi. Như vàng có sẵn ở trong quặng, gạn lọc quặng ra thì thấy vàng. Như núi xanh bị mây trắng mây đen che phủ, gió thổi mây tan thì núi xanh lộ ra. Chơn tâm, Phật tánh, hay Niết bàn, nó vốn ở sẵn trong ta, không phải ở ngoài đưa vào, không phải tìm cầu ở đâu. Chúng sinh vì tham sân si che lấp, như quặng che vàng, mây đen che núi, không biết quay lại chơn tâm, cứ theo vọng tâm dong ruỗi tìm cầu ở bên ngoài, buông thả cho thất tình lục dục tung hoành, ham muốn, hờn giận, ganh ghét, đố kỵ, nuôi lớn cái NGÃ sinh diệt…. tạo ra bao nhiêu là phiền não, nghiệp ác, cuốn hút vào vòng luân hồi không biết đến bao giờ ra khỏi. Nếu biết sống với Chơn tâm, cái Tánh sáng rỗng lặng đó, từng giây từng phút, không chạy theo vọng tâm lăng xăng do không gian vật chất thay đổi, không vướng mắc gì với những thứ sinh diệt phù du hư dối bên ngoài, thì chính ngay hiện tại cuộc sống này ta đã thấy Phật, “thấy Phật” tức là đã sống trong Niết bàn. Ngay cả thời gian cũng là một thứ luân chuyển không ngừng, sinh diệt, thay đổi, hư dối, mới giây trước chưa kịp gọi là hiện tại,giây sau đã biến thành quá khứ, không cố định một chỗ, làm cho ta thấy khi xưa trẻ mà nay đã già. Còn trẻ đẹp thì vui sướng, thấy già héo thì buồn phiền. Nếu ta hiểu thời gian cũng là sinh diệt, hư dối, thì còn trẻ còn đẹp không mừng, mà già nua sắp chết cũng không lo, tâm ta không vướng mắc âu lo sợ hãi buồn phiền nữa. Tâm mà không vướng mắc vào đâu nữa thì thênh thang bao la, ung dung tự tại. Chính đó là cõi Vô ưu, cõi Phật, cõi Niết bàn.

Hầu hết Phật tử tại gia, không biết làm sao để thoát ra vòng luân hồi, vì nặng nợ gia đình con cái, không có cơ duyên và khả năng nghiên cứu kinh sách Phật giáo, hiểu được cái lý Bát Nhã, “minh tâm kiến tánh”, chỉ biết đi chùa, cúng tăng, gieo duyên lành với Phật, làm phước thật nhiều để mong được phước mà thăng hoa lên trong những kiếp sau. Nhưng làm phước thì được phước, sinh vào cõi Trời, hay cõi Người giàu có sống lâu, hưởng lạc một thời gian rồi lại phải đọa lạc xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, lại tiếp tục làm phước để ngoi lên, rồi cũng chỉ trồi lên trụt xuống lẩn quẩn trong vòng luân hồi không biết ngày nào ra, rất là mất thì giờ...Ít ai hiểu rằng muốn thoát khỏi luân hồi vĩnh viễn, phải tránh vướng mắc vào những thứ có tánh chất sinh diệt, do nhân duyên kết hợp tạo thành, như 4 tướng: NGÃ, NHƠN, CHÚNG SANH, THỌ GIẢ. Đừng cho cái TA là thực, NGƯỜI đang nói chuyện với ta là thực, cảnh bên ngoài là thực, cảm giác là thực. Những thứ đó không có bản chất cố định, thay đổi sinh diệt luôn luôn, có đó không đó, khi nhỏ khi lớn, khi khoẻ khi bịnh, khi chết khi sống, khi tươi khi héo, khi giàu khi nghèo, khi buồn khi vui, khi thương khi ghét…Cái gì có đối đãi 2 bên như vậy thì vô thường, hư dối. Phải đừng chấp trước vào CẢNH, vào pháp hữu vi, vào cái mà giác quan ta cảm nhận, vì chúng thay đổi, sinh diệt từng sát na. Bám vào cái sinh diệt thì thân ta phải theo đó mà sinh diệt theo. Phật giáo gọi Cảnh là 6 Trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Con người có 6 Căn (MẮT, TAI, MŨI, LƯỠI, THÂN, Ý). Khi 6 Căn tiếp xúc với 6 Trần thì nảy sinh ra 6 Thức, tức là cái cảm giác sung sướng hay đau khổ buồn rầu do 6 sự va chạm đó tạo ra. Khi sắc đẹp (Trần) dính vào con mắt (Căn) thì cảm giác “ưa thích” bắt đầu nảy sinh(Thức). Khi tiếng chửi mắng (Trần) lọt vào lỗ tai (Căn) thì cảm giác “tức giận” bắt đầu nảy sinh. Khi Thức (Vọng tâm) vừa chớm nảy sinh, ưa thích hay ghét sợ,mê say hay tức giận, phải lập tức ngưng ngay cái cảm giác sinh ra do sự va chạm đó. Nếu duy trì cái cảm giác sung sướng đó (như ăn thấy ngon, mặc thấy đẹp, mừng làm chủ nhà cửa, tài sản lớn, thấy khoái khi nghe lời êm dịu, khi ôm ấp sắc đẹp, thấy đê mê khi hưởng thú vui xác thịt) thì sanh tâm THAM, mê say, nịnh bợ, ve vuốt, tìm cách chiếm đoạt. Nếu cái cảm giác đó gây khó chịu (như bị người chửi mắng, làm nhục) thì sanh tâm SÂN, chửi bới, trả thù, giết hại cho bỏ tức. SI là không hiểu lý lẽ dính mắc ô nhiễm này, không biết hàng phục tâm, không biết ung dung tự tại sống với chân tâm, cứ cắm đầu chạy theo vọng tâm. Vì Si nên mới sinh ra THAM và SÂN. AI khen làm sướng tai ta thì ta khoái chí, ưa mến người đó, ai chê bai mắng chửi thì tức giận, tìm cách trả thù…do đó tạo ra vô số nghiệp ác. Từ đó quay lăn trong vòng luân hồi. Muốn chấm dứt luân hồi phải NGƯNG ngay ở chỗ móng tâm ưa thích hay ghét bỏ khi Căn vừa chạm Trần, sinh ra THỨC. Thức là Vọng tâm.Yêu hay ghét đều là vọng tâm, tạo Nghiệp, mắc vào luân hồi. Đừng vướng mắc vào cái ưa thích hay ghét bỏ đó, thì chấm dứt Nghiệp..

Khi Phật Thích ca thành đạo, quan sát thấy căn cơ chúng sanh quá thấp kém, còn chấp có hai bên trong vòng Nhị nguyên đối dãi, chấp có Thiện có Ác, có Tốt có Xấu, có Sinh có Tử,có Thương có Ghét…..mà Đạo Ngài tìm ra thì Bất nhị, không có hai bên, quá cao siêu, trừu tượng, Ngài đã buồn rầu toan nhập Niết bàn, không muốn đi giáo hóa chúng sanh. Đến khi chư thiên xúm lại nài nỉ, khuyên lơn, thuyết phục, Ngài mới phải nhận lời đi giáo hóa, nhưng chọn những bài học đơn giản thích hạp với căn cơ con người, chấp nhận sự việc thấy nghe trước mắt, ưa thích phân biệt so sánh tốt xấu, thích có đối đãi hai bên sướng khổ như bài học”Tứ diệu đế”, nói về KHỔ, tại sao KHỔ, cách thức diệt Khổ, tu để thoát khổ. Nói về giới luật (sát sanh, ăn cắp, nói láo là xấu, phóng sanh, bố thí, ái ngữ là tốt), nói các phép Quán về xác chết hôi thối để diệt lòng tham dục, quán về xương trắng ở bãi tha ma để hiểu lý vô thường, xa lìa đam mê vật chất, nói về Bát chánh đạo, về quán sát nội tâm, về Thiền định... Nói về chứng được các đẳng cấp A na hàm, Tu đà hoàn, A la hán…ra khỏi vòng luân hồi, nói về đắc được các phép mầu, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, về Vọng tâm và Chân tâm….Khi nhận thấy căn cơ lãnh hội các đệ tử đã khá cao, bấy giờ Ngài mới nói đến việc Phá chấp, đến Kinh Kim cang Bát nhã, không có cái cấp bậc gì để ĐẮC hay MẤT, không có Người có Ta, không có Năng (người làm) hay Sở (việc bị làm), không có cái gì hết. Nếu chấp là có, thì Tâm sẽ vướng mắc, sinh diệt, trôi lăn trong dòng sinh tử.

Chẳng hạn, trong kinh Kim Cang, ta thấy hầu như luôn luôn đức Phật nhắc đi nhắc lại một điệp khúc khó hiểu như vầy:
-“Này Tu bồ đề, Bồ tát trang nghiêm cõi Phật, mà không thấy mình có trang nghiêm cõi Phật, ấy gọi là trang nghiêm cõi Phật.”
-Bồ tát bố thí mà không thấy mình có bố thí, ấy gọi là Bố thí.
-Như lai gọi là Thân lớn, mà không phải là Thân lớn, ấy gọi là Thân lớn.
Phật cũng hay dựa vào lòng tham của con người để nói về phước đức, vì ai cũng ham có nhiều phước đức để kiếp sau khỏi khổ, để hưởng thụ giàu sang. Làm phước phát xuất do lòng từ bi thì tốt, nhưng để mong cầu hưởng phước trở lại là cái tham vi tế. Do đó, Phật khuyên chúng sinh tu Huệ bằng cách so sánh hai loại phước đức, phước hữu vi và phước vô vi. So sánh phước đức trì tụng Kinh với phước đức bố thí thân thể (hay châu báu vàng bạc) qua vô số kiếp như số cát sông Hằng Hà. Trì tụng không có nghĩa là đọc như con vẹt, mà là ghi nhớ và theo đó mà hành động áp dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều người không hiểu rõ lý này, cứ cắm đầu tụng kinh, đến chết cũng chưa giác ngộ. Hãy nghe những điệp khúc như vầy:
-“Này Tu bồ Đề, ví như có người bố thí châu báu trải qua vô số kiếp nhiều như số cát sông Hằng, như thế phước đức có nhiều không?
-Bạch Thế tôn, rất nhiều.
-Nhưng nếu so với phước đức của người trì tụng Kinh này, thậm chí chỉ đọc tụng một bài kệ 4 câu rồi giải nói cho người khác nghe, thì phước đức của người này còn hơn người kia rất nhiều. Tu bồ đề, Như lai nói có phước đức nhiều mà thực ra không có phước đức nhiều, ấy gọi là phước đức nhiều.
Tại sao Phật hay nói tới nói lui những sự lẩn quẩn như vầy? Là vì bố thí vật chất chỉ mang lại phước đức trong vòng hữu vi, sanh lên cõi Trời sung sướng một thời gian rồi lại rơi xuống chịu khổ, khổ quá loay hoay tu lại để lên, trong khi một người hiểu được giáo pháp mà giác ngộ thành Phật thì vĩnh viễn ra khỏi luân hồi. Thành Phật còn có thể phát tâm hóa độ thêm nhiều chúng sinh khác nữa. Và khi thành Phật mà vẫn không thấy mình thành Phật, mới gọi là thành Phật, vì không còn chấp hai bên “chưa thành” và “thành rồi”. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ môn, Phật cũng đề cao phước đức thờ phụng ngài Quan thế âm Bồ tát vượt hơn hẳn tất cả phước đức thờ phụng cúng dường hằng hà sa số các đức Phật khác. Cầu xin Quan thế âm bồ tát thì xin gì được nấy, muốn gì được nấy. Ý nghĩa này ra sao? Có phải vì là Phật đàn bà nên Ngài mủi lòng xúc động, từ bi nhiều hơn Phật đàn ông? Không phải, Phật vốn không có phái nam phái nữ, nhưng vì người đàn bà trong gia đình bản chất hiền từ, dịu dàng, bao dung, thông cảm hơn người đàn ông, nên nghệ nhân tạc tượng Ngài ra hình dáng người mẹ hiền trong nhà, hy sinh tất cả vì con. TỪ BI là gốc của đạo Phật. Chúng sinh trầm luân trong bể khổ. Mục đích của đạo Phật là cứu khổ. Hết khổ gọi là Giải thoát.. Vì Quan thế âm bồ tát phát lời nguyện lớn cứu hết khổ nạn, tượng trưng cho lòng ĐẠI BI, lòng thương xót cứu độ chúng sanh muôn loài thoát khổ. Người nào nuôi dưỡng lòng từ bi thương xót cứu khổ chúng sanh chính là một Quan thế âm bồ tát tại thế, không cần vô chùa lạy tượng Quan thế Âm, không cần mua hương hoa thờ cúng xin xỏ Ngài. Người đó sẽ được muôn loài biết ơn, Trời người ủng hộ, không bị tai họa nào có thể xảy đến cho mình. Nhưng đạo Phật có LÝ, có SỰ. Xét về LÝ thì như vậy, tâm mình là từ bi thì mình là Phật, Phật mà còn đi lạy Phật khác ở chỗ này chỗ kia làm chi. “Cúng dường chúng sanh tức là cúng dường chư Phật” kia mà, đã có tâm Phật luôn luôn thương tưởng cứu vớt chúng sanh thì cần gì vô chùa cúng dường nữa. Nhưng xét về SỰ thì việc thành kính lễ lạy cầu xin Phật vẫn có những sự linh ứng bất khả tư nghì. Nếu ai không có lòng tin, tự cho mình là có đầu óc khoa học, không tin những việc gì không thấy bằng con mắt thịt nhục nhãn, thì nên tự hỏi như vầy: cúi lạy cha mẹ, ông bà, ân nhân, ta còn làm được, cúi đầu chào một người tốt giúp đỡ xã hội, ta còn làm được, tại sao cúi lạy thành kính ngưỡng mộ các vị có hạnh nguyện siêu phàm cứu độ chúng sanh lại không được, lại không phải là một chuyện nên làm.

Một vị xuống thế gian thị hiện làm Thái tử, lìa bỏ tất cả công danh phú quí để tìm ra con đường thoát khổ vĩnh viễn cho chúng sanh (Thích Ca), một vị giàu lòng từ bi, nguyện nghe khổ ở đâu đều tìm đến cứu vớt (Quan thế âm), một vị có lời đại nguyện bao la “Nếu ta không độ hết tất cả chúng sanh trong Địa ngục thì ta nguyện không thành Phật” (Địa tạng vương), chưa kể một vị nữa, một vị tạo ra một cõi Tây phương cực lạc sung sướng đón tiếp tất cả những chúng sanh nào phát tâm niệm Phật “nhất tâm bất loạn” sinh về cõi ấy để tiếp tục tu lên thành Phật (A di Đà). Vị Phật này đưa ra pháp môn Tịnh độ dễ tu, dành cho chúng sanh kém phước sinh vào thới mạt pháp này dựa vào tha lực mà khỏi chìm xuống bể khổ. Chúng ta hãy mau lìa bỏ vọng tâm, sống với chơn tâm rộng lớn thênh thang có sẵn trong ta, để thường xuyên thấy các vị Phật ấy ngay trong kiếp sống này.

PHC
Về Đầu Trang
Admin



Ngày tham gia: 23 Oct 2007
Số bài: 2270

Bài gửiGửi: Thu Sep 24, 2009 11:49 pm    Tiêu đề:

Lìa vọng tâm thì thấy Phật !!! Các đấng bề trên đã hy sinh và thệ nguyện cứu độ chúng sanh , mà chúng sanh thì cứ ngụp lặng trong bể khổ...

Làm thế nào để hết khổ??

Lìa bỏ vọng tâm giác ngộ !!

Cám ơn PHC đã chia sẻ. Mong sẽ được đọc thêm nhiều bài hay hơn của anh .


:gomo:
Về Đầu Trang
Thất Pháp



Ngày tham gia: 01 Aug 2009
Số bài: 134

Bài gửiGửi: Fri Sep 25, 2009 12:46 am    Tiêu đề:

Bài viết hay quá !

Thưa thầy và các bạn cho em được ghé vào cùng đàm đạo.

Trích: "một vị có lời đại nguyện bao la “Nếu ta không độ hết tất cả chúng sanh trong Địa ngục thì ta nguyện không thành Phật” (Địa tạng vương)"

Đó là lời nguyện của Phật A Di Đà.

Thật ra, kinh văn Kim Cang cũng có đoạn nói giống như  kinh Địa Tạng Vương.

"Giải thoát cho vô số, vô lượng, vô biên chúng sanh như thế, mà kỳ thực ta không thấy có chúng sanh nào được giải thoát"

Câu kinh này theo Thất Pháp được gọi là trọng tâm của kinh Kim Cương.

Bố Thí là một hạnh lớn trong lục ba la mật. Có 3 loại Bố Thí:

1- Tài thí: bố thí tiền bạc của cải
2- Pháp Thí: bố thí những bài kinh bài kệ.
3- Vô úy thí: Bố thí an ninh. Vô úy có nghĩa là không sợ hải. Bồ tát Quan Thế Âm còn được gọi là Vô Úy Bồ Tác, chuyên ban phước khi chúng ta sợ hải. Bồ tác nghe được tất cả âm thanh đau khổ trên thế gian này.

Bố Thí làm sao tự nhiên như hơi thở của mình, bố thí mà mình không biết mình đang bố thí gia ơn cho ai.
Về Đầu Trang
DIEU DUC



Ngày tham gia: 03 Oct 2008
Số bài: 1032

Bài gửiGửi: Fri Sep 25, 2009 1:16 am    Tiêu đề:

Xin gởi đến thầy Phạm Hoàng Chương lời cảm ơn thành kính của một người cầu học đạo .
Học và Hành , một quãng đường quá xa  mà rất nhiều khi chúng ta phải đi hết từ
kiếp này đến kiếp khác .
Rất mong thầy viết tiếp khi thuận duyên .
Thân kính ,
Diệu Đức
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tôn Giáo Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân